VIETHAMVUI

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 12:35 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 6 - Chương 3: Cao trào quấy rối lần thứ nhất phản công đại lục của Tưởng Giới Thạch



    Đừng quên ở Cử, phản công đại lục là giấc mộng kê vàng đẹp đẽ của Tưởng Giới Thạch, thế nhưng Tưởng không phải là chàng thư sinh, tỉnh giấc mộng ở trong quán cơm Hàm Đan, mà nồi cháo kê vẫn còn chưa chín. Giấc mộng phản công của Tưởng Giới Thạch mới chợp mắt đó mà đã mấy chục năm.Mùa hè thu năm 1949, tập đoàn Tưởng Giới Thạch sau khi rút chạy về Đài Loan và các hòn đảo nhỏ miền duyên hải, lập tức bắt đầu các cuộc quấy rối quân sự và các hoạt động phá hoại đối với đại lục. Căn cứ vào sự tiết lộ của Đương đại Trung Quốc - quân sự quyển, những hành động tác chiến quấy rối đại lục của quân đội Quốc dân đảng, bắt đầu từ năm 1949, đến năm 1969 đã cơ bản kết thúc, trải qua 20 năm. Trong thời gian này, từ mùa thu năm 1949 đến năm 1966, quân đội Quốc dân đảng, trước sau đã điều động hơn 54.000 người, tiến hành hoạt động quấy rối trên bờ đại lục tới hơn 400 lần, đối với sáu tỉnh và thành phố miền duyên hải ở phía bắc bắt đầu từ Sơn Đông, phía Nam tới Quảng Đông. Đồng thời với điều này, bộ phận tàn quân Quốc dân đảng tan tác chạy qua Miến Điện cũng đã nhiều lần phản công Vân Nam. Trong đó từ năm 1950 đến năm 1953 và từ 1962 đến 1964 là hai lần của cao trào quấy rối phản công. Cao trào lần thứ nhất chủ yếu dùng quân đội vũ trang quy mô vừa và nhỏ số lượng từ vài trăm quân tới trên vạn quân tới xâm phạm quấy rối. Cao trào lần thứ hai dùng đơn vị đặc vụ võ trang cỡ nhỏ từ 10 người trở lên tới vài chục người với đặc trưng là xâm nhậm và quấy rối. Sau năm 1966, quân Quốc dân đảng dùng phương thức chủ yếu là cử bọn đặc vụ lẻ tẻ, tiến hành hoạt động phá hoại đối với đại lục. Quân giải phóng nhân dânvới sự phối hợp với đông đảo quần chúng nhân dân, dân binh và bộ đội côg an, đã đánh những đòn nặng nề vào các hoạt động phản công quấy rối của quân Quốc dân đảng và đã giành được những thắng lợi toàn diện.Đầu năm 1950, hoạt động phản công đại lục của quân đội Quốc dân đảng dùng phươmg thức chủ yếu là cử quân chính quy, phỉ biển và đặc vụ võ trang vượt biển lên bờ tiến hành phá hoại. Vào thời kỳ này tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã lợi dụng cơ hội quân dân đại lục dốc sức vào các hạng mục công tác trọng tâm là thanh trừ tiếu phỉ đặc vụ; tiến hành cải cách ruộng đất và chống Mỹ viện Triều v.v..đã không ngừng cho quân đội Quốc dân đảng, tiến hành lên bờ hoạt động quấy rối với quy mô vừa và nhỏ đối với đại lục, đặc biệt là khu vực miền duyên hải Đông Nam. Sự phản công ở thời kỳ này cũng có thể phân làm 4 giai đoạn.Giai đoạn thứ nhất là từ mùa thu năm 1949 tới tháng 6 năm 1950, để kiềm chế phát triển thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng của quân giải phóng nhân dân, cản trở công cuộc giải phóng Trung nam, Tây Nam và các hòn đảo miền ven biển, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã từng cử số lượng phỉ biển, đặc vụ, xâm phạm vào khu vực duyên hải đại lục, tiến công vào các hòn đảo miền ven biển Triết Đông. Thế nhưng tất thảy các hoạt động quấy rối đó đều bị đập tan. Những cuộc tác chiến chủ yếu của giai đoạn này có:Ngày 15 tháng 1 năm 1950, hơn 200 quân Quốc dân đảng đảo Hải Nam lẻn vào xâm phạm huyện Từ Văn đoạn phía nam bán đảo Lôi Châu, đã bị quân giải phóng tiêu diệt toàn bộ, phó sư trưởng Trần Hồng Lương và 160 người bị bắt sống.Ngày 25 tháng 1 năm 1950, quân Quốc dân đảng ở đảo Kim Môn cử Đội du kích Lưỡng Long (Long Vân, Long Nham) đã bị quân giải phóng tiêu diệt toàn bộ ở khu vực Bình Hòa, Nam Tịnh, băt sống tên thiếu tướng Tư lệnh Hạ Thiếu Lương và hơn 100 tên.Ngày 15 tháng 3 năm 1950, Quốc dân đảng trên đảo Đại Trần đã cử Đại đội đột kích thứ nhất Triết Nam do Vương Trương Nghĩa dẫn dầu với hơn 900 quân, mò lên đại lục vùng ven biển Tùng Môn huyện Ôn Lĩnh Triết Giang, vấp phải sự đánh trả ngoan cường của một tiểu đoàn, sáu trung đoàn cảnh vệ quân phiên khu Ôn Châu và một đại đội huyện Ôn Lĩnh của quân giải phóng, bắn chết bắn bị thương trên 100 người, về sau lại vấp phải sự vây đánh của hai trung đoàn quân giải phóng, sau khi toàn bộ đột phá vòng vây đã hốt hoảng lao xuống biển chạy trốn.Ngày 13 tháng 5 năm 1950, tập đoàn Tưởng Giới Thạch Đài Loan đã cử trung đội 1, trung đội 2 Quân chống Cộng cứu nước nhân dân khu Sơn Đông tổng cộng 105 tên đặc vụ vũ trang, leo lên từ cửa biển phía đông Tiểu Trang núi Đại Châu huyện Giao Nam, đã bị bộ đội bảo bệ biển, công an vũ trang, nhân dân hiệp đồng bao vây tiêu diệt, đến ngày 17 tổng cộng đã bắn chết 4 tên, bắt sống 97 tên, chỉ có 4 tên không rõ dấu vết trốn ở đâu.Ngày mồng 2 tháng 6 năm 1950, bọn phỉ biển ở trên đảo Phi Sơn Triết Giang do Lã Vị Tường dẫn hơn 600 tên đánh trộm Đảo Ngọc Hoàn, bị tiêu diệt hơn 100 tên, số còn lại đều chạy trốn tháo thân.Giai đoạn thứ hai là từ tháng 7 năm 1950 đến cuối năm. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, hạm đội 7 hải quân và đội hàng không thứ 13 của không quân Mỹ đã tiến vào đóng ở Đài Loan, cục thế ở eo biển Đài Loan trở nên vô cùng căng thẳng và phức tạp. Tập đoàn Tưởng Giới Thạch được sự cổ vũ của sự can thiệp vũ trang nước Mỹ, đã tăng cường thêm một bước hoạt động xâm phạm, chúng đã điều chỉnh biên chế toàn diện quân đội Quốc dân đảng ở Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, đem phiên hiệu vốn có của 20 quân đoàn, biên chế thu nhỏ thành 12 quân đoàn, lại làm thành 6 sư đoàn độc lập. Đồng thời, đem đội hải phỉ vũ trang Đông nam nhân dân Cứu quốc quân cải biên thành Trung Hoa phản Cộng cứu quốc quân. Sau khi trải qua cuộc chỉnh biên, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã sắp xếp hơn 7 vạn binh lực ở trên hơn hai mươi hòn đảo chưa giải phóng ở ven biển Phúc Kiến, Triết Giang, trong đó riêng hai đảo Kim Môn, Mã Tổ đã có hơn 6 vạn quân chính quy. ở ven biển Quảng Đông, lúc đó quân Quốc dân đảng còn chiếm giữ mấy hòn đảo nhỏ ở đảo Nam Bằng và quần đảo Vạn Sơn. Quân Quốc dân đảng đã dùng những hòn đảo này làm căn cứ tiến hành các loại hoạt động quấy rối và phá hoại đối với đại lục và những hòn đảo đã được giải phóng ở vùng ven biển. ở giai đoạn này, quân giải phóng nhân dân đã căn cứ vào các hòn đảo ven biển mà quân Quốc dân đảng coi làm trọng điểm xâm phạm quấy rối, hết sức mở rộng tình hình trận địa ở trên biển, dùng biện pháp kết hợp giữa công và thủ, vừa tiến hành tiễu trừ tàn dư của bọn Quốc dân đảng chạy trốn ở trên các hòn đảo, vừa đánh trả những hoạt động quấy rối ở trên các hòn đảo đã được giải phóng.Ngày 12 tháng 7 năm 1950, hai tiểu đoàn của sư đoàn 62 bộ binh giải phóng quân chia nhau ngồi trên hai chiến hạm đổ bộ lên đất liền, do bốn pháo hạm hộ tống đi biển lợi dụng thời cơ Quốc dân đảng từ Phi Sơn và Đảo Nhất Giang Sơn điều động binh lực tăng cường phòng vệ cho Đảo Đại Trần, suốt đêm vượt biển, xông tới đánh Phi Sơn, qua chiến đấu ác liệt, tổng cộng đã tiêu diệt trên 500 quân Quốc dân đảng, bắn chìm một tàu pháo hạm của Quốc dân đảng, bắt giữ 4 chiếc thuyền tàu các loại. Từ trung tuần tháng 7 đến trung tuần tháng 8, bộ đội giải phóng quân đóng ở Triết đã tiêu diệt hơn 600 tên Quốc dân đảng giữ ở đảo Bắc Kỳ. Bộ đội đóng ở Mân đã tiến đến tập kích hai đảo Tây Dương và Phù Ưng; Bộ đội đóng ở Việt đã giải phóng được đảo Nam Bằng.Sáng sớm ngày 20 tháng 11 năm 1950 tên phỉ biển ở Phi Sơn là Lữ Vệ Tường lại dẫn hơn 800 tên chia thành 3 đường từ đảo Ngọc Hoàn Triết Giang trèo lên đất liền, một độ đã chiếm lĩnh Thành huyện Ngọc Hoàn và phần lớn khu vực ở đảo này. Hai trung đội của đại đội canh gác huyện Ngọc Hoàn của Giải phóng quân, đã độc lập chặn đánh bọn phỉ biển suốt 7 giờ đồng hồ; hai đại đội của sư đoàn 61 bộ binh đóng ở Sở Môn, đã lội nước ở bãi nông eo biển hơn hai chục dặm, leo lên đảo kịch chiến 6 giờ liền, phối hợp với quân đóng trên đảo tiêu diệt 180 tên hải phỉ, đã chiếm lại đảo Ngọc Hoàn.Giai đoạn thứ ba từ đầu năm 1951 đến cuối năm. Đầu tháng giêng năm 1950, để phối hợp với quân Mỹ, tấn công toàn tuyến vào quân đội nhân dân Trung Triều ở chiến trường Triều Tiên, tập đoàn Tưởng Giới Thạch chuẩn bị dùng 25 vạn binh lực đột phá Hạ Môn và Sán Đầu, mở ra chiến trường thứ hai để kiềm chế giải phóng quân; đồng thời hạ lệnh cho tàn quân Quốc dân đảng lẩn trốn ở Bắc Miến phản công vào Vân nam để tiếp ứng cho bọn thổ phỉ ở các nơi vùng Tây Nam, nhằm khôi phục Tây Nam. Thế nhưng do vì ở khu vực Đông Nam giải phóng quân phòng giữ nghiêm mật, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đành phải vứt bỏ ý đồ lên đất liền xâm phạm quấy rối với quy mô lớn, tiếp tục tiến hành lên đất liền xâm phạm quấy rối với quy mô vừa và nhỏ. Thế nhưng đặc điểm bọn Quốc dân đảng xâm phạm quấy rối ở khu vực ven biển Đông Nam trong giai đoạn này là chuyển hướng vào khu vực miền núi ở trong đất liền, hòng xây dựng những căn cứ địa địch hậu. Tập đoàn Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan trước sau đã thành lập được Bộ tổng chỉ huy quân chống cộng cứu nước Phúc Kiến ở Đảo Kim Môn, thành lập được Tổng bộ chỉ huy quân chống Cộng cứu nước nhân dân Giang Triết ở đảo Đại Trần, thành lập được ẹy ban công tác địch hậu và Bộ Tổng chỉ huy du kích đại lục ở Đài Loan, đã xây dựng được Ban huấn luyện thủ lĩnh Du kích, tổng cộng đã huấn luyện được hơn một vạn tên thổ phỉ vũ trang, chuẩn bị phân nhau tiến sâu vào hoạt động trong đại lục, đợi thời cơ phối hợp với tập đoàn Tưởng Giới Thạch phản cộng đại lục.Từ tháng 6 trở đi, tập đoàn Tưởng Giới Thạch có kế hoạch tổ chức phân công bọn phỉ biển đi sâu vào quấy rối ở vùng núi đất liền, mưu đồ Xây dựng lại khu du kích, Căn cứ địa du kích. Từ tháng 6 đến tháng 8, chúng đã cử đội vũ trang lớn tổng Cộng có 6 đội lên tới hơn 800 người, từ huyện Quỳnh Hải đảo Hải Nam, huyện Tượng Sơn, huyện Lạc Thanh tỉnh Triết Giang và huyện Huệ An tỉnh Phúc Kiến, thế nhưng đại bộ phận đều bị tiêu diệt, có đến mà chẳng có về.Ngày mồng 4 tháng 9, hơn ba vạn tên Đội chống cộng cứu nước tỉnh Phúc Kiến trên đảo Ô Khâu, dưới sự lãnh đạo của Đô Sát Trưởng Cục cảnh sát huyện Tiên Du, Trần Lệnh Đức Tư lệnh Tung đội Tuyền châu và huyện trưởng huyện Đức Hóa, Tư lệnh tung đội Vĩnh An Trần Vĩnh a, đã chia làm hai cánh quân từ huyện Huệ An Phúc Kiến bước lên đất liền, vượt qua đường quốc lộ Phúc Hạ tiến về phía Tây, hòng xâm nhập quấy rối tới vùng núi Đới Vân, Dần dần thi hành nhiệm vụ phản công đại lục, thế nhưng đã bị mấy nghìn quân giải phóng và mấy vạn dân quân bao vây tiêu diệt. Tung đội Tuyền châu ỷ vào ưu thế hỏa lực súng cơ giới kiểu Mỹ đã thoát khỏi sự cản trở của dân quân. Tung đội Vĩnh An hóa trang thành quân giải phóng, mạo xưng là bộ đội tiễu phỉ thế nhưng vẫn không thể thoát ra khỏi thiên la địa võng bao vây tiễn trừ của quân giải phóng. Ngày mồng 6 và mồng 7 tháng 9, hai cánh quân thổ phỉ này đều bị bao vậy chia cắt, Trần Vĩ Bân bị bắn chết ở núi Thất Khâu, Trần Lệnh Đức hóa trang thành hòa thượng đi hóa duyên để tìm đường chạy trốn, thế nhưng cũng không thể lừa nổi những dân quân canh gác chặn giữ. Đến hạ tuần tháng 9, hai cánh quân này xưng hiệu là Tung đội vũ trang, tổ chức thành những Tình báo viên vạn năng trang bị kiểu Mỹ, ngoài 8 tên chạy thoát ra, số còn lại đã bị hoàn toàn tiêu diệt.Trong giai đoạn này, tập đoàn Tưởng Giới Thạch, đồng thời với việc tiến hành thọc sâu quấy rối vào trong lục địa ở khu vực ven biển phía đông nam, tập đoàn Tưởng Giới Thạch cũng tổ chức chỉ huy bộ đội tàn dư quân Quốc dân đảng và thổ phỉ địa chủ ác bá trốn sang Miến Điện, Việt Nam và Lào tiến hành vũ trang quấy rối ở biên giới Vân Nam.Tàn dư quân Quốc dân đảng chạy trốn chiếm giữ miền bắc Miến Điện là quân đoàn 8, quân đoàn 26 nuôi quân đoàn một trung đoàn bị tiêu diệt trong chiến dịch Điền Nam tổng cộng hơn 1400 người. Tháng 9 năm 1950, Tưởng Giới Thạch cử Lý Di (nguyên là quân đoàn trưởng quân đoàn 8, tư lệnh binh đoàn thứ 13) tới Bắc Miến Điện chủ trì đám tàn quân, đã thành lập Vân Nam nhân dân chống cộng Cứu quốc quân. Đầu năm 1951 đã phát triển tới trên 13500 quân. Tàn quân Quốc dân đảng chạy trốn sang chiếm cứ phía bắc Việt Nam có quân đội của Chu Quang Lộc, quân đội của Dương Quốc Hoa, quân đội của Hạ Quang Dung, cũng là đám tàn quân lẻ tẻ lọt lưới trong chiến dịch Điền Nam đã hỗn độn tổ chức đội thổ phỉ vũ trang của tổ chức địa chủ ác bá, tổng cộng có hơn 2 vạn tên Đoàn biên chế mới độc lập của chống Cộng cứu quốc quân chạy sang chiếm cứ miền bắc Lào ở núi Tháp Lạc, lấy vũ trang của địa chủ ác bá làm chính, tổng cộng có hơn 700 người. Chúng đều nghe lệnh của Lý Di ngồi trấn giữ ở miền bắc Miến Điện. Đầu tháng 5 năm 1951 từ phía bắc Việt Nam, Lào, Miến Điện tiến hành đợt kích quấy rối vùng biên giới Vân Nam.Trong rất nhiều hoạt động phản công tiến hành vào năm 1951 của tập đoàn Tưởng Giới Thạch, bọn tàn quân ở biên giới Trung Miến, Trung Việt, Trung Lào do Lý Di chỉ huy, điên cuồng quấy phá Vân Nam là một lần quy mô lớn nhất, thời gian dài nhất.Ngày 15 tháng 3 năm 1951, quân Mỹ xâm lược Triều Tiên đã chiếm lĩnh Hàn Thanh lần thứ hai. Tưởng Giới Thch được cổ vũ lớn lao, lại một lần nữa hạ lệnh cho Lý Di dẫn bọn tàn quân bắc tiến, lợi dụng Quân liên hiệp quốc đại thắng ở Triều Tiên liền vào uy bức Côn Minh. Thế nhưng do vì Lý Di từ Đài Loan đến thời gian không dài, việc chỉnh biên bọn tàn quân chưa hoàn thành, cho nên đã kéo dài mãi tới hạ tuần tháng 4 mới chuẩn bị được tạm xong cộng tác phản công. Lúc này Lý Di không những là tổng chỉ huy của Vân Nam nhân dân chống cộng cứu quốc quân, mà còn là chủ tịch chính phủ tỉnh Vân Nam và Chủ nhiệm cơ quan Tuy Tịnh Tỉnh Vân Nam, cho nên lần này hắn phản công Vân Nam còn chỉ huy cả các loại vũ trang phản động ở trong biên cảnh Vân Nam.Lý Di hạ lệnh cho phó tư lệnh Đàm Anh Ninh chỉ huy Quân chống cộng biên khu Điền Quế Kiềm hoạt động ở khu vực giáp giới Quý Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam, dẫn quân tiến công các huyện La Bình, Quảng Nam, Khâu Bắc, hòng lôi kéo giải phóng quân ở Côn Minh. Điển Tịnh tới Điền Đông; Sau đó hạ lệnh cho quân đội của Hạ Quang Vinh, quân đội của Ninh Thụy Nam tiến công Văn Sơn và Cá Cựu thu hút giải phóng quân ở mặt Khai Viễn, Ngọc Khê về hướng Điền Nam, còn hạ lệnh cho bộ đội của Tung đội thứ hai là Dương Quốc Hoa Quân chống Cộng Điền Việt ở mặt Kim Bình, Lục xuân hoạt động về phía Giang Thành, Tư Mao, thu hút giải phóng quân ở khu vực Điền Tây kéo về phía đông sông Lan Thương. Mưu đồ tính toán của Lý Di là thu hút chủ lực giải phóng quân Vân Nam kéo về phía Điền Quế, Điền Kiềm, Điền Việt, Xa rời trục đường tiến công phản công lần này để tiện cho việc dẫn chủ lực tàn quân chạy trốn sang Miến Điện tiến thẳng vào, áp sát tới Côn Minh.Lý Di biết rằng để tiện cho 4 cánh quân phỉ tác chiến phải hấp dẫn khối lượng lớn giải phóng quân tới khu vực dự định, biên giới Trung Miến cũng không thể không có giải phóng quân. Để tạo thành hình thái có lợi hơn, Lý Di đã chia Vân Nam nhân dân phản Cộng cứu quốc quân ở bắc Miến ra thành 4 đường. Đường thứ nhất 400 người từ hứng Cảnh Đống, Đả Lạc tiến công Mạnh Hải, Cảnh Hông, chiếm lấy hai huyện Thành, ngăn chặn giải phóng quân ở hướng Tư Mao chi viện cho phía nam; Đường thứ hai 2000 tên, tiến công theo hướng Mạnh Liên, Lan Thương, chiếm lấy hai huyện Thành, sau đó chuyển làm quân dự bị. Đường thứ ba 2.500 tên, chủ yếu công kích về hướng Tây Ninh. Thương Nguyên, Song Giang lâm thương, đầu tiên chiến lấy 4 huyện, sau đó phát triển theo hướng Đại Lý, Côn Minh. Con đường thứ tư 1500 tên, công kích theo hướng Trấn Khang, Vĩ Đức, sau khi chiếm đoạt lấy 2 huyện thì phát triển theo hướng Xương Ninh Phượng Khánh. Phương án của Lý Di là bảo hộ hai cánh, chủ công ở giữa, trong đó lại lấy đường thứ ba làm chính. Hắn dự tính trước hết chiếm lấy các huyện Trấn Khang, Thương Nguyên, Tây Minh, v.v..xây dựng căn cứ phản công, sau đó tiến chiếm Cảnh Mã, Song Giang, Lâm Thương, làm bước đi thứ nhất của cuộc phản công.Dưới sự chỉ huy của kế hoạch Lý Di, quân đội tàn binh Quốc dân đảng ở khu vực biên giới Trung Việt trước hết đã gây rối, tiếp đó, quân đội phỉ của Đàm Anh Ninh cũng bắt đầu vây đánh các huyện thành ở Điền Đông, quân khu Vân Nam của quân giải phóng lại cử quân đội đi tiễu trừ quân phỉ ở các nơi.Lý Di nhìn thấy thời cơ để cho tàn quân phỉ chạy sang Miến Điện nhập cảnh quấy rối đã tới, liền dẫn hơn 6000 quân kéo vào Điền Tây ngông cuồng tuyên bố trong ba tháng sẽ chiếm được Côn Minh, nghênh tiếp chính phủ Trung ương rời về Tỉnh Điền, rồi lần lượt chiếm lĩnh các huyện thành Cảnh Mã, Mạnh Liên, Mãnh Hải, Trấn Khang v.v...và các khu vực bộ phận. Chính trong lúc Lý Di đắc chí mưu ý, đòi Đài Loan khen công tặng thưởng, quân khu Vân Nam của giải phóng quân đã tuyên bố mệnh lệnh tác chiến tiêu diệt quân Quốc dân đảng vào quấy rối. Bắt đầu từ thượng tuần tháng 6, các cánh quân giải phóng quân lần lượt bao vây tiêu diệt hơn 800 tên Quốc dân đảng từ Bắc Miến xâm nhập vào, số còn lại đều chạy trốn ra nước ngoài vào cuối tháng 6. Trung tuần tháng 7, do vì quân Mỹ ở Triều Tiên lại một lần nữa vượt quá Vĩ Tuyến 38, mũi nhọn đã đạt tới đường Kim Hóa, Cán Thành, cục thế bất lợi cho chí nguyện quân Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch đã đánh điện hạ lệnh cho Lý Di lại một lần nữa phản công Vân Nam. Tức thì sau một thời gian ngắn chỉnh đốn và biên chế lại tổ chức, Lý Di lại một lần nữa xâm phạm quấy rối Vân Nam, chiếm lĩnh huyện thành Thương Nguyên và Mạnh Liên. Quân giải phóng sử dụng chiến thuật dụ địch vào sâu, khi chúng tiến sâu vào biên cảnh ở một mức độ nhất định, liền cắt đứt con đường phía sau của chúng, dùng binh lực ưu thế tiến hành bao vây tiêu diệt, truy đuổi tiêu diệt và thanh trừng tiêu diệt, lại tiêu diệt hơn 200 tên địch, Lý Di dẫn toàn quân lại một lần nữa chạy trốn sang bắc Miến vào hạ tuần tháng 7.Trước đó, bộ đội của Dương Quốc Hoa, Ninh Thụy Nam, Hạ Quang Vinh ở Điền Nam đã bị bao vây tiêu diệt vào tháng 5, bị bắn chết hơn 100 tên, bị bắt sống hơn 400 tên. Đàm Anh Ninh ở biên khu Điền Quế kiềm bị bắn chết hơn 1200 tên dưới trướng của hắn hoặc bị bắn chết, hoặc bị bắt sống hoặc chạy tẩu tán đi khắp các nơi.Giai đoạn thứ tư bắt đầu từ năm 1952 đến tháng 7 năm 1953. Sau nhiều lần vấp phải thất bại trong việc phản công mà tập đoàn Tưởng Giới Thạch cử quân đội tiến hành hoạt động quấy rối ở trong đất liền và ở biên giới Trung Miến, từ năm 1952 trở đi, chúng đã thay đổi thủ pháp, xử dụng chiến thuật lấy lớn nuốt bé, tốc tiến tốc thoái, dùng binh lực ưu thế gấp mấy lần, hoặc mười mấy lần, với sự phối hợp của hải quân và không quân, đột nhiên tập kích đánh phá bộ đội đột suất ở bờ biển hoặc các đảo ven biển có lực lượng phòng ngự mỏng và yếu, hòng tiêu diệt bộ đội phòng bị số lượng ít của giải phóng quân. Sau khi gặp thuận lợi hoặc phát hiện bộ phận quân đội lớn của giải phóng quân được tăng viện, liền nhanh chóng rút lui. Loại thủ pháp đột kích bất ngờ lấy lớn nuốt bé này mãi cho đến tháng 7 năm 1953 bị thất bại thảm hại sau khi xâm phạm đảo Đông Sơn mới bắt buộc phải thu lại.Ngày 28 tháng 3 năm 1952, hơn 1000 tên lính của Hồ Tông Nam trên đảo Đại Trần, đột nhiên tập kích vào đảo Bạch Sa Sơn huyện Lâm Hải, một trung đội quân giải phóng giữ đảo đã ngoan cường đánh lại, luôn luôn dựa vào địa hình thuận lợi và trận địa đã bày ra để đánh địch, kiên trì cho tới khi bộ đội tăng viện kéo đến. Quân đội Quốc dân đảng tiến vào xâm phạm sau khi tổn thất hơn 200 tên mới lên thuyền chạy trốn.Ngày 10 tháng 6 năm 1952, Hồ Tông Nam lại dẫn hơn 1200 tên lính tiến vào xâm phạm đảo Hoàng Tiêu huyện Ôn Lĩnh Triết Giang, một đại đội giải phóng quân giữ đảo, quyết giữ trận địa, kịch chiến suốt 18 giờ liền, sau đó lại phối hợp với quân đội tăng viện, tiêu diệt toàn bộ quân Quốc dân đảng chưa kịp lên thuyền chạy trốn. Trong trận chiến đấu này, quân giải phóng bị thương vong 46 người, đã tiêu diệt 310 tên lính của Hồ Tông Nam.Ngày 19 tháng 10 năm 1952, quân giải phóng nhân dân chủ động xuất kích, với binh lực của một tiểu đoàn bộ binh tăng cường và một tiểu đoàn pháo binh, qua 4 giờ vượt biển, đã chèo lên đảo Nam Bành mà quân Quốc dân đảng đánh chiếm. Sau 6 giờ kịch chiến, đã tiêu diệt 118 tên địch ở trên đảo, bắn chết tên thiếu tướng chỉ huy, thu hồi lại đảo Nam Bành.Ngày 14 tháng 12 năm 1952, hơn 1000 tên Quốc dân đảng đã tập kích lên bán đảo Lục Ngạo huyện Chương Phố tỉnh Phúc Kiến. Lúc đó giải phóng quân ở trấn Lục Ngạo chỉ có một trung đội biên phòng, họ đã anh dũng đánh trả sự tập kích của Quốc dân đảng đông gấp mười mấy lần, tiêu diệt chúng trên 100 tên, rồi tiến hành với viện quân truy kích chủng, đánh cho bọn lính tới xâm lược bạt vía kinh hồn phải tháo chạyThế nhưng, loại đột kích bất ngờ lấy lớn nuốt bé này của Quốc dân đảng cũng đã có mấy lần gặp may mắn. Trong năm 1952 chúng đã lần lượt tập kích đảo My Châu, đảo Nam Nhật huyện Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến và Ô Nhạn, Vụ Thành huyện Bình Dương Triết Giang, đều đã khiến cho bộ đội chốt giữ của quân giải phóng và quần chúng nhân dân ở nơi đó vấp phải những tổn thất nhất đình, trong đó đặc biệt là đảo Nam Nhật bị xâm phạm quấy rối rất nổi tiếng.Ngày 11 tháng 10 năm 1952, sư đoàn 14 và sư đoàn 75 mỗi sư đoàn có hai trung đoàn cùng bọn phỉ biển của Quốc dân đảng đóng trên đảo Kim Môn, tổng cộng 9000 người, chia nhau ngồi trên chiến hạm, thuyền buồm máy, dưới sự yểm hộ của 8 chiếc máy bay, lần thứ ba đã xâm phạm quấy rối đảo Nam Nhật.Đảo Nam Nhật là một hòn đảo tương đối lớn của huyện Bồ Điền ở miền đông tỉnh Phúc Kiến, từ đông sang tây dài ước 14 ki lô mét, hai đầu chỗ rộng nhất trên dưới 7 kilô mét, trong đó chỗ hẹp nhất chỉ có 700 mét. Phía đông đảo Nam Nhật gỗ ghề tương đối lớn, có các núi Đại Kiều, Cửu Trùng, Bút Giá, Chủ Mẫu đều cao hơn mặt biển tới 130 mét. Thế núi dốc đứng địa hình hiểm yếu, dễ giữ khó đánh. Phía tây đảo là những núi gò đèo đất bằng phẳng, bình quân cao hơn mặt biển trên 40 mét, ngọn núi ở sau làng ven núi nơi cao nhất mới trên 80 mét. Diện tích của đảo Nam Nhật ước khoảng 80 kilô mét vuông có hơn 60 làng, dân cư trên vạn. Đảo Nam Nhật là khu thứ 9 của huyện Bồ Điền, chính phủ khu đặt tại làng Nam Nhật thuộc phía tây Đảo.Ngày mồng 10 tháng 10, quân Quốc dân đảng Kim Môn gọi là Tiến hành cuộc đại diễn tập Lục Hải Không quân để chúc mừng quốc khánh.Sáng sớm ngày 11 tháng 10, hơn mười chiếc tầu đổ bộ và mười mấy chiếc xuồng máy lái khỏi eo biển Liệu La Kim Môn trong màn đêm, biên đội lái về phía nam. Khi trời sáng thì tiếp cận mặt biển Nam Nhật, phát hiện một chiếc thuyền đánh cá, ba chiếc tầu đổ bộ tập trung hỏa lực bắn phá. Chiếc thuyền đánh cá bị bắn trúng, cột buồm bị đổ xuống, có người bị bắn lên không trung. Một chiếc tàu đổ bộ của Quốc dân đảng lại lao về phía chiếc thuyền đánh cá, làm cho chiếc thuyền vỡ tan ra từng mảnh. Mấy ngư dân rơi xuống biển cũng bị lao chết.Hơn 9 giờ sáng, quân Quốc dân đảng rải thành một tuyến Vạn Hồ, Thổ địa bình, làng Nham Hạ cùng Đông Hộ, Tây Hộ leo lên đất liền. Một đại đội quân giải phóng dựa vào địa hình có lợi ngoan cường đánh trả, kịch chiến suốt ngày, đại bộ phận đã hy sinh oanh liệt. Sau 2 giờ chiều ngày 11, quân đội đại lục tăng viện hai tiểu đoàn lần lượt tới, cấp tốc trèo lên đảo, người trước ngã người sau kế tiếp. Một số binh sĩ của tiểu đoàn muốn leo lên từ phía sau đảo, vấp phải sự phong tỏa của hỏa lực địch, bắt buộc phải rút về. Chỉ có một trung đội trôi tới cửa eo, leo được lên bờ, lại gặp phải bọn phỉ biển. Bị kẹp trong vòng vây dày đặc của bọn địch, ngoài 8 người bị bắt sống ra, còn lại toàn bộ đều hy sinh. Đại đội 2 của tiểu đoàn lục chiến vội vã leo lên đất liền từ cửa eo Bạch Sa Dương. Sau khi lên bờ chỉ còn lại binh lực của một đại đội. Quân địch trước hết dùng sự triệt thoái để dụ cho quân giải phóng vào sâu, sau đó chúng đã bao vây chặt ở khu vực làng Thảo Bồ, Xạ thủ súng máy Lý Trung Chí đứng trước tình hình các chiến sĩ toàn trung đội đều bị tử vong hết đã xông thẳng vào đám quân địch, kéo chốt nổ một quả lựu đạn. Đại đội phó đại đội 5 Kinh Ngọc Châm, trong tình trạng các chiến hữu đều bị hy sinh hết, bản thân mình đã bị thương hai chỗ, đã quyết chiến đấu trong hai giờ liền, đánh lùi năm đợt xung phong của địch, cuối cùng đã hy sinh anh dũng.9 giờ tối ngày 12, phó tham mưu trưởng một đơn vị đã dẫn binh lực một tiểu đoàn leo lên đất liền, ngay lập tức đã gặp binh lực ưu thế của quốc dân đảng bao vây chặn đánh. Sáng sớm ngày 13 hai bên triển khai trận đánh giáp lá cà, khi trời sáng rõ, toàn bộ các chiến sĩ phần lớn đều bị hy sinh.ở trên đảo Nam Nhật đồng thời với cuộc chiến đấu đẫm máu giữa giải phóng quân và Quốc dân đảng, trên đại lục phía từ Bờ Điền tới Thạch Thành đang tranh thủ làm con đường vận chuyển quân lính, mấy vạn người ngày đêm phấn đấu, chỉ trong ba ngày đã làm xong con đường dài 60 kilômét, thế nhưng quân đội tăng viện vượt biển thì vẫn vấp phải chặn đánh của hỏa lực máy bay và đại bác Quốc dân đảng, rất nhiều thuyền gỗ bị bắn chìm, binh lực được tăng viện ở trên đảo đã ít lại phân tán, đều bị các cánh quân quốc dân đảng đánh phá.Quân Quốc dân đảng tập kích đảo Nam Nhật, đồng thời với việc bao vây tiến đánh bộ đội viện binh và bộ đội giữ đảo của quân giải phóng, chúng còn cướp bóc hãm hiếp các cư dân trên đảo, phá hoại tổ chức chính quyền địa phương. Bọn đặc vụ địch và những phần tử quản chế ác bá ở trên đảo cũng nhẩy ra, dẫn đường cho Quốc dân đảng, chỉ điểm các cán bộ đảng viên, bao vây tiến đánh các phần tử quần chúng tích cực. Trên đảo Nam Nhật gà bay chó chạy, hỗn loạn vô cùng.Thống kê sau cuộc chiến đấu, các cán bộ khu Nam Nhật chết 5 người, bị bắt 15 người; đội công an chết 3 người; tổn thất súng pạc khoọc 6 khẩu, súng lục 12 khẩu, gạo 800 cân, khoản thuế 160 vạn đồng (tiền nhân dân tệ lúc đầu xây dựng nước, 100 đồng tương đương với 1 đồng). Các con dấu của khu ủy, ủy ban khu, hội phụ nữ, 500 tờ giấy thông hành của công an Huyện cùng với các bản thống kê danh sách dân quân Đảng viên Đoàn viên đều bị cướp đi mất. Quần chúng nhân dân tổn thất mất gà 633 con, vịt 11 con, lợn 324 con, bò 3 con, quần áo 660 bộ lương thực 2835 kilô gam, cánh cửa 75 bộ, quan tài 12 chiếc, dê 10 con, còn có 11 quần chúng nhân dân bị giết hại, 43 người bị thương, 5 người bị bắt làm tù binh đẩy tới Đài Loan.Trong cuộc chiến đấu này, tổng cộng quân giải phóng tổn thất mất hơn 1300 người.Trong đêm ngày 13 toàn bộ quân Quốc dân đảng đã rút lui.Bọn Quốc dân đảng đã mấy lần hoạt động xâm phạm quấy rối theo kiểu lấy lớn nuốt bé đạt kết quả, đã khiến cho tập đoàn Tưởng Giới Thạch vênh vang tự đắc. Trên Hội nghị chiến lược bọn chúng triệu tập tháng 12 năm 1952 có tư lệnh hạm đội 7 của Mỹ tham dự, đã tuyên bố năm 1953 sẽ là năm phản công của bọn chúng, chúng sẽ tiếp tục tiến hành tác chiến phản công với quy mô đồ sộ. Thế nhưng giải phóng quân nhân dân ở các quân khu ven biển đã căn cứ vào chỉ thị của bộ tham mưu, thực sự thu hút những bài học kinh nghiệm, theo dõi chặt chẽ tình hình địch, thực sự làm tốt công tác chuẩn bị chống tập kích quấy rối, khiến cho năm phản công của tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã biến thành năm thất bại!Ngày 29 tháng 5 năm 1953, một đơn vị quân giải phóng đã tiến hành công kích chiếm luôn bốn hòn đảo như đảo Đê, núi Gà, núi Hươu lớn, Hươu bé, đã tiêu diệt hơn 230 quân Quốc dân đảng chiếm giữ Đảo, bắt sống tên thiếu tướng tư lệnh quân đoàn 42 Triết Giang nhân dân chống Cộng đột kích quân là Hà Trác Quyền. Bốn hòn đảo này nằm ở cửa biển Ôn Châu Loan, vị trí vô cùng quan trọng, trong ba năm sau khi giải phóng đại lục ở Triết Giang, giải phóng quân và bọn Quốc dân đảng từng nhiều lần tranh giành nhau 4 hòn đảo này. Sau khi quân giải phóng chiếm được 4 đảo, Tưởng Giới Thạch vô cùng tức giận, đã ra lệnh cho Hồ Tông Nam Cần phải chiếm lại ngay! Đêm khuya ngày 19 tháng 6, Hồ Tông Nam dẫn hơn 1600 quân, ngồi lên hơn 50 thuyền buồm và xuồng máy, dưới sự yểm hộ của hạm đội chiến đấu số 9 tiến hành phản công chiếm lại. Trước hết chúng dùng hỏa lực pháo tập kích khẩn cấp, tiếp đó quân chia hai đường tấn công lên đảo Dê và núi Hươu nhỏ, chúng còn muốn phát triển theo hướng núi lớn, sau cùng hợp lại đánh núi Gà. Các sĩ quan và binh lính quân giải phóng trấn giữ bảo vệ đảo dê, đã liên tục đánh tan 8 đợt xung kích của quân Quốc dân đảng, lại còn tổ chức 6 đợt phản kích, giữ chắc trận địa. Một đại đội bảo vệ núi Hươu nhỏ, đã liên tục đánh lui 7 lần xung phong của quân Quốc dân đảng. Đúng 9 giờ ngày 21, quân giải phóng bảo vệ núi Hươu lớn, bắt đầu phản công, quân Quốc dân đảng đã để mất hai trung đội có nhiệm vụ yểm hộ, chúng đã hốt hoảng tháo chạy. Trong cuộc chiến đấu gần hai ngày, quân giải phóng đã đánh tan sự phản công của quân quốc dân đảng, tiêu diệt 736 tên của chúng, bắn bị thương 5 tàu chiến địch, bắn chìm 12 thuyền địch, cả bốn hòn đảo đều được khống chế chặt chẽ trong tay giải phóng quân.Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch không cam tâm với thất bại ở Ôn Châu Loan, đã ra lệnh cho quân đội Quốc dân đảng tiếp tục chấp hành phương châm lấy lớn nuốt bé, tăng cường các cuộc xâm phạm đối với ven bờ đại lục và hải đảo. Cuộc chiến ở đảo Đông Sơn chính đã phát sinh trong bối cảnh như vậy.Ngày 16 tháng 7 năm 1953, quân Quốc dân đảng xâm phạm đảo Đông Sơn, đây là một lần hoạt động xâm phạm quấy rối lớn nhất từ sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch tháo chạy ra Đài Loan, chúng đã nếm đòn đả kích và thất bại cũng nặng nề và thảm hại nhất.Đảo Đông Sơn là hòn đảo lớn thứ hai của Phúc Kiến, diện tích 165 kilô mét vuông, nhân khẩu ước khoảng 83000 người là tấm bình phong che mặt biển của Mân Nam. Số quân đội đóng giữ đảo Đông Sơn là hai tiểu đoàn của Trung đoàn 80 (thiếu một đại đội) công an giải phóng quân. 21 giờ ngày 15 tháng 7, thượng tướng tư lệnh trưởng Hồ Liên quân đội phòng vệ Kim Môn của Quốc dân đảng, đã dẫn sư đoàn 45 (thiếu 2 tiểu đoàn của trung đoàn 133) trung đoàn 53 sư đoàn 18 và đại đội đột kích 1,2 của phỉ biển v.v... ngồi trên 13 chiếc tàu chiến, xuất phát từ Kim Môn lái ra ngoài biển. Những động hướng khác thường của quân quốc dân đảng ở Kim Môn đều được cơ quan chỉ huy quân khu Hoa Đông đặt ở trên biển lúc đó nắm biết hết. Vào lúc 23 giờ ngày hôm đó quân khu Hoa đông thông báo: Tên tướng phỉ Kim Môn Hồ Liên đã đích thân dẫn 4 trung đoàn quân chính quy, 4 đại đội phỉ biển, phối hợp với Hải quân và không quân, xuất phát từ đảo Kim Môn và lúc 9 giờ tối ngày 15. Thủ trưởng quân khu Phúc kiến phán đoán, nếu bọn địch đi về phía bắc, có khả năng sẽ tập kích đảo Nam Nhật, hoặc đảo Bình Đàm; đi về phía nam có khả năng sẽ tập kích đảo Đông Sơn, bởi vì cự ly của chúng đều cách Kim Môn khoảng trên dưới 150 kilô mét vừa đúng là hành trình một đêm trên biển. Trong đó bọn địch rất có khả năng sẽ tiến đánh đảo Đông Sơn, thứ nữa mới là đảo Bình Đàm, Đại Đăng và Hạ Môn. 1 giờ ngày 16, thủ trưởng quân khu Phúc Kiến quyết tâm. Nếu bọn địch tiến vào xâm phạm Bình Đàm, Nam Nhật Đại Đăng, Hạ Môn, quân đóng ở đó sẽ kiên quyết giữ, sau đó sẽ tiếp tục viện trợ dần. Nếu bọn địch xâm phạm Đông Sơn, quân đội giữ đảo sau khi đánh trả sẽ rút lui, bởi vì diện tích của đảo Đông Sơn lớn mà binh lực lại quá ít. Thủ trưởng quân khu Phúc Kiến đặc biệt chỉ rõ cho bộ đội giữ đảo Đông Sơn biết: Lưu lại một tiểu đoàn tinh nhuệ tiến hành phòng ngự cơ động. Những nhân viên không phải chiến đấu, phải yểm hộ cho các nhân viên Đảng và chính quyền huyện Đông Sơn rời khỏi đảo trước khi trời sáng. Bộ đội giữ đảo nếu vấp phải binh lực ưu thế của địch tấn công, thì có thể tìm cơ hội di chuyển.Giữa lúc quân khu Hoa Đông và quân khu Phúc Kiến của quân giải phóng đang khẩn trương tiến hành chuẩn bị tác chiến, trên sân bay Tân Trúc ở phía bắc Đài Loan, có 487 lính nhảy dù của dù đội đảo Lăng Hình đang chuẩn bị lên máy bay bay đi, để tiến hành một cuộc diễn tập. Đúng 4 giờ, 16 chiếc máy bay quân dụng vận tải cất cánh từ Tân Trúc, bay thẳng tới đảo Đông Nam ở phía Tây nam. Trước khi lên máy bay, tổng đội trưởng lính dù Cố Bảo Dụ tuyên bố đi chấp nhành nhiệm vụ tác chiến, yêu cầu không thành công, thì thành nhân.Tại sân bay Tân Trúc, khi bọn lính dù bước lên máy bay, hơn một vạn quân Quốc dân đảng do Hồ Liên soái lĩnh đã tới gần mặt biển Đảo Đông Sơn. Hồ Liên là thượng tướng lục quân Quốc dân đảng, cuối tháng 10 năm 1949 sau khi giải phóng quân đánh đảo Kim Môn gặp thế thất lợi, hắn đã phát đường quan vận. Trong quân giới Quốc dân đảng, hắn tuy bị châm biếm là đứa thất phu, thế nhưng sau trận đánh ở Kim Môn, hầu như hắn đã nổi lên như một ngôi sao chói lọi nhất trong quân đội Quốc dân đảng. Cho nên. Trận phản công ở tiền tiêu đại lục của quân đội Quốc dân đảng này, đột kích vào đảo Đông Sơn đã giao cho Hồ Liên chỉ huy.Hồ Liên đã dạn dày với chiến trận, rất chú ý thận trọng. Hắn cho rằng quân giải phóng ở Tuyền châu muốn tăng viện cho đảo Đông Sơn, ít nhất phải mất ba ngày. Trong đó, điều mấu chốt nhất là chiếc cầu lớn Cứu Long Giang ở gần Chương Châu đã bị máy bay Quốc dân đảng bỏ bom phá hủy. Bởi vì trên con đường dài 270 kilô mét từ Tuyền châu tới Đảo Đông Sơn, chiếc cầu lớn Cửu Long Giang ở vào nơi hiểm yếu, chiếc cầu này chưa khôi phục được, viện binh Tuyền Châu liền không thể đi xuống phía nam Đông Sơn đựoc. Viện binh không tới, hắn sẽ đảm bảo chỉ trong ba hôm sẽ lấy được Đông Sơn. Buổi trưa ngày 14 tháng 7, sau khi hắn nhận được báo cáo cầu Cửu Long Giang vẫn chưa khôi phục được, hắn liền hạ lệnh bắt đầu hành động. 4 giờ 40 phút ngày 16, máy bay vận tải và máy bay tiêm kích cất cánh từ Đài Loan vụt qua trên đầu của biên đội Hồ Liên, bộ đội địch lên bờ đã đổi chỗ ngồi hoàn tất, Hồ Liên liền ra lệnh cướp bãi.4 giờ 50 phút ngày 16, trung đoàn trưởng trung đoàn 80 Công An đóng ở đảo Đông Sơn của quân giải phóng là Du Mai Diệu, đang tổ chức rút lui khỏi đảo Đông Sơn, bỗng nhiên nhận được báo cáo bọn địch đã nhẩy dù ở bến đò Bát Xích Môn về phía Bắc đảo. Trung đoàn trưởng Du liền hạ lệnh cho một đại đội lính thủy ở địa phương này: Kiên quyết giữ chắc bến đò, ông sẽ lập tức cử viện binh tới. Lời nói vừa buông, lại báo cáo số quân của địch từ thôn Doanh lên đất liền ở phía nam đảo, đông tới hàng ngàn người. Du Mai Diệu thoáng nghĩ đã biết ngay là tình thế xấu, bởi vì bọn địch dùng lính nhẩy dù từ xưa chưa hề có, hơn nữa lính nhẩy dù đã bao vậy chặt bến đò Bắt Xích Môn, dựa theo kế hoạch trước rút lui về Đông Sơn đã không thể được nữa. Các nhân viên ở trên đảo chỉ có kiên trì giữ để đợi viện trợ, tức thì Du liền hạ lệnh cho trung đoàn hậu cần của Trần Đại đối diện với bến đò Bát Xích Khẩu cử quân vượt biển về phía nam, chi viện cho đại đội lính thủy đánh lại bọn lính nhẩy dù. Chiêu này đã có tác dụng quan trọng. Cấp trên đã đồng ý cho trung đoàn trưởng Du gắng sức giữ vững để chờ viện binh, hơn thế còn hạ lệnh cho trung đoàn 272 tiếp cận viện trợ cho Đông Sơn, ra lệnh cho sư đoàn 82 ở gần Tuyền Châu hỏa tốc tăng viện. Quân ủy trung ương cũng ra lệnh cho sư đoàn 122 của quân khu Quảng Đông cấp tốc đông tiến phối hợp tác chiến.Chỉ huy các cấp đánh điện qua lại, trong khi điều binh khiển tướng, trên đảo Đông Sơn đã là một biển lửa. 4 giờ 45 phút, một đại đội lính thủy đang chuẩn bị rút lui, phần lớn các sĩ quan và binh lính đã lên thuyền, trên bờ chỉ có đại đội trưởng và 6 người lính thủy. Khi phát hiện lính dù địch đã nhẩy dù xuống núi Tây làng Hậu Lâm, đại đội trưởng một mặt hạ lệnh cho các lính thủy ở trên bờ quay lại kho lấy súng máy, một mặt báo cáo tình hình với trung đoàn trưởng Du Mai Diệu, hơn nữa còn cử người đi gọi các binh sĩ đã lên thuyền quay trở lại. Sau năm ba phút, 4 khẩu súng máy ở trong tay 7 người đại đội lính thủy cùng nổ súng lên trời. Đội hình của máy bay địch bị đánh liền rối loạn, độ cao nhẩy dù cũng từ 200 mét lên tới 1000 mét, trật tự nhẩy dù hỗn loạn, có nhiều tên nhẩy dù xuống biển. Đúng 6 giờ, dân quân ở làng Hậu Lâm cũng gia nhập tác chiến, họ đã dựa vào kiểu cấu trúc vườn không nhà trống mà trước đây 300 năm các anh hùng dân tộc đã dùng để đánh giặc, giành từng tấc đất triển khai cuộc chiến đấu đẫm máu với bọn lính dù. Đúng 8 giờ một trung đội của trung đoàn hậu cần 80 Công An cử đến đã lên đất liền tại bến đò Bát Xích Môn, kết hợp cùng tác chiến với các lính thủy, cuối cùng đã khống chế được bến đò.Trong lúc quyết chiến ở bến đò Bát Xích Môn quân đội Quốc dân đảng lần lượt lên đất liền vào làng Thân Doanh, làng Hồ Vĩ, chúng đã dùng 21 chiếc xe tăng dẫn đầu, đi nhanh vào thẳng đã chiếm lĩnh rất nhanh thành huyện Đông Sơn. Du Mai Diệu đã căn cứ vào số bộ đội thu thập được quyết tâm cố giữ làm chủ trận địa, ra lệnh cho các đơn vị bộ đội tiền duyên nhanh chóng thu hẹp lại, phối hợp với chủ lực. Thế nhưng do vì bọn địch tiến triển tương đối nhanh, trung đội 1 đại đội bị vây khốn ở khu vức Mã yên sơn, toàn bộ đã bị hy sinh, trung đội 2 của đại đội 1 bị vây khốn ở Quan Lộ Vĩ, cũng không một người sống sót. Đại đội của huyện Công An cũng chưa kịp di chuyển đã bị vây khốn thương vong mất quá nửa. Thế nhưng quân đội đã tìm trăm phương ngàn kế rút về tới vị trí kiên quyết giữ vững trận địa, đã đánh lui bọn địch hết đợt tấn công này tới đợt tấn công khác.Trong khi quân giải phóng bị vây, bị chia cắt, chiến đấu đẫm máu ở đảo Đông Sơn, trên các đường giao thông chủ chốt từ Phúc Kiến, Quảng Đông đi về hướng đảo Đông Sơn chiến xa rầm rộ, các đơn vị tăng viện hăng hái đổ về chiến khu. Các xe ôtô vận chuyển hàng hóa hành khách men theo tuyến Tuyền châu, Chương Châu sôi nổi tập kết về Tuyền châu và Chương Châu. Hành khách ở trên xe xuống xe, hàng hóa xếp dọn ở bên đường, lập tức vận chuyển bộ đội, ngày đêm tấp nập. Những xe ôtô bị máy bay địch bỏ bom phá đổ nằm ở bên đường, các xe ở phía sau vẫn tiếp tục tiến lên. Lại nói tới chiếc cầu lớn Cửu Long Giang ở gần Chương Châu, buổi trưa ngày 14 khi máy bay địch trinh sát thấy vẫn chưa được sửa chữa, thế nhưng buổi tối ván cầu đã được lắp xong, cho nên cuộc chiến đấu vừa mở màn, xe ôtô của quân giải phóng đã tấp nập đi qua, rất nhanh chóng tập trung ở Đông Sơn.Bộ đội viện binh lên đảo trước nhất là tiểu đoàn 3 trung đoàn 272. Sau khi họ lên đảo lúc 10 giờ 30 phút, đã đập tan ngay bọn lính dù khống chế chắc chắn bến đò Bát Xích Môn. Thế nhưng so sánh lực lượng đôi bên vẫn là bên mười bên một, cuộc chiến đấu càng thêm căng thẳng khẩn trương.Buổi chiều ngày 16, Đảo Đông Sơn trừ ba ngọn núi chính là núi Công Vân, núi Ngưu Độc, núi Vương Da và bến đò Bát Xích Môn đất đai rộng khoảng ba bốn kilô mét vuông vẫn ở trong tay quân giải phóng ra, tất cả đều nằm trong tay địch. Lúc này Hồ Liên báo cáo về Đài Loan, hắn đã chiếm đoạt được đảo Đông Sơn. Đài Loan bắt đầu chúc mừng, thổi phồng Màn mở đầu phản công đại lục đã kéo lên, Đảo Đông Sơn đã giành được thắng lợi mang tính quyết định v.v.. Lúc này, Đại đội 2 trung đoàn 80 Công An kiên trì giữ núi Công Vân, chẳng sợ kẻ thù bao vậy ba mặt, chỉ dựa vào 7 chiếc lô cốt xây, hơn 200 mét chiến hào và đoạn rãnh đất dài chưa đầy trăm mét, đã đánh lui được 18 đợt xung phong của quân đội Quốc dân đảng. Đại đội 12 trung đoàn 272 sau khi được tăng viện, họ lại cùng đánh lui 13 đợt xung phong của Quốc dân đảng. Khi trời tồi ở trước trận địa núi Công Vân đã nằm ngổn ngang 413 xác chết của địch. Đại đội 5, đại đội 6 của trung đoàn 80 Công An đã kết hợp với nhau kiên trì giữ chắc làm chủ trận địa núi Ngưu Độc, sau khi chiến đấu với địch đã giành lại được bộ phận trận địa phía ngoài tiền duyên, họ lại tổ chức lực lượng phản kích, giành lại trận địa, đã đánh lùi năm đợt xung phong của một tiểu đoàn địch, bắn chết hơn 200 tên. Quân quốc dân đảng tấn công vào trận địa chính núi Vương Da, trước sau cũng không thể đột phá được trận địa chính.Trong đêm khuya ngày 16, cuộc chiến đấu vẫn rất ác liệt. Bởi vì quân đội tăng viện của giải phóng quân chỉ có tiểu đoàn 3 trung đoàn 272 lên đảo, số còn lại vẫn đang trên đường kéo đến. Binh lực quân giải phóng ở trên đảo càng ngày càng ít. Vào lúc 22 giờ, Hồ Liên điều chỉnh sắp xếp, quyết tâm phát khởi cuộc công kích toàn diện trước lúc 24 giờ, cần phải chiếm được toàn đảo trước khi trời sáng. Bởi lẽ hắn dự đoán buổi sáng ngày mai, bộ đội phía sau của giải phóng quân sẽ tới bờ bên kia. Đúng 23 giờ, Hồ Liên đã đem quân đội dự bị cuối cùng ném vào cuộc chiến đấu, đánh mạnh vào ba trận địa chính. Thế nhưng 23 giờ 30 phút, sư đoàn 82 và sư đoàn 122 dẫn đầu của đại quân viện binh cùng với chủ lực trung đoàn 272 đều bắt đầu lên đảo. Tư lệnh viên quân khu Phúc Kiến là Diệp Phi quyết tâm đợi toàn bộ quân đội tăng viện sau khi lên đảo hết, chập tối ngày 17 đã phát khởi cuộc phản kích.Sáng sớm ngày 17, ba trận địa chính của đảo Đông Sơn Vân ở trong tay quân giải phóng. Bọn địch lại phát giác, đại bộ phận quân giải phóng đã lên đảo. Hồ Liên biết rằng đánh phá Đông Sơn đã vô vọng, quyết tâm rút về. Đúng 7 giờ, quân giải phóng phát hiện địch có dấu hiệu rút chạy, tư lệnh viên Diệp Phi quyết định lập tức phát khởi cuộc phản kích toàn diện. 10 giờ 30 phút, cuộc phản kích của giải phóng quân đã bắt đầu, cả ba đường đều chỉ hướng về thôn Hồ Vĩ.18 giờ ngày 17 các đội quân phản kích của Giải phóng quân đều bức tới gần thôn Hồ Vĩ, quân Quốc dân đảng chen chúc nhau đổ về ven biển, cướp thuyền chạy trốn. Tàu chiến chẳng đợi xếp đầy đã vội vã tháo chạy, quân Quốc dân đảng còn lại đành phải nộp súng đầu hàng. 19 giờ, cuộc chiến đấu kết thúc thắng lợi, tổng cộng giải phóng quân đã tiêu diệt 3379 tên quốc dân đảng, phá hủy hai chiếc xe tăng, bắn chìm 3 tàu chiến đổ bộ cỡ nhỏ, bắn rơi hai máy bay. Quân giải phóng cũng đã phải trả giá thương vong và mất tích 1250 người.Cuộc chiến đấu ở Đảo Đông Sơn là một lần giành thắng lợi lớn nhất trong hoạt động đánh trả bọn quốc dân đảng tới xâm phạm quấy rối của quân dân đại lục. Câu chuyện thần thoại của tập đoàn Tưởng Giới Thạch rùm beng phản công đại lúc đã bị phá diệt. Cuộc chiến đấu vừa kết thúc, chủ tịch Mao Trạch Đông đã chỉ thị: Cuộc chiến đấu ở Đông Sơn không chỉ là thắng lợi của Đông Sơn, cũng không phải chỉ là thắng lợi của Phúc Kiến mà là thắng lợi của cả nước!Trong giai đoạn từ đầu năm 1952 đến tháng 7 năm 1953 này, ngoài việc phái cử quân đội tới xâm phạm quấy rối khu vực ven biển vùng Đông Nam, tập đoàn Tưởng Giới Thạch còn tích cực tăng cường lực lượng cho bọn tàn binh Quốc dân đảng chạy trốn sang Miến, chỉ đạo chúng cử quân đội vào đất liền quấy rối. Tháng 2 năm 1952 phía Đài Loan đã phái cử ba viên chức quan trọng tới Bắc Miến đảm nhận chức phó tổng chỉ huy, Quân đoàn trưởng v.v.. bọn tàn binh. Ngoài ra chúng còn cử hơn 700 tên sĩ quan cơ sở và đặc công tới Miến, chỉnh đốn tổ chức tàn quân huấn luyện tác chiến mạnh mẽ thêm. Tức thì, đồng thời với lấy lớn nuốt bé của quân Quốc dân đảng ở khu vực ven biển vùng Đông nam, bọn tàn quân chạy sang Miến đã tiến hành bừa bãi các cuộc quấy rối cỡ nhỏ. Chỉ nửa đầu năm 1952, các đội vũ trang cỡ nhỏ của chúng đã tiến hành quấy rối tới hơn 60 lần ở ba huyện Đằng Xung, Long Lăng, Trấn Khang tỉnh Vân Nam, sát hại trên 100 người cán bộ khu, xã và quần chúng nhân dân. Trong đó riêng đêm ngày 22 tháng 3 chúng đã giết hại tới 82 người ở trong biên giới huyện Long Lăng.Tại khu vực ven biển Đông Nam, từ mùa thu năm 1949 tới năm 1953, tập đoàn Tưởng Giới Thạch ngoài việc tiến hành lên bờ xâm phạm quấy rối với quy mô vừa và nhỏ tới trên 100 lần đối với đại lục, chúng còn không ngừng phái quân đội dùng máy bay tiến hành các hoạt động phá hoại như bỏ bom bắn phá, càn quét, trinh sát, thả dù, đổ bộ đường không v.v...Từ tháng 11 năm 1949 đến tháng 2 năm 1950, máy bay Quốc dân đảng đã tiến hành 26 lần bỏ bom bắn phá và quấy rối đối với Thượng Hải Đặc biệt là ngày 6 tháng 2 năm 1950, 17 chiếc máy bay không quân Quốc dân đảng đã bỏ bom bắn phá điên cuồng đối với các mục tiêu như công ty điện lực và nhà máy đóng thuyền Thượng Hải, phá hủy hơn 2000 căn nhà, bắn chết và bắn bị thương hơn 1400 người, các nhà máy bị phá hoại nghiêm trọng.Miền ven biển Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông là khu vực thường xuyên bắn phá quấy rối của máy bay không quân Quốc dân đảng, chủ yếu tập trung ở giữa Sán Đầu của Quảng Đông và Tùng Môn của Triết Giang. Lúc đó không quân của quân giải phóng còn rất yếu và nhỏ, Phúc Kiến và Việt Đông còn chưa có sân bay, số lượng bộ đội cao xạ pháo ít, trang bị cũ kỹ, không có sự bảo vệ che chở của tình báo Ra đa. Do đó máy bay địch hoạt động rất điên cuồng, mãi tới năm 1952, sau khi liên tục bắn rơi hai chiếc máy bay địch, khí thế của không quân Quốc dân đảng mới co cụm lại.Đồng thời với thời gian này, sự quấy rối trên biển của hải quân Quốc dân đảng cũng rất hung hăng. Chúng đã dựa vào ưu thế sức mạnh trên biển, dùng những hòn đảo ven biển đông nam đại lục mà chúng chiếm cứ để làm căn cứ, rất nhiều lần thềm lục địa và ngư trường ven biển đại lục, cướp bóc và bắt giữ các thuyền buôn qua lại, bắt giữ ngư dân, phá hoại nghiêm trọng việc vận chuyển đường biển và sản xuất nghề cá của đại lục. Chỉ riêng hai tỉnh Mân Triết từ mùa thu năm 1949 tới mùa đông năm 1953, số thuyền đánh cá bị hải quân Quốc dân đảng pháo kích, cướp bóc đã lên tới hơn 2000 chiếc, số ngư dân bị bắt đi đã có tới hơn 1 vạn người, đã khiến cho hơn 50 vạn ngư dân trực tiếp tham gia công việc sản xuất nghề cá đã không thể ra biển bắt đánh cá bình thường được. Nhằm thẳng vào tình hình này, quân ủy Trung ương và quốc vụ viện đã phát ra mệnh lệnh đối với việc vũ trang bảo vệ đường biển, bảo đảm an toàn trên biển, yêu cầu hải quân của giải phóng quân tăng cường tuần tra, đánh trả sự quấy rối trên biển của bọn Quốc dân đảng, đảm bảo an toàn việc vận chuyển đường biển. Các thuyền buôn cũng phải thành lập đội vũ trang của mình, để cùng đấu tranh chống lại các cuộc quấy rối của quân địch. Sau đó đã nhiều lần giành được thắng lợi trong cuộc đánh trả sự tập kích quấy rối của hải quân Quốc dân đảng.Cao trào phản công đại lục lần thứ nhất của tập đoàn Tưởng Giới Thạch là thời gian từ 1950 đến năm 1953, thế nhưng thực sự rủ cờ im trống là từ sau khi quân giải phóng chiếm được Đảo Nhất Giang Sơn, quân quốc dân đảng đã triệt thoái ra khỏi đảo Đại Trần.Ngày 18 tháng 1 năm 1955, quân giải phóng đã chỉ huy 3 đạo quân Lục, Hải, Không quân thuộc quân khu Hoa Đông, phát động cuộc tác chiến liên hợp đối với bọn Quốc dân đảng chiếm đảo Nhất Giang Sơn, trải qua 10 giờ liền chiến đấu ác liệt, đã tiêu diệt toàn bộ quân giữ đảo là 1086 tên, bắn chìm 3 tàu chiến địch, bắn bị thương 4 chiếc tỏ rõ năng lực tác chiến hùng mạnh của quân giải phóng. Tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã không thể không đem quân quốc đảng ở trên các đảo Đài Châu lấy đảo Đại Trần làm trung tâm rút lui ra Đài Loan. Tới hạ tuần tháng 2 năm 1955, các hòn đảo ở ven biển Triết Đông đã toàn bộ trở về trong lòng nhân dân.


    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 12:37 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 6 - Chương 4: Cao trào quấy rối lần thứ hai phản công Đại lục của Tưởng Giới Thạch


    Từ mùa thu năm 1949 đến tháng 7 năm 1953, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã tiến hành 71 lần hoạt động xâm phạm quấy rối đại lục với quy mô vừa và nhỏ từ trên 100 tên đến trên 1 vạn tên địch, tổng binh lực đã điều động đạt tới trên 47700 tên, đã bị quân dân đại lục tiêu diệt trên 7900 tên. Sau cuộc chiến đấu ở đảo Đông Sơn và cuộc chiến đấu ở đảo Nhất Giang Sơn, tập đoàn Tưởng Giới Thạch bị bức phải thay đổi chiến lược, chủ yếu là dùng đội vũ trang nhỏ, lẻ tẻ tiến hành tập kích quấy rối đại lục.Mùa Xuân năm 1962, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã đánh giá tình hình một cách sai lầm, chúng cho rằng đại lục đang ở vào thời kỳ khó khăn về kinh tế, đó là thời cơ tốt để chúng thực thi việc phản công, liền tích cực chuẩn bị tiến hành xâm phạm quân sự với quy mô lớn đối với khu vực ven biển đông nam đại lục, chúng gào thét om xòm phản công đại lục. Ngày mồng 10 tháng 6, Trung ương đảng Cộng sản Trung quốc phát ra bản chỉ thị chuẩn bị đập tan cuộc xâm phạm quấy rối của quân Quốc dân đảng vào khu vực ven biển đông nam, yêu cầu toàn Đảng, toàn quân, nhân dân toàn quốc nâng cao cảnh giác, chuẩn bị tốt về mọi phương diện, nếu quân đội Quốc dân đảng cả gan dám tới xâm phạm, thì sẽ kiên quyết, triệt để, tiêu diệt chúng toàn bộ và sạch sẽ. Giải phóng quân tuân theo tinh thần chỉ thị của Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc, lập tức lao vào công tác chuẩn bị khẩn trương, nhanh chóng điều chỉnh sự bố trí sắp xếp, tăng cường binh lực vùng ven biển Đông Nam, dấy lên cao trào luyện binh trước khi tác chiến mang tính chất quần chúng, hơn thế, về mặt trang bị vật tư cũng đã có sự chuẩn bị đầy đủ. Quần chúng nhân dân và dân quân vùng ven biển Đông Nam cũng đã tích cực tiến hành, chuẩn bị sẵn sàng chi viện và phối hợp tác chiến với quân giải phóng. Ngày 23 tháng 6, Tân Hoa Xã đã công khai vạch trần mưu đồ của nhà đương cục Đài Loan. Do vì nghiêm trận đang chờ đợi của quân dân đại lục và sự vạch trần công khai của Tân Hoa Xã, tập đoàn Tưởng Giới Thạch bị bức phải vứt bỏ kế hoạch mạo hiểm quân sự với quy mô lớn đó. Thế nhưng xuất phát từ yêu cầu nội chính và ngoại giao, nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan đã nêu ra Đường lối chung phục hưng đại lục trong giai đoạn hiện tại là dấy lên một cao trào chống cộng của nhân dân đại lục, cần phải vạch kế hoạch tiến hành hành động thực tế trong cuộc cách mạng chống cộng ở đại lục làm cuộc tác chiến trước tiên của cuộc phản công quân sự ở trong Hội nghị toàn thể Trung ương khóa 8 của chúng. Xuất phát từ loại sách lược này, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã thay đổi phương thức phản công quấy rối tập kích đối với đại lục, không thể tiến hành biến động lớn mà phải biến động nhỏ, tiến hành xâm phạm quy mô lớn không được nữa mà phải lén vượt biển leo lên đất liền. Xuất phát từ nhu cầu trên mặt chiến lược và sách lược, nước Mỹ đối với nhà đương cục Đài Loan cũng biểu thị sự ủng hộ đối với kế hoạch dùng đội đặc vụ vũ trang nhỏ thẩm thấu và tập kích quấy rối vào đại lục.Sau đó, cơ quan tình báo tối cao của Đài Loan đã thành lập Tổ hành động đặc chủng, tăng cường huấn luyện đặc vụ vũ trang, tích cực vạch kế hoạch thực thi đội vũ trang cỡ nhỏ hoạt động thẩm thấu đối với đại lục. Kỳ thực, quân đội Quốc dân đảng dùng hoạt động đội vũ trang cỡ nhỏ tập kích quấy rối đại lục, từ ngay sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch chạy trốn ra chiếm đảo Đài Loan cũng đã bắt đầu rồi.Trong thời gian chúng tiến hành hoạt động xâm phạm quấy rối đại lục với quy mô vừa và nhỏ cũng chưa bao giờ ngừng trệ. Thế nhưng từ cuối năm 1962 đến tháng 8 năm 1965 tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã liên tục cử hàng loạt các đội đặc vụ võ trang cỡ nhỏ, có kế hoạch, có tổ chức thẩm thấu và tập kích quấy rối đại lục.Thoạt đầu, những đội đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ được tập đoàn Tưởng Giới Thạch cử đi thường lợi dụng đêm tối từ trên biển lẻn trộm lên đất liền hoặc từ trên trời nhẩy xuống, hòng ẩn trốn vào vùng núi nội địa, xây dựng Căn cứ du kích, phát triển vũ trang phản động, chờ thời cơ phối hợp phản công. Chiêu này không thành, chúng lại thay đổi thủ pháp, tiến hành tập kích quấy nhiễu đối với đại lục, hòng bắt bớ những sĩ quan và binh lính giải phóng, cán bộ địa phương và dân quân làm nhiệm vụ phân tán, phá hoại những công trình xây dựng về quân sự, kinh tế và giao thông quan trọng, cướp đoạt súng ống đạn dược cùng những văn kiện cơ mật, tập kích vào những chiếc thuyền của đại lục đang đánh cá ở trên biển và những con tàu đang neo đậu ở bờ biển, để khuyếch trương ảnh hưởng chính trị của nó, từ đó đã hình thành cao trào quấy rối lần thứ hai phản công đại lục của tập đoàn Tưởng Giới Thạch.Mùa thu năm 1962, Trung tâm tình báo liên hợp Trung Mỹ cơ quan đặc vụ của nước Mỹ và nhà đương Cục Đài Loan với Cục tình báo Bộ quốc phòng của nhà đương cục Đài Loan, cùng đặt ra kế hoạch tập kích quấy rối mang tên là Oai biển và Siêu ban, mưu đồ dùng các đội đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ tập kích quấy rối Quảng Đông, mở ra Hành lang du kích. Chúng tuyển lựa các sĩ quan đặc vụ chuyên nghiệp, phản động, thu thập những thủ lĩnh thổ phỉ, những tên địa chủ chạy trốn và những phần tử phản cách mạng, biên chế thành chống cộng cứu quốc quân, còn ra lệnh cho chúng tăng cường tốc độ tiến hành huấn luyện đặc vụ, nhằm thời cơ cử chúng làm quân tiên phong trong việc phản công đại lục. Những cuộc quấy rối cỡ nhỏ trong thời kỳ này có thể chia làm ba giai đoạn.Giai đoạn thứ nhất từ mồng 1 tháng 10 năm 1962 đến 6 tháng 12, 9 đội đặc vụ vũ trang là loạt đầu tiên chấp hành kế hoạch Oai biển và Siêu ban, ngồi thuyền xuất phát từ Cao Hùng và Đông Sa Đài Loan, trong đó 8 đội lần lượt trốn lên đại lục thuộc khu vực ven biển các huyện Hải Phong, Huệ Dương, Huệ Lai, Điện Bạch, Đài Sơn v.v... tỉnh Quảng Đông; còn một đội vốn kế hoạch là lên bờ đại lục ở Huệ Dương, thế nhưng sau khi đến mặt biển Huệ Dương chúng không dám lên bờ mà lại chạy trốn lên Đảo Hỏa Đầu bồn Hồng Công. Ngày mồng 4 tháng 12 Trung tâm thông tấn phụ trợ hải quân cơ quan đặc vụ của nước Mỹ, còn cử một chiếc máy bay gián điệp P-2V xâm nhập bầu trời khu vực Dương Giang tỉnh Quảng Đông, thả dù xuống đại lục một toán đặc vụ vũ trang quốc dân đảng đã được huấn luyện chuyên môn ở trên đảo Xung Thằng.Toán đặc vụ vũ trang này trước khi xuất phát, cơ quan đặc vụ Đài Loan đã lần lượt phong quân hàm trao ấn tín, thăng quan ủy chức cho chúng, hy vọng rằng chúng sẽ có thể trở thành tiền đồ phát triển. Thế nhưng, sau khi chúng hóa trang thành giải phóng quân bước lên đại lục hoặc chạm chân xuống mặt đất đều không thể chạy thoát vận mệnh bị quân dân đại lục tiêu diệt.Vào lúc 0 giờ ngày mồng 1 tháng 10 đội quân độc lập thứ hai gồm 14 người của Quân cứu quốc chống cộng tỉnh Quảng Đông, tại đảo Triết Lãng huyện Hải Phong lẻn trộm lên bờ. Sau hai giờ, lập tức bị các dân quân đi tuần tra phát hiện. Trời vừa sáng tên tư lệnh Trần Chính Quang cùng ba tên đặc vụ võ trang, đã bị các dân quân bao vây truy kích phải bó tay chịu trói, đã trở thành tù binh. Tiếp đó, giải phóng quân và dân quân đã căn cứ vào khẩu cung của chúng tiến hành lùng bắt, đúng 7 giờ sáng lại bắt thêm được 11 tên khác. Cánh quân thứ hai đã bị tiêu diệt.0 giờ 5 phút ngày 28 tháng 10, hai cánh quân độc lập thứ 5 và thứ 6 tổng cộng 22 tên của Chống Cộng cứu quốc quân Tỉnh Quảng Đông đã lẻn trốn lên trên đất liền ở làng Công xã hạ Tước Sơn huyện Điện Bạch, lập tức dã bị đội Canh gác trên biển phát hiện. Trong sự bao vây lùng sục của hai đại đội bộ binh giải phóng quân và dân quân, chúng đã phải kéo cờ trắng, toàn bộ ra đầu hàng vào lúc 18 giờ ngày hôm đó.Vào lúc 23 giờ ngày mồng 6 tháng 12, 10 tên đặc vụ vũ trang của cánh quân độc lập thứ 23 Chống cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông đã lên bờ công xã Tiền Chiêm huyện Huệ lâm. Trên thân chúng mặc phục trang giải phóng quân, trong tay cầm giấy giới thiệu của bộ đội, hỏi thăm đường trước quần chúng nơi đó, được dẫn tới nghỉ ở tiểu đoàn bộ tiểu đoàn dân quân. Thế nhưng khi chúng vừa bưng tách trà lên uống thì phát hiện thấy xung quanh dày đặc dân quân. Dưới sự uy hiếp của hơn 50 khẩu súng trong tay dân quân, 10 tên đặc vụ vũ trang này đành phải hạ vũ khí. 29 tên đặc vụ vũ trang khác của cánh quân này đang lướt nhanh trên mặt biển trên chiếc thuyền Tường Thuận số 1 cũng chuẩn bị lên đất liền tại xã Tiền chiêm Công. Thế nhưng vào lúc 23 giờ 56 phút ngày hôm đó đã bị chiến hạm hộ vệ của quân giải phóng bắn chìm. Số đặc vụ vũ trang ở trên thuyền có 19 tên đều bị bắt sống, 10 tên đã chôn thân dưới đáy biển.Ngoài ba toán đặc vụ vũ trang kể trên, cánh quân số 3 có 12 tên là Chống cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông đã lên bờ vào núi Tiểu Tinh huyện Huệ Dương; cánh quân số 1 có 14 tên Chống Cộng Cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông lên bờ vào Thần Tuyên huyện Huệ Lai; Đội tiên phong 33 người Chống Cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông lên bờ vào Xà Tí Loan Xích Khê Công xã huyện Đài Sơn; Cánh quân thứ bẩy 35 người Chống Cộng cứu quốc quân tỉnh Quảng Đông đã lên bờ vào đảo Hà Bao huyện Đài Sơn, Đội đặc vụ vũ trang 3 tên đã thả dù xuống đại lục vào ở núi Thạch Lối huyện Dương Giang đều lần lượt nhanh chóng bị tiêu diệt sau khi bước chân lên đại lục hoặc thả dù xuống chỉ trong vòng 4, 5 giờ hoặc 2, 3 ngày. Quân và dân ven biển Quảng Đông trải qua 8 trận chiến đấu, 9 đội đặc vụ vũ trang vào xâm phạm quấy rối đại lục đều hoàn toàn bị tiêu diệt, tổng cộng 172 tên (Trong đó có 7 tên tư lệnh đặc vụ, 14 tên phó tư lệnh).Giai đoạn thứ 2 từ tháng 6 năm 1963 đến tháng 10. Sau khi 9 toán đặc vụ vũ trang hoàn toàn bị tiêu diệt vào mùa đông năm 1962, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã thay đổi cách làm, chúng đã thực thi các cuộc tập kích quấy rối đại lục từ nhiều hướng, nhiều khu vực. Chúng đã cho các toán đặc vụ vũ trang hóa trang thành dân đánh cá, trà trộn vào trong các thuyền đánh cá, chờ thời cơ xâm nhập đại lục. Chúng đã ra lệnh cho bọn đặc vụ lén vượt biển trong đêm sau khi lên bờ phải xóa mọi dấu tích, che khuất hành động, cho nên đã có mấy lần đạt được kết quả. Vì vậy tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã đưa phạm vi lén vượt biển và thẩm thấu vào đại lục của các đội đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ, dần dần từ một tỉnh Quảng Đông mở rộng ra các tỉnh ở Hoa Đông như Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến v.v...Từ ngày 21 đến 28 tháng 6 năm 1963, cơ quan đặc vụ của nhà đương cục Đài Loan liên tục phái cử 6 đội đặc vụ vũ trang tổng cộng 69 người lần lượt lén lên đại lục khu vực ven biển các huyện Trung Sơn, Hải Phong, Điện Bạch tỉnh Quảng Đông; huyện Chương Phố, Chiếu An tỉnh Phúc Kiến; huyện Bình Dương tỉnh Triết Giang v.v.. Số tên đặc vụ vũ trang này ngoài 12 tên trước khi lên đất liền đã chuyển hướng chạy về áo Môn ra, số còn lại đều hoàn toàn bị tiêu diệt.Từ ngày 23 tháng 6 đến 24 tháng 10, nhà đương cục Đài Loan lại cử 15 toán đặc vụ vũ trang ngầm trốn lên đại lục. Trong đó có 6 toán 47 tên, chuẩn bị lẩn trốn tới hoạt động ở khu vực Thập Vạn đại sơn phía tây tỉnh Quảng Đông, kết quả là chúng đã lầm lỡ lên bờ vùng ven biển tỉnh Hải Ninh cũ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, kết quả đã bị nhân dân Việt Nam tiêu diệt hết. 9 tốp khác tổng cộng 90 tên lần lượt lên đất liền hoặc thả dù xuống đất liền ở vùng ven biển Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông.Sáng sớm ngày 24 tháng 7, chi đội số 11 Quân xung kích chống Cộng gồm 12 tên đã lên đất liền leo tới Lão Hổ Nham huyện Vĩ Hạ tỉnh Triết Giang, đúng 8 giờ sáng thì bị một đại đội quân giải phóng và dân quân tổng cộng hơn 1000 người bao vây chặt nhiều vòng, đúng 11 giờ thì bị tiêu diệt hoàn toàn.Đêm ngày mồng 6 tháng 10, cánh quân độc lập số 12 chống cộng cứu quốc quân tỉnh Sơn Đông gồm 16 tên, đã leo lên bờ tại Công xã Đại Tân Gia huyện Hải Dương tỉnh Sơn Đông. Trước khi chúng xuất phát, Tưởng Kinh Quốc vừa đi thăm nước Mỹ trở về Đài Loan đã đích thân huấn thị và tiễn biệt, còn chúc chúng thắng lợi thành công. Toán đặc vụ này xuất phát từ Đài Loan, vòng qua đảo Hươu ở phía nam Triều Tiên. Sau ba ngày nghỉ ngơi chỉnh đốn chúng đã lẻn vào vùng ven biển Sơn Đông. Buổi chiều ngày mồng 7 tháng 10, toàn bộ số đặc vụ của cánh quân độc lập số 12 đã bị 8 đại đội quân giải phóng và hơn 5000 dân quân bao vây chặt 8 tàu chiến hải quân của quân giải phóng cũng đã phong tỏa mặt biển. Vào lúc hoàng hôn, hai tên đặc vụ vũ trang đã bị bắn chết, số còn lại bị bức phải nộp khí giới đầu hàng.Sáng sớm ngày mồng 8 tháng 10, tốp đặc vụ vũ trang độc lập số 18 Chống cộng cứu quốc quân tỉnh Giang Tô gồm 10 tên đã lên bờ vào huyện Xạ Dương tỉnh Giang Tô, buổi trưa đã bị quân và dân Xạ Dương bao vây, chúng hoàn toàn bị tiêu diệt ngay trong ngày hôm đó.Sáu toán đặc vụ vũ trang còn lại cũng không một tên nào lọt lưới!Sau khi các đội đặc vụ vũ trang tập kích quấy rối đại lục đã liên tục bị tiêu diệt, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã đem vượt biển trộm thẩm thấu vào đại lục đổi thành tập kích quấy rối. Chúng tăng cường huấn luyện Bộ đội đột kích thủy lục , sử dụng cách đánh đi nhanh về nhanh, vồ một miếng liền đi ngay, tiến hành tập kích quấy rối phá hoại đối với đại lục. Do đó đã bắt đầu giai đoạn thứ ba.Từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 6 năm 1964, tập đoàn Tưởng Giới Thạch lại liên tục phái cử 14 tốp đặc vụ vũ trang, đột kích quấy rối miền duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến, Triết Giang. Giải phóng quân và dân quân đã căn cứ vào phương châm đánh nhanh thắng nhanh và Cố gắng tiêu diệt địch ngay trên mặt biển hoặc ở bãi biển do bộ Tổng tham mưu đề ra, giáng cho các tốp đặc vụ vũ trang nhỏ tới tập kích phá rối những đòn chí mạng. Mười bốn tốp đặc vụ vũ trang này có hai tốp lần lượt bị tiêu diệt ở trên bờ Đảo Hạ Đại Trần Tỉnh Triết Giang và khu vực ven biển huyện Vạn Ninh đảo Hải Nam, có 7 tốp bị tiêu diệt ở trên biển, 5 tốp còn lại do hoảng sợ uy lực của quân giải phóng và dân quân nên giữa đường đã phải rút về. Từ tháng 7 năm 1964 đến tháng 1 năm 1965, nhà đương cục Đài Loan lại phải cử 7 tốp đặc vụ vũ trang, kết quả là 2 tốp đã bị tiêu diệt toàn bộ ở trên bãi biển 5 tốp đã bị tiêu diệt toàn bộ ở trên biển. Với những đòn đả kích mạnh mẽ và sự canh phòng nghiêm mật của quân và dân đại lục, sự đột kích quấy phá của các tốp đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ do bọn Quốc dân đảng Đài Loan cử đi, đã nhiều lần gặp thảm bại, chúng đã bị bức phải chấm dứt.Từ tháng 10 năm 1962 đến tháng 1 năm 1965, quân giải phóng và dân quân đã tiêu diệt ở khu vực ven biển Đông nam 40 tốp đặc vụ vũ trang Quốc dân đảng, tổng Cộng 594 tên, bắn chìm và thu giữ 24 chiếc thuyền tàu các loại, thu giữ hơn 400 khẩu súng trường và súng ngắn, đạn dược nhiều vô kể.Trong cao trào phản công đại lục lần thứ hai, ngoài việc tiến hành sự đột kích quấy phá cỡ nhỏ ở khu vực ven biển Đông Nam ra, tập đoàn Tưởng Giới Thạch còn khích động bọn tàn quân Quốc dân đảng chạy sang Miến điện tiến hành các hoạt động quấy rối phá hoại ở biên giới tỉnh Vân Nam.Bọn tàn quân Quốc dân đảng chạy sang Miến sau khi bị thất bại trong các cuộc quấy rối mùa hạ năm 1951, chúng đã chiếm cứ miền bắc Miến, làm nguy hại tới sự an toàn của Miến Điện và quan hệ Trung Miến. Dưới áp lực bởi những đòn đả kích quân sự của chính phủ Miến Điện và dư luận quốc tế, bắt buộc chúng phải rút về Đài Loan trong hai lần tháng 11 năm 1953 và tháng 3 năm 1961, trên 5000 tên còn lưu lại ở biên giới Miến Điện, Thái Lan và Lào. Năm 1962 tập đoàn Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan đã cử những phái viên quan trọng tới thị sát, an ủi khích lệ bọn tàn quân ở Miến, Thái, Lào, động viên bọn tàn quân trở lại biên giới Trung Miến nhằm mục đích phản công đại lục, tiến hành hoạt động quấy rối phá hoại đối với Vân Nam. Cho nên, từ tháng 3 năm 1963 đến tháng 9 năm 1966, quân đội Quốc dân đảng chạy trốn ở Miến đã lần lượt tiến hành 8 lượt quấy rối quy mô nhỏ ở khu vực biên giới các huyện Lộ Tây, Trấn khang Thương Nguyên, Mạnh Liên của Điền Tây, trong đó có bốn lần vấp phải sự đánh trả của quân giải phóng, bị tiêu diệt 38 tên. Sau đó, do vì ảnh hưởng của tình hình chính trị trong nước Miến Điện, quân Quốc dân đảng chạy sang Miến bị bức phải rút sang khu vực biên giới Thái Miến, đã phải đình chỉ những hoạt động quấy rối vũ trang đối với vùng biên giới Vân Nam.Trong Cao trào quấy rối phá hoại phản công đại lục lần thứ hai, hải quân và bọn đặc vụ vũ trang trên biển của Quốc dân đảng cũng vấp phải sự đả kích nặng nề của hải quân quân giải phóng, khiến cho chính sách Vũ trang thẩm thấu. Lên đại lục vì mục đích chính trị của tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã bị thất bại. Những hoạt động quấy phá của hải quân và đặc vụ vũ trang trên biển của Quốc dân đảng, từ tháng 10 năm 1962 đến cuối năm 1965 có thể phân ra làm hai giai đoạn.Giai đoạn thứ nhất, từ tháng 10 năm 1962 đến tháng 7 năm 1965.Ngày mồng 2, ngày 29 tháng 11 năm 1962 và ngày mồng 6 tháng 12, những chiếc thuyền đặc vụ vũ trang trên biển của Quốc dân đảng mang số hiệu M1545F, Hiệp tiến số 8 và Tường Thuận số 1 v.v... chấp hành kế hoạch tập kích quấy rối Siêu ban. Hải Uy, Trường Phong, phối hợp với hoạt động của đặc vụ lên đất liền, xông lên quần đảo Vạn Sơn, khu vực hải phận Thậm Giang. Hạm đội Nam Hải của hải quân quân giải phóng nhanh chóng xuất kích đã bắn chìm 3 chiếc thuyền địch kể trên, bắn chết chìm 49 tên đặc vụ vũ trang, bắt sống tên thương tá đội trưởng Châu Văn Kiệt và 42 tên.Ngày 21 tháng 6 năm 1963, một chiếc thuyền đặc vụ vũ trang Quốc dân đảng chấp hành Kế hoạch Nhất Đức đã lẻn vào mặt biển Đảo Đại Hoành Cầm ngoài bến Châu Giang. Một chi đôi hải quân quân giải phóng vừa hay đang phục kích tại đây, sau khi phát hiện tình hình địch lập tức xuất kích, đã bắn chìm ngay ở mặt biển phía nam đảo Đại Hoành Cầm.Sau khi hải quân Quốc dân đảng vấp phải sự đả kích mang tính chất bị tiêu diệt ở ven biển tỉnh Quảng Đông, chúng đã phải thay đổi sách lược, tiến hành Thủy lục đột kích, lập tức cử những toán đặc vụ trên biển cỡ nhỏ, tiến hành tập kích bất ngờ, lùng sục, bắt bớ, cướp của, phá hoại công trình thi công, đến nhanh rút nhanh đối với những hòn đảo cô độc, những doi đất nhô ra ngoài bờ biển đại lục và những thuyền đánh cá.Ngày 24 tháng 10 năm 1963, con thuyền đặc vụ vũ trang mang tên Thành công số 1 lao vào tiến hành phá hoại đoàn thuyền đánh cá ở khu vực Đông Hải Nam Lộc Sơn Ôn châu. Quân canh giữ Ôn Châu thuộc hạm đội Đông Hải của quân giải phóng đã cử ba chiến hạm hộ vệ cao tốc, truy tìm thuyền đặc vụ Thành công số 1. Trong tình trạng con thuyền này lẩn vào trong các con thuyền đánh cá, đã phải thực thi ba lần đột kích với nó, cuối cùng cũng đã bắn chìm được nó.Ngày 22 tháng 11 năm 1963, con thuyền đặc vụ T3166M của quân đội Quốc dân đảng ngụy trang thành thuyền đánh cá lẩn vào khu vực Nam hải Kiệt Thạch Loan tỉnh Quảng Đông. Tàu hộ vệ hạm đội 4 Nam Hải của quân giải phóng lao tới bao vây chặt, vận dụng phương pháp kết hợp giữa áp lực quân sự với tiến công chính trị, quyết không buông súng, đã bức chiếc thuyền này phải treo cờ đầu hàng.Ngày mồng 5 tháng 3 năm 1964, con thuyền đặc vụ Thành công số 4 của quân đội Quốc dân đảng đã tiến vào hải vực Bình Đàm Phúc Kiến, chuẩn bị nhằm thời cơ tập kích đảo Bình Đàm. Nhưng con tàu hộ vệ hạm đội 3 Đông Hải vội vã xông ra khu vực chiến đấu, bắt sống con thuyền đó.Đội đột kích Thủy lục của quân Quốc dân đảng liên tục húc vào tường, lại tổ chức Đội đột kích trên biển để tiến hành hoạt đồng Đột kích trên biển.Ngày mồng 1 tháng 5 năm 1964, cục tình báo Đài Loan phái cử 7 chiếc Tàu Sói biển của Đội đột kích trên biển, xuất phát từ đảo Đông Dẫn, hòng lần lượt tập kích những thuyền tàu qua lại trên đường biển từ Đảo ứng nổi tới Đảo Rồng bay và những con tàu hộ vệ của giải phóng quân neo đậu ở Đảo Bắc Sương. Chúng đã trà trộn vào trong đoàn thuyền đánh cá của ngư dân, chờ thời cơ phát động tập kích bất ngờ. Sau khi hạm đội Đông Hải của giải phóng quân trinh sát rõ tình hình, đã dùng 9 chiếc tàu hộ vệ lao vào giao chiến. Đúng 7 giờ, hai chiếc tàu hộ vệ của quân giải phóng làm nhiệm vụ cảnh giới đã triển khai cuộc đánh nhau trên biển với bốn chiếc Tàu Sói biển địch, bắn bị thương và bắt giữ một chiếc, số còn lại tháo chạy. Ba chiếc tàu hộ vệ khác của quân giải phóng biết tin vội vàng tới trợ chiến, khi truy kích ba chiếc Tàu Sói biển họ đã triển khai pháo chiến với khu trục hạm Số hiệu Đơn Dương và tàu săn ngầm số hiệu Bắc Giang của bọn Quốc dân đảng. ít lâu sau tàu hộ vệ của quân giải phóng lại bắn chìm hai chiếc Tàu sói biển ở gần đảo Đông Dẫn.Ngày 18 tháng 11 năm 1964, ba chiếc Tàu sói biển của Quốc dân đảng kéo một chiếc tàu bộc phá đựng trên dưới 200 ki lô gam thuốc nổ, lái từ hướng bán đảo Hoàng Kỳ đi Mã Tổ, ý đồ khi gặp phải chiến hạm của giải phóng quân, thì sẽ cho nổ tàu bộc phá, hấp dẫn hỏa lực quân giải phóng, sau đó sẽ thừa cơ tiến hành công kích. Điều mà bọn địch không thể ngờ được là, sau khi đụng độ với quân giải phóng, hai chiếc tàu hộ vệ của hạm đội Đông Hải đã lao thẳng vào bọn địch, cắt đứt đường rút lui của Tàu sói biển. Hải quân Quốc dân đảng kinh hoàng hỗn loạn, vội vàng cho nổ Tàu bộc phá rồi cho hạm đội chạy trốn ra ngoài với tốc độ cao. Hai chiếc tàu bảo hộ của giải phóng quân không hề để ý tới mục tiêu bộc phá, dốc toàn lực truy kích Tàu sói biển, cuối cùng đã bắn chìm một chiếc của chúng.Ngày mồng 8 tháng 7 năm 1964, 5 tên đặc vụ của Cục tình báo bộ quốc phòng nhà đương Cục Đài Loan, chia nhau ngồi trên hai con thuyền đặc vụ nhân hiệu Mãn Khánh Thịnh và Nhãn hiệu Mãn Khánh Thăng ngụy trang thành thuyền đánh cá Nhật Bản, xuất phát từ Cảng nước ngọt Đài Loan, âm mưu thực thi việc đột kích Cảng Lữ Tứ Tỉnh Giang Tô, ngoạm một miếng rồi chuồn thẳng. Hạm đội Đông Hải của quân giải phóng cử ra tàu bảo vệ, tàu quét mìn mỗi loại hai chiếc vội vã tới vùng biển Lữ Tứ đón bắt. 23 giờ ngày 11, tàu hộ vệ mang số hiệu Hoành Dương của quân giải phóng phát hiện thuyền đặc vụ mang số hiệu Mãn Khánh Thịnh ngụy trang thành thuyền đánh cá mang Số hiệu Khánh Thịnh Hoàn của Nhật Bản, đã nã pháo bắn trọng thương, bức nó phải đầu hàng. Tiếp theo đó, tàu quét mìn mang số hiệu Sa Gia Điếm phát hiện mạn thuyền của một chiếc thuyền đánh cá dấu hiệu Khánh Thăng Hoàn mà ở đuôi thuyền lại đánh dấu Mãn Khánh Thăng, do đó đã nhận định đó chính là thuyền đặc vụ mang số hiệu Mãn Khánh Thăng, sau khi khuyên nó đầu hàng vô hiệu đã bắn chìm nó. Trong lần chiến đấu này, hải quân quân giải phóng đã bắn chết tên thiếu tá đại đội trưởng Quốc dân đảng cùng 8 tên lính, bắt sống tên phó đại đội trưởng và 72 tên.Buổi tối ngày 11 tháng 7 năm 1964, những thuyền đặc vụ mang số hiệu Đại Kim số 1, Đại Kim số 2 của cục tình báo Đài Loan, treo quốc kỳ nước Anh, lần lượt đổi tên là Âu Ngư số 1 và Âu Ngư số 2 chở 45 tên đặc vụ vũ trang và 29 thuyền viên, từ Cảng Nghiến Nam Việt Nam lái về Đài Loan, ba chiến hạm xung kích từ căn cứ Du Lâm của Hạm đội Nam Hải quân giải phóng đã nhận lệnh lao ra chiến khu. Chiều ngày 12 đã bắn chìm một chiếc tàu đặc vụ ngụy trang, bắn chết chìm 14 tên, bắt làm tù binh 60 tên.Từ năm 1962 đến tháng 7 năm 1965, hải quân quân giải phóng trước sau đã lần lượt tiêu diệt 47 toán đặc vụ vũ trang trên biển của bọn Quốc dân đảng, tiêu diệt một bộ phận của 13 toán, bắn chết 100 tên Quốc dân đảng bắt sống 316 tên.Giai đoạn thứ hai là từ tháng 8 năm 1965 đến cuối năm. Trong giai đoạn này đã phát sinh hai lần hải chiến quan trọng - Cuộc hải chiến 6-8 và cuộc hải chiến về phía đông Sùng Vũ. Hải quân giải phóng quân trong hai lần hải chiến này lấy tàu nhỏ đánh hạm lớn, đã giành được những chiến tích huy hoàng, đả kích trầm trọng vào hải quân Quốc dân đảng, bắt buộc những hoạt động gây rối trên biển của địch phải dần dần giảm bớt thậm chí có xu hướng đình chỉ.Sau khi những hoạt động tập kích quấy rối quy mô nhỏ do tập đoàn Tưởng Giới Thạch lợi dụng thuyền tàu Cỡ nhỏ tiến hành bị thất bại chúng đã quyết định điều động tàu hạm cỡ trung bình và lớn của hải quân, đảm nhận nhiệm vụ vận chuyển những tốp đặc vụ vũ trang cỡ nhỏ. Chúng nhận định rằng những tàu hạm cỡ lớn và trung bình trọng tải lớn, hỏa lực mạnh, tốc độ nhanh, có thể đánh có thể chạy, có thể đánh đòn bất ngờ để thắng địch, hai lần hải chiến quan trọng chính là đã phát sinh trong bối cảnh như vậy.5 giờ ngày 5 tháng 8 năm 1965, Kỳ hạm của hạm đội 2 tuần phòng trên biển của Quốc dân đảng - Nhãn hiệu Kiếm Môn tàu săn ngầm cỡ lớn và nhãn hiệu Chương Giang tàu săn ngầm cỡ nhỏ, vận chuyển một tốp đặc vụ vũ trang chấp hành kế hoạch biển gào của Cục tình báo bộ quốc phòng Đài Loan, từ Tả doanh Đài Loan bí mật ra biển, lái tới vùng ven biển Quảng Đông, chuẩn bị thẩm thấu vào Phúc Kiến. Nhãn hiệu Kiếm Môn vốn là hạm quét mìn do Mỹ chế mớn nước là 1250 tấn, tốc độ chạy là 20 tiết, đặt 10 khẩu hỏa pháo có đường kính 76,2 milimét. Nhãn hiệu Chương Giang là tàu săn ngầm cỡ nhỏ do Mỹ chế tạo, lượng mớn nước lày đặc tăng tốc tiếp cận mục tiêu, mãi cho đến khi nhìn rõ cột buồn của tàu địch mới cùng nổ súng. Dưới hỏa lực mạnh bắn gần của hạm đội hải quân giải phóng quân, Nhãn hiệu Kiếm Môn vội vàng chạy trốn, Nhãn hiệu Chương Giang đã bị bốn tàu hộ vệ của quân giải phóng bám chặt trúng đạn liên tục. Khi nó có ý đồ chạy trốn, liền bị công kích mạnh ở cự ly từ 30 đến 50 mét, rất nhanh chóng đã bốc lửa, nổ tung, cuối cùng đã chết rũ chìm xuống đáy biển ở phía đông nam đảo Đông Sơn.Đồng thời với điều này, 8 tàu hộ vệ và 1 chiếc pháo hạm của hải quân giải phóng đã dốc toàn lực truy đuổi Nhãn hiệu Kiếm Môn. Khi cự ly còn cách chiến hạm địch trên dưới một ngàn mét, các tàu cùng nổ súng. Bốn phút kịch chiến, Nhãn hiệu Kiếm Môn trúng đạn bốc cháy, lúc này hạm đội ngư lôi tăng tốc lao tới phân thành 2 tổ, phóng 10 quả ngư lôi vào chiến hạm địch. Con tàu nhãn hiệu Kiếm Môn rất nhanh chóng đã bốc khói mù mịt, vào lúc 5 giờ 22 phút đã chìm xuống phía đông nam đảo Đông Sơn. Trong cuộc chiến này, tên thiếu tướng Quốc dân đảng Hồ Hạ Hằng cùng hơn 170 tên sĩ quan và binh lính địch đã toi mạng, 33 tên bị bắt.Sau Cuộc hải chiên 6-8 không lâu, Kỳ Hạm - tàu săn ngầm cỡ lớn Nhãn hiệu Vĩnh Thái - đội bạn đi tuần tra khu nam của hải quân Quốc dân đảng, đã dẫn hộ vệ hạm đội pháo Nhãn hiệu Vĩnh Xương ngụy trang ra biển từ Cảng Mã Công Bành Hồ vào lúc 13 giờ ngày 13 tháng 11, lái về hướng Ô khâu, dự định kế hoạch sẽ tới Ô Khâu vào lúc 23 giờ ngày hôm ấy.Để giáng trả những hoạt động tập kích quấy rối của hải quân Quốc dân đảng, hạm đội Đông Hải của hải quân giải phóng quân đã quyết định dùng 6 tàu hộ vệ, 6 tàu ngư lôi tổ chức thành biên đội xung kích trên biển để tiêu diệt biên đội Nhãn hiệu Vĩnh Thái trên mặt biển phía nam Ô Khâu.Đúng 23 giờ ngày hôm đó, hai bên đã gặp nhau ở trên mặt biển phía nam Ô Khâu. Bốn chiếc tàu hộ vệ quân giải phóng đã lao vào đánh chiến hạm Vĩnh Thái, hai chiếc tàu hộ vệ lao vào đánh chiến hạm Vĩnh Xương, còn tàu ngư lôi đang đợi thời cơ. Khi hai bên có cự ly cách nhau 1000 mét đã triển khai cuộc pháo chiến ác liệt. Không lâu, người chỉ huy chính của biên đội quân giải phóng là Ngụy Viên Vũ bị thương nặng hôn mê, rất nhiều người trên chiến hạm chỉ huy đã bị thương, cuộc chiến đấu mất chỉ huy, tình thế đã đảo ngược Vĩnh Thái chạy trốn về hướng Ô Khâu. Sau khi Ngụy Viên Vũ tỉnh lại, đã khôi phục lại sự chỉ huy, đã ra lệnh cho đội tàu ngư lôi công kích. Tàu phóng ngư lôi của quân giải phóng đã ba lần phóng ngư lôi vào Vĩnh Xương của địch, nhưng vì chiến hạm địch né tránh chuyển hướng nên chưa tiêu diệt được, vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 14, hạm đội số 145 hải quân giải phóng đã gội làn pháo hỏa dày đặc, bình tĩnh tới gần Vĩnh xương cự ly còn 350 mét, đồng thời phóng hai quả ngư lôi, phần đuôi của nó bị bắn trúng, mất hết năng lực cơ động, bắt đầu chìm xuống đáy biển. Sau khi biên đội xung kích lao vào bắt sống 9 tên địch vào lúc 3 giờ 5 phút ngày 14 họ đã rút về.Trong cao trào tấn công quấy rối lần thứ hai phản công đại lục của tập đoàn Tưởng Giới Thạch, không quân quốc dân đảng cũng rất lồng lộn. Chúng dựa vào những chiếc máy bay có tính năng ưu việt do Mỹ cung cấp, nhiều lần bay sâu vào vùng đất quân giải phóng, chủ yếu là tiến hành chụp ảnh trinh sát. Lính hàng không của không quân giải phóng quân và bộ đội phòng không mặt đất cũng như nhau đều đã đánh trả những đòn nặng nề vào không quân Quốc dân đảng. Do đó, từ trên tổng thể đã đập tan được những hoạt động phản công của tập đoàn Tưởng Giới Thạch.Sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch chạy trốn ra chiếm cứ Đài Loan, liền sau đó không quân Quốc dân đảng đã tiến hành trinh sát từ trên không đối với đại lục. Từ năm 1951 đến năm 1966, máy bay quân đội Quốc dân đảng đã mò sâu vào đại lục 862 lần.Năm 1959, chúng bắt đầu trang bị máy bay kiểu RF-101 có tính năng tiên tiến. Đây là loại máy bay trinh sát chiến đấu có tốc độ siêu âm, thiết bị trinh sát cũng rất hoàn mỹ. Từ tháng 1 năm 1960 đến tháng 7 năm 1961, không quân Quốc dân đảng trước sau đã 9 lần điều động loại máy bay này tiến hành trinh sát đối với các vùng Sán Đầu, Tấn Giang, Chương châu, Long Điền, Lộ Kiều v.v... Đồng thời với cái đó, tập đoàn Tưởng Giới Thạch cũng bắt đầu sử dụng máy bay trinh sát trên cao kiểu U-2, đi sâu vào khu vực tung thâm của đại lục. Đến năm 1962, không quân Quốc dân đảng quấy phá đại lục vẫn dùng hai loại máy bay này là chủ yếu. Không quân và bộ đội phòng không giải phóng quân đánh trả sự tập kích quấy rối trên không của Quốc dân đảng chủ yếu vẫn nhằm vào loại máy bay trinh sát trên cao kiểu U-2 là chính.Máy bay kiểu U-2 là một loại máy bay gián điệp có sứ mệnh đánh cắp tình báo quân sự của nước khác, cánh nó dài, trọng lượng nhẹ, tốc độ nhanh, thời gian bay được dài, thiết bị trinh sát tiên tiến. Từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1962, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã điều động 15 lần chiếc máy bay kiểu U - 2 tiến hành trinh sát đối với đại lục, phạm vi hoạt động ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trong toàn quốc. Do vì máy bay kiểu U-2 bay với tốc độ rất cao khả năng bay từ hai vạn mét trở lên, lúc đó máy bay tiêm kích Míc - 19 của không quân giải phóng chỉ có thể bay được trên dưới 18000 mét, nên khó có thể ngăn cản có hiệu quả đối với loại Máy bay U-2 này. Không quân giải phóng quân nhân dân đã quyết định sử dụng mấy tiểu đoàn tên lửa đất đối không hữu hạn để đánh máy bay kiểu U-2.Ngày 27 tháng 6 năm 1962, tiểu đoàn 2 tên lửa đất đối không của quân giải phóng đã đều bí mật rời khỏi Bắc Kinh, dùng phương thức vận chuyển bằng đường sắt cơ động tới lắp đặt mai phục ở Trường Sa Hồ Nam, thế nhưng suốt hai tháng không gặp máy bay địch. Cơ quan không quân của quân giải phóng qua phân tích tỉ mỉ đường bay đi sâu vào đại lục của máy bay U-2, phát hiện máy bay địch thường xuyên bay qua bầu trời Nam Xương, hơn thế, hễ phía quân giải phóng có sự điều động quân sự tương đối lớn, máy bay U-2 tất sẽ tới trinh sát, tức thì quyết định đưa hai tiểu đoàn điều tới Nam Xương. Ngày 28 tháng 8, tiểu đoàn 2 tên lửa đất đối không của quân giải phóng từ Trường Sa cơ động tới Nam xương tỉnh Giang Tây, rồi dùng phương thức di chuyển sân bay của binh chủng hàng không để nhử cho máy bay U-2 xuất hiện Khoảng trên dưới 6 giờ ngày 9 tháng 9, một chiếc máy bay trinh sát tầm cao U-2, với tốc độ cao 2 vạn mét qua đảo Bình Đàm Phúc Kiến tiến sâu vào bầu trời đại lục, bay về phía Nam Xương - Tiểu đoàn 2 Rađa với cự ly 379 kilô mét đã phát hiện mục tiêu, thế nhưng máy bay địch đã rẽ quẹo từ một địa phương cách 75 kilômét đã bay xa. Lúc 8 giờ 29 phút, sau khi máy bay địch bay qua Cửu Giang, bỗng nhiên quẹo trái vòng trở lại, bay thẳng tới Nam Xương. Khi cự ly cách máy bay địch 70 kilô mét, ba quả tên lửa của quân giải phóng vọt lẹ lên trời, hai quả đã trúng đích. Xác máy bay địch rơi xuống gần chợ La Gia về phía đông nam thị trấn Nam Xương 15 kilômét, tên thiếu tá phi công Trần Hoài thân trúng mảnh đạn, sau khi nhẩy dù xuống mặt đất qua cấp cứu cũng vô hiệu, hắn đã chết!Sau khi máy bay U-2 của không quân Quốc dân đảng bị bắn rơi một chiếc, chúng đã vội vàng cải tiến thiết bị quấy nhiễu điện tử và hệ thống báo động né tránh của máy bay, tiếp tục sử dụng loại máy bay này quay trở lại quấy rối trinh sát. Từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1963, máy bay U-2 khi tiến sâu vào quấy nhiễu Lan châu, Tân An v.v.. đã 3 lần tới gần địa điểm mai phục của quân giải phóng. Sau khi quân giải phóng mở ăng ten điều khiển ra đa, bọn địch liền dựa vào hệ thống báo động nhanh chóng lẩn trốn, đã tránh khỏi đòn đả kích. Sau khi các cuộc mai phục luôn gặp thế bất lợi, qua nghiên cứu bộ đội không quân giải phóng phát hiện, thông thường máy bay U-2 sau khi mở ăng ten điều khiển ra đa dẫn tên lửa đất đối không bay lên 20 giây, chúng mới bắt đầu cơ động. Điều này nói rõ rằng nếu thu ngắn cự ly điều khiển Rađa mở ăng ten, giảm bớt thời gian chuẩn bị phóng tên lửa, thì sẽ có khả năng bắn rơi được máy bay địch.Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1963, một chiếc máy bay U-2 của địch cất cánh bay từ căn cứ Đào viên Đài Loan, 7 giờ 43 phút bay qua Ôn châu thọc sâu vào đại lục. Sau 11 giờ máy bay địch lại bay trở lại quấy rối qua Ngô Trung, Tam môn Hiệp Tín Dương, Cửu Giang tiến vào bầu trời Tiểu đoàn 2 tên lửa đất đối không bố trí trận địa mai phục. Tiểu đoàn 2 đã phát hiện ra mục tiêu từ một nơi cách xa 180 kilô mét. Tại chỗ còn cách 35 kilô mét họ đã mở dây ăng ten điều khiển ra đa, sau đó chỉ dùng thời gian 8 giây phóng lên ba quả tên lửa, có một quả bắt trúng mục tiêu, xác máy bay địch rơi xuống vùng núi Vạn La huyện Quảng Phong tỉnh Giang Tây, tên thiếu tá phi công Diệp Thường Đệ bị bắt sống.Ngày 16 tháng 10 năm 1964, Trung quốc đã cho nổ thành công quả bom nguyên tử đầu tiên. Quân giải phóng phán đoán nhất định bọn địch sẽ cử máy bay tiến hành hoạt động trinh sát, quấy p tục chiến đấu với máy bay địch vào quấy rối.19 giờ 56 phút ngày mồng 10 tháng 1 năm 1965, một chiếc máy bay trinh sát trên cao U-2 của không quân Quốc dân đảng từ căn cứ địa không quân Đào Nguyên Đài Loan cất cánh, từ Khải Đông Tô Bắc tiến vào Đại Lục, tiểu đoàn 14 tên lửa đất đối không của quân giải phóng, sau khi đã bài trừ được sự quấy nhiễu mang tính chất trả lời của máy bay địch phát ra, đã liên tục phóng lên 3 quả tên lửa, có 1 quả trúng mục tiêu, tên lái máy bay địch bị bắn chết ở trong khoang lái.Với sự đả kích của bộ đội tên lửa đất đối không quân giải phóng từ năm 1962 đến năm 1967, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã liên tục tổn thất mất 5 chiếc máy bay U-2.Đồng thời với việc đánh máy bay U-2 địch của bộ đội tên lửa đất đối không, bộ đội hàng không hải quân và bộ đội hàng không không quân cũng đã nhiều lần bắn rơi các máy bay địch khác tiến vào xâm phạm đại lục.14 giờ ngày 18 tháng 12 năm 1964, một chiếc máy bay kiểu RF-101 của Quốc dân đảng từ tầm thấp lẻn vào vùng Lộ Kiều Triết Giang, bộ đội hàng không hải quân quân giải phóng tại căn cứ Lộ kiều lập tức bay lên hai chiếc máy bay Tiêm kích - 5 ẩn mình bay vào chiến khu, cuối cùng đã bắn cháy được chiếc máy bay RF - 101 của chúng, rơi xuống đáy biển, bắt sống tên giặc lái.Ngày 18 tháng 3 năm 1965, bộ đội hàng không của không quân giải phóng quân đã bắn rơi một chiếc máy bay kiểu RF - 101 ở khu vực Sán Đầu.Ngày 13 tháng 1 năm 1967, một chiếc máy bay kiểu RF - 104G, được sự yểm hộ của 4 máy bay chiến đấu âm mưu trinh sát sân bay Tấn Giang. Tám chiếc máy bay Tiêm kích - 6 của quân giải phóng đã bay lên nghênh chiến cuối cùng đã bắn rơi một chiếc máy bay chiến đấu kiểu F - 104 của địch.Do vì máy bay vào quấy rối đại lục của không quân Quốc dân đảng nhiều lần bị đả kích trầm trọng, bắt đầu từ cuối năm 1960, chúng liền dần dần giảm bớt những hoạt động quấy rối bằng không quân đối với đại lục.Từ đầu năm 1950 đến cuối năm 1960, trong việc tập kích quấy rối của hai cao trào phản công lục địa, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã tổn thất hơn 44400 tên sĩ quan và binh lính, tổn thất 348 chiếc tàu, xuồng, thuyền các loại, bị bắn rơi 46 chiếc máy bay, mà lại chẳng hề giành được một tấc đất nào của đại lục hoặc trên các hòn đảo ven biển. Giấc mộng phản công phục quốc của Tưởng Giới Thạch đã bị hủy diệt triệt để. Cho nên, sau khi bước vào năm 1970, vô luận là ở lục địa, trên biển hay trên không, những hoạt động tập kích quấy rối quân sự của tập đoàn Tưởng Giới Thạch đều đã đình chỉ về cơ bản.


    Phần 7 - Chương 1: Trò nấp trong vại của Tưởng Giới Thạch


    Tưởng Giới Thạch là một yếu nhân quân sự, chính trị. Trong mấy chục năm Tưởng đã ra sống vào chết, trải qua biết bao gian nan nguy hiểm, trong đó có bọn quân phiệt truy giết, có sự bắn giết ở chiến trường, cũngcó sự binh gián của các tướng lĩnh chống Nhật yêu nước và sự đụng chạm va vấp trong chiến đấu với giặc Nhật. Giữa lúc gian nguy như bão tuyết gào thét bên thân mình trong đêm đông, Tưởng Giới Thạch đã dùng tâm thái như thế nào để xử trí, lại làm thế nào để hóa nguy hiểm thành an lành?Giữa cái sống và cái chết, Tưởng Giới Thạch đã vung tay múa chân, đều là Cánh cửa sổ quan trọng nhìn lén nhân sinh quan, vinh nhục quan của Tưởng Giới Thạch cả.
    Trong Sa gia Bang Tuồng bản mẫu của Kinh kịch có một điệu hát hay tuyệt vời, nói rằng Hồ tư lệnh Cứu quốc quân trung nghĩa bị giặc Nhật truy đuổi không còn lối thoát thân, đã được bà chủ quán trà Xuân Lai là A Khánh Tẩu thông minh cơ trí giấu kín vào trong vại nước, ẩn nấp qua được sự lục soát của bọn lính Nhật, đại nạn mà không chết, thật đúng có thể nói là trong Tuồng có tuồng. Vào thời kỳ trai trẻ của Tưởng Giới Thạch cũng đã từng được một người đàn bà giấu vào trong vại nước, thoát khỏi được sự truy xét của địch đã bảo đảm được mạng sống. Đó là năm 1918, Tưởng Giới Thạch vừa qua tuổi 30, đúng vào dịp đi theo Tôn Trung Sơn tiên sinh, bắt đầu hăng hái sôi nổi muốn làm nên sự nghiệp. Lúc đó, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ hỗn chiến của quân phiệt, Tưởng Giới Thạch rất muốn thể hiện rõ thâm thủ của mình ở trong cuộc đấu tranh của quân phiệt cũ mới. Khi Tôn Trung Sơn tổ chức lực lượng Cách mạng đánh bọn quân phiệt phản động cũng đã nghĩ tới con người Tưởng Giới Thạch này. Ngày 12 tháng 3 theo điện triệu gọi của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch rời Thượng Hải, vội vàng tới Quảng Đông. Lúc đó, cuộc chiến đấu ở xung quanh Quảng Đông rất ác liệt. Trương Kính Nghiêu dẫn một cánh quân tiến công Quế Lâm, Tào Côn dẫn một cánh quân tiến công Thiền Quan, Trương Hoài Chi dẫn một cánh quân tấn công Công châu. Trương Hoài Chi còn có ý đồ sau khi cướp đoạt Huệ Châu sẽ cùng tấn công Quảng Châu với Trung lộ quân. Sau khi Tưởng Giới Thạch tới Quảng Châu lập tức đảm nhận chức vụ chủ nhiệm khoa tác chiến của Tổng bộ Trần Quýnh Minh quân đội Việt, hiệp trợ với Trần Quýnh Minh vạch ra kế hoạch tác chiến. Sau mấy ngày, Tưởng Giới Thạch lại tới mặt trận Hoàng Cương, Triều An, Tam Hà Bá, Tùng Khẩu, Tiêu Sầm để thị sát. Lúc đó tính tích cực của Tưởng Giới Thạch rất cao, rất mong muốn thể hiện thân thủ của mình ở trên chiến trường. Thế nhưng do vì trong chính phủ bảo vệ Phật Pháp Quảng châu còn tồn tại mâu thuẫn, một số người như Đường Kế Nghiêm, Lục Vinh Đĩnh v.v.. lại phản đối Tôn Trung Sơn nhậm chức Đại nguyên soái, đã ảnh hưởng tới sức chiến đấu của quân đội, một số suy nghĩ của Tưởng Giới Thạch vẫn chưa thể thực hiện được.Theo sự phát triển của chiến tranh, vào đầu tháng 7 Tưởng Giới Thạch từng kiến nghị với Trần Quýnh Minh, cử bộ đội chủ lực đi qua đường biển tới Chương Châu của Phúc Kiến, rồi chờ thời cơ cướp lấy Phúc Châu; hoặc giả cử một đơn vị bộ đội có sức chiến đấu mạnh tiến thẳng tới Long Nham Phúc Kiến, tiến sát Chương châu, Phúc Châu. Đối với kiến nghị này của Tưởng Giới Thạch, Trần Quýnh Minh tương đối tán thưởng. Thế nhưng quân đội của cánh quân thứ nhất do tư lệnh Lý Bính Vinh chỉ huy đã để mất Đại Phố vào ngày 19, kế hoạch này cũng không thể thực hiện được. Thế nhưng đối với tình hình chiến sự ở Phúc Kiến, Tưởng Giới Thạch đã đặc biệt chú ý, ngày 30 tháng 7, khi Trần Quýnh Minh ra lệnh cho Tưởng Giới Thạch chỉ huy quân đội cướp lại Sư Tử Khẩu, phản công Đại Phố, Tưởng Giới Thạch đã chiến đầu ác liệt ba ngày ba đêm ở trên trận địa, cuối cùng đã thu phục lại được Đại Phố. Thế nhưng, do vì nguyên nhân những thất bại ở trên các chiến trường khác, Tưởng Giới Thạch đã phát sinh ra mâu thuẫn với các đồng liêu, trong lúc bực tức đã từ bỏ chức vụ chủ nhiệm khoa tác chiến, quay trở về Thượng Hải. Lần bỏ đi này đã lưu lại những tai nạn ở Phúc Kiến những ngày sau.Tưởng Giới Thạch chỉ sống ở Thượng Hải hơn hai chục ngày đã liên tiếp nhận được điện báo của Tôn Trung Sơn và Trần Quýnh Minh yêu cầu Tưởng phải trở về Quảng Châu nhận chức. Mặc dù trong lòng Tưởng đã có hàng trăm điều không hài lòng, nhưng cũng không dám bỏ mặc không đếm xỉa gì đến các bức điện báo của Tôn Trung Sơn và Định Uy tướng quân Trần Quýnh Minh. Lúc đó, Trần Quýnh Minh bản thân là tổng tư lệnh ở Chương châu Phúc Kiến, Tưởng Giới Thạch lại vội vã chạy tới Chương châu, Trần Quýnh Minh bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch đảm nhiệm chức sĩ quan tư lệnh chi đội thứ hai, bộ tư lệnh của chi đội này đặt tại Trường Thái Phúc Kiến. Lúc này Tưởng Giới Thạch có thể trực tiếp chỉ huy trên một ngàn người, ngày thành lập bộ tư lệnh hôm đó, Tưởng Giới Thạch đọc bài diễn văn tế cáo Đã chiến tất phải thắng, đã đánh tất phải thắng, thống nhất Trung Hoa, bình định toàn giang sơn cơ nghiệp... hoàn thành sự nghiệp vĩ đại của cuộc cách mạng, đều do thần linh ban cho cả. Tưởng Giới Thạch tuyệt đối không thể ngờ được tráng trí chưa báo đáp, nguy hiểm đã gặp họa sát thân.Trong thành luyện Trường Thái vốn có một chi đội đóng giữ do Lã Công Dực chỉ huy. Lã Công Dực là người Vĩnh Khang tỉnh Triết Giang, từ những năm trước đã được gửi đến học tập ở khoa cấp tốc trường quân sự Bảo định, năm 1911 đảm nhận sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2 trung đoàn 82. Sau cuộc khởi nghĩa Vũ xương bùng nổ, Lã hưởng ứng cách mạng, chỉ huy quân đội đánh chiếm Nam Kinh, về sau đảm nhiệm chức sư trưởng sư đoàn 6 quân Triết Giang, đô đốc kiêm tỉnh trưởng tỉnh Triết Giang. Tháng 7 năm 1917 khi Tôn Trung Sơn phát động phong trào bảo vệ Phật pháp, Lã Công Dực ra sức ngăn cản quân đội Triết Giang tiến công Quảng Đông. Không lâu, Lã lại đảm nhiệm tổng tư lệnh quân đội Viện Mân Triết của quân bảo hộ Phật pháp. Khi Tưởng Giới Thạch tới Trường Thái nhận chức sĩ quan tư lệnh chi đội, Lã Công Dực vừa hay cũng ở Trường Thái.Tưởng Giới Thạch và Lã Công Dực đã vừa là đồng hương lại đều là hai viên chiến tướng dưới đại kỳ Phong trào bảo vệ Phật pháp, vốn không nên có sự xung đột lợi hại to lớn. Tình yêu quê hương của con người Tưởng Giới Thạch này rất nặng, sau khi Tưởng đắc tg lòng đã thực sự không vui, cũng chẳng coi bộ tư lệnh này của Tưởng Giới Thạch ra cái thứ gì.Một hôm, chi đội hai này với quân đội Viện Mân Triết chỉ vì một sự việc nhẹ như lông gà, mỏng như vỏ hẹ mà đã phát sinh ra xung đột, hai bên đã đánh nhau. Lã Công Dực vốn trong lòng có bực bội, sau khi nghe tin đã chẳng phân đỏ xanh vàng tím, đã hạ lệnh cho quân đội bao vây bộ tư lệnh của chi đội. Để bảo vệ uy tín của bản thân mình là sĩ quan tư lệnh, Tưởng Giới Thạch đã va chạm nẩy lửa với đối phương. ở địa phương Trường Thái này, Tưởng Giới Thạch còn xa mới là đối thủ của Lã Công Dực, chẳng bao lâu, những binh lính ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch đã bị Lã Công Dực đánh chết mấy tên. Tưởng Giới Thạch nhìn thấy tình hình nguy cấp trong sớm tối, cũng chẳng kể gì tới bộ tư lệnh, vội vàng vượt tường chạy thoát thân.Trong thành huyện Trường Thái, tiếng đại bác càng kịch liệt, những tiếng súng này giống như những con qủy đòi mạng, hoảng sợ quá, Tưởng Giới Thạch đã chẳng quản gì liền chạy trốn. Khi trốn ra khỏi thành huyện, Tưởng Giới Thạch ngoảnh cổ lại nhìn đằng sau lưng mình chẳng còn một sĩ quan và binh lính nào của chi đội 2 nữa, quân đội Triết Giang do Lã Công Dực chỉ huy vẫn còn đang liều mạng đuổi theo. Tưởng Giới Thạch sải cẳng chạy bước dài trốn vào trong nhà một người nông dân.Bà chủ nhà của hộ nông dân này là người Giang Tây. Mấy hôm trước đã từng có một lần giao tiếp gặp mặt Tưởng Giới Thạch. Bà ta nhìn thấy vẻ mặt sợ hãi ngượng ngùng của ngài sĩ quan tư lệnh họ Tưởng, đang muốn hỏi cho rõ lẽ, lại nhìn thấy quân Triết từ xa đang đuổi tới, cũng chẳng kể gì tới an nguy của bản thân vội vàng kéo tay Tưởng Giới Thạch đẩy vào trong một chiếc vại lớn, rồi dùng chiếc lồng hấp đậy lên trên chiếc vại lớn đó, trên chiếc lồng hấp đó còn đặt rải rác một số áo quần. Vừa thu xếp xong, một viên sĩ quan dẫn một toán lính thở hổn hển xông vào trong nhà. Họ lật tung mọi thứ ở trong nhà, còn giận dữ quát tháo truy hỏi bà chủ nhà. Kết quả họ chẳng thu được gì lại vội vàng chạy sang nhà khác tìm kiếm, lục soát.Tưởng Giới Thạch bị nhốt ở trong vại, lòng buồn rười rượi, nhưng không dám phát ra nửa tiếng kêu. Người phụ nữ nông dân kia nhìn thấy binh lính đã đi xa, mới lo lắng sợ hãi nâng chiếc vung lồng hấp đậy vại kia lên. Tưởng Giới Thạch đã quỳ ở trong chiếc vại này hơn một giờ đồng hồ mới bảo toàn được tính mạng.Sau sự việc, Tưởng Giới Thạch đã đem sự việc vất vả nhọc nhằn này quy vì bản thân mình bị ốm, không cử nhiều người đi trinh thám. Tướng sĩ không có ý chí chiến đấu, binh sĩ vào thành cướp bóc hãm hiếp. Các bộ thuộc như Lương Hồng Khải v.v... đều đam mê tửu sắc, không nghe lệnh chỉ huy v.v... Điều khiến cho Tưởng Giới Thạch cảm thấy thương tâm nhất đó là, vì để thoát chết, Tưởng đã đánh mất cuốn nhật ký của 6 năm qua và hai bộ binh thư. Hai bộ binh thư này, một cuốn là Chiến thuật ben Cơ do một người Đức bình thường viết ra, chí ít Tưởng Giới Thạch đã xem được sáu lượt. Còn một cuốn nữa là cuốn Chiến tranh luận nổi tiếng cũng do người Đức viết ra. Hai bộ sách này trong nhiều năm nay Tưởng Giới Thạch luôn đem theo nó ở bên mình, thường xuyên mở ra đọc. Lần này để mất, Tưởng Giới Thạch hối hận vô cùng.So với mạng sống, Chiến thuật Ben Cơ và Chiến tranh luận có đáng kể gì ? Tưởng Giới Thạch đã lấy điều đó để tự an ủi mình.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 12:42 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 7 - Chương 2: Tưởng Giới Thạch với sự kiện lầu Đông Pha



    Trên bờ sông Châu Giang ở ngoại ô phía đông Quảng Châu, có một hòn đảo Trường Châu rất xinh đẹp. Đảo Trường Châu đã kết duyên với quân đội. Vào cuối năm đời Thanh một pháo đài canh giữ sông đã tọa lạc ở đầu phía đông đảo Trường Châu. Đầu năm Dân quốc, trường Tiều học lục quân, học đường thủy quân Quảng Đông lần lượt được xây dựng ở trên đảo Trường Châu. Thế nhưng điều thực sự khiến cho đảo Trường Châu lừng danh trong thiên hạ là có trường quân sự Hoàng Phố.Trường Quân sự Hoàng Phố là trường đào tạo sĩ quan lục quân được xây dựng lên do Tôn Trung Sơn sáng lập dưới sự giúp đỡ của Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì địa chỉ của trường đặt ở đảo Trường Châu Hoàng phố, người đời phần lớn chỉ gọi là trường quân sự Hoàng phố. Tưởng Giới Thạch luôn coi quân đội là sinh mệnh cho nên rất coi trọng trường quân sự Hoàng Phố, đã tìm trăm phương ngàn kế để làm vừa lòng Tôn Trung Sơn. Ngày mồng 3 tháng 5 năm 1924 Tưởng Giới Thạch được Tôn Trung Sơn bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố kiêm tham mưu trường bộ tổng tư lệnh quân đội Việt. Từ đó về sau, trường quân sự Hoàng phố đã được Tưởng Giới Thạch đào tạo ra khối lượng lớn những người thân tín thống trị Trung Quốc cũ, cũng đã đem lại những viên đạn hận thù giữa những kẻ đối địch nhau về chính trị. Lúc đó, cuộc đại cách mạng như gió cuốn mây dồn, những địa chủ vũ trang ở vùng Quảng châu cũng hăng hái kéo bè kết phái, chiếm đất làm vua, cuộc đấu tranh giữa các phe phái rất kịch liệt. Tưởng Giới Thạch là quân phiệt mới quật khởi, nền móng không vững chắc, cây to gọi gió, âm mưu ám sát ở lầu Đông Pha, nguy hiểm tới mức chỉ chút nữa là Tưởng Giới Thạch bỏ mạng.Tưởng Giới Thạch đã làm thế nào để thoát khỏi những viên đạn ám sát ông ta?Buổi đầu Tưởng Giới Thạch đảm nhận chức hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, để xác lập nên hình tượng cách mạng của mình ở trong học sinh trường quân sự và trong quân đội Quảng Đông, suốt ngày Tưởng bận rộn túi bụi, tỏ ra rất cần cù phấn đấu. Tưởng chẳng những đã mạnh dạn gửi thư phát biểu ý kiến về quân sự chính trị về các vấn đề có quan hệ tới việc cải cách quân sự, thống nhất tài chính, cải tổ quân đội v.v... đưa tới ẹy ban quân sự Quốc dân đảng, mà còn thường xuyên khảng khái hùng hồn quán triệt chuyển tải những tư tưởng trung hiếu nhân ái cho học sinh. Trong hơn 8 tháng trước khi Đông chinh lần thứ nhất, Tưởng Giới Thạch đã diễn thuyết 46 lần với học sinh Hoàng Phố. Có một lần, do vì trong khi giảng giải về tư tưởng chủ nghĩa yêu nước của mình, Tưởng đã quá xúc động đến nỗi ngất đi nằm lăn xuống đất. Trong công việc thường ngày, phàm những điều Tưởng suy nghĩ tới, cho dù là một sự việc nhỏ, Tưởng cũng không dây dưa.Theo sự phát triển nhanh và mạnh của hình thế cách mạng, trường quân sự Hoàng Phố không ngừng mở rộng, các nơi như Bình cương, Hồ Điệp Cương ở trên đảo Trường Châu và Ngư Châu, Sa Lộ, Thâm Tỉnh, Đại Thạch Đầu v.v... ở hai bờ Châu Giang, đã lần lượt phân học sinh trường quân sự đến ở. Đền họ Trần, Bãi Bắc Giao, Sa Hà của thị trấn Quảng Châu cũng trở thành phân hiệu của trường quân sự Hoàng Phố. Tưởng Giới Thạch làm hiệu trưởng, mỗi tuần đều phải tới các nơi kiểm tra vài lượt, hoặc chấn chỉnh hiệu phong, hoặc diễn thuyết, biểu hiện rõ hùng tâm tráng khí của mình.Một buổi chập tối, Tưởng Giới Thạch bận rộn làm xong việc công vụ của một ngày, chuẩn bị ngồi xe từ Tổng đội bộ học sinh nhập ngũ tới kiểm tra mấy phân hiệu ở trong thành phố Quảng Châu. Mấy viên sĩ quan của Tổng đội bộ đã từng khuyên hiệu trưởng, yêu cầu Tưởng đừng đi Quảng Châu nữa. Tưởng Giới Thạch vừa xuất viện, lỗ mũi còn thường xuyên chẩy máu. Thế nhưng Tưởng Giới Thạch dùng lời nói khéo cảm ơn, vẫn cố ý ngồi vào chiếc xe ca có cắm chiếc cờ nhỏ thanh thiên bạch nhật.Tưởng Giới Thạch ngồi trong xe ca, đắc ý vẫy tay chào đoàn người ra tiễn. Trước đây, Tưởng đóng cửa, xe từ từ chạy, Tưởng luôn luôn đem theo tư thế và nụ cười như thế này rời khỏi đoàn người ra tiễn mình. Thế nhưng hôm nay, người lái xe liên tiếp đạp máy khởi động, chiếc xe ca vẫn không thể phát động được. Những nụ cười trên mặt Tưởng Giới Thạch tan biến, một cơn tức giận bỗng sôi trào trong tim.Một viên lính hầu bước lại, muốn nói một câu gì đó, chiếc xe ca đã phát động. Tưởng Giới Thạch đang tựa lưng ở phía sau, bỗng nhiên cảm thấy thân thể trấn động, chiếc xe ca lại tắt hỏa. Người lái xe xuống xe rồi lại lên xe, toàn thân vã mồ hôi mà vẫn chưa thể chữa được xe. Tưởng Giới Thạch đã không chịu đựng nổi nữa. Tưởng đã xuống xe, nhìn thấy chiếc xe hộ vệ đang đỗ ở phía sau, Tưởng liền chui vào trong xe, vội vã nói:
    - Nổ máy! Cho xe chạy mau!
    Các vệ sĩ nhìn thấy, đang muốn lên xe, thì xe đã chạy đi khá xa rồi.Lúc này tình cảm của Tưởng Giới Thạch không vui, xe vào Quảng Châu, liền bắt lái tới văn phòng hiệu trưởng. Tưởng xuống xe, chưa uống xong tách trà, bỗng nhiên nghe thấy một tràng súng nổ đanh gấp. Tưởng Giới Thạch giật mình kinh sợ, một cảm giác rủi ro nhói trong tim, Tưởng kinh hoàng hỏi: Tại sao lại có tiếng súng nổ ?Những tiếng súng này đúng là nhằm vào Tưởng Giới Thạch. Tục ngữ nói: Cây to gọi gió!. Mấy năm nay, dã tâm của Tưởng Giới Thạch hừng hực cháy, đã khống chế trường quân sự Hoàng Phố và một bộ phận tương đối lớn quân quyền và chính quyền của Quảng Đông, đã dẫn tới sự đối kỵ oán hận của các quân phiệt địa phương, cũng có một số tướng giặc có thế lực không lớn muốn trừ diệt Tưởng Giới Thạch đi để khuấy đục nước hồ này của Quảng Đông. Ng.Chỉ có Tưởng Giới Thạch mới được ngồi vào chiếc xe ca có cắm cờ thanh thiên bạch nhật. Tình báo của quân đội đóng ở nơi đó rất chuẩn, mục tiêu cũng rất chuẩn, Thần xui qủy giục như thế nào, mà vừa hay Tưởng Giới Thạch lại không ngồi ở trong chiếc xe đó.Tưởng Giới Thạch được biết nguyên do Sự kiện lầu Đông Pha, hoảng sợ quá toàn thân toát mồ hôi, đối mặt với đội vệ sĩ phấp phỏng vì quá cẩn thận, Tưởng gào to tới mức cổ rát sức kiệt, nói:- Tưởng Trung Chính ta là con người ngồi ngay, đứng thẳng. Những loại âm mưu này, đừng có hòng động tới một sợi lông tơ của ta!Kỳ thực trong lòng Tưởng đã vô cùng cảm tạ thần thánh phù hộ. Trước đó một số hôm có một thuật sĩ giang hồ đã nói với Tưởng.Trong vũ đài lớn của Xã hội, vô luận là người nào, hễ gặp con số 9 thì đều bất lợi cả. Chu Du chết bệnh năm 29 tuổi, Nhạc Phi bị bức hại phải chết năm 39 tuổi, Hồ Lâm Dực cũng chết năm 49 tuổi.Năm nay Tưởng Trung chính 38 tuồi, không lo lắng có tai hại lớn gì hay sao?Thế nhưng Sự kiện lầu Đông Pha cuối cùng đã thọc sâu làm đau buốt con tim của Tưởng Giới Thạch. Tưởng đau đớn không phải vì sáu tên vệ sĩ đã chết kia, mà là lo lắng tới đám quân đóng ở nơi đó kia muốn mưu sát Tưởng. Sự việc đã lộ tẩy chân tướng rất nhanh chóng, hành động mưu sát đó là do quân đội của Dương Kim Long gây ra. Tên Dương Kim Long này là một Lữ đoàn trưởng quân đội cũ của Lương Hồng Khải. Khi hắn đứng ở trên lầu thành nhìn thấy chiếc xe bị đánh đó có cắm cờ Thanh thiên bạch nhật, cho rằng Tưởng Giới Thạch tất chết rồi chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nào ngờ việc giết Tưởng chẳng thành, còn mình lại trở thành Tên tù dưới bậc. Lương Hồng Khải bị Tưởng Giới Thạch bức ép không biết làm thế nào, hắn không thể không bắt giữ xét xử Dương Kim Long.Ngày hôm sau, với danh nghĩa Tổng tham mưu trưởng Việt quân, Tưởng Giới Thạch điều động lữ đoàn của Dương Kim Long ra ngoại thành.Sự kiện lầu Đông Pha, Tưởng Giới Thạch gặp đại nạn mà không chết. Tưởng biết rõ trong kịch lại có kịch, thế nhưng do vì bản thân Tưởng chưa đủ lông đủ cánh, nên chỉ có thể như vậy mà thôi!



    Phần 7 - Chương 3: Tại sao Tưởng Giới Thạch chưa tự sát ?


    Tháng 9 năm 1925, trong cuộc Đông Chinh lần thứ nhất của quân Cách mạng quốc dân, tên quân phiệt Quảng đông Trần Quýnh Minh đã vấp phải đòn đả kích trầm trọng, nhân lúc Liêu Trọng Khải bị đâm chết, Dương và Lưu ở Quảng Châu phản loạn, đã dựa vào việc vay một khoản tiền mặt rất lớn và 3 triệu viên đạn mà Chính phủ thực dân Hồng công bỏ ra, cùng với 30 vạn đồng lương quân đội của chính phủ Đoàn Kỳ Thụy bỏ ra, đã chỉ huy bọn tàn quân lại một lần nữa phát động cuộc phản loạn; sau khi chiếm lĩnh Triều châu, Sán Đầu v.v... lại bắt đầu tiến công Quảng Châu. Những người như Đặng Bản Ân, Hùng Khắc Vũ v.v.. câu kết với quân phiến loạn, từ ba mặt đông, nam, bắc đánh khép gọng kìm vào Quảng Châu. Vì thế, Chính phủ quốc dân Quảng Châu quyết định tiến hành cuộc Đông chinh lần thứ hai. Tưởng Giới Thạch đảm nhiệm chức Tổng tư lệnh quân Đông chinh lần thứ hai. Ai ngờ trong lần Đông chinh này, Tưởng Giới Thạch lạc cực sinh bi, khi thân lâm vào tuyệt cảnh, một độ đã muốn tự sát để Thành nhân. Điều này vì sao vậy?Lần Đông chinh này, Tưởng Giới Thạch hấp thụ được những bài học lần trước, trước khi xuất quân đã ban phát lệnh hành quân, kỷ luật nghiêm minh, thay đổi kế hoạch tác chiến, trước hết đưa quân chủ lực Đông chinh tiến về sào huyệt cũ Huệ Châu của Trần Quýnh Minh.Huệ Châu có tên gọi là chiếc chìa khóa của Đông Giang, phía đông gối núi, ba mặt nước vây quanh, thành phòng hiểm yếu, dễ giữ khó đánh. Truyền thuyết kể rằng từ đời Tống đến nay có giữ là được, từ trước tới nay chưa có người nào có thể công phá được thành Huệ Châu. Lúc đó, Huệ Châu có bộ đội chủ lực của Trần Quýnh Minh là Dương Khôn Như phòng thủ, cho rằng không thể nào có sơ xuất mất mát được. Tưởng Giới Thạch thân mang chức Tổng tư lệnh quân Đông Chính, quyết tâm trước hết phải phá tan tiền lệ cho rằng thành Huệ Châu khó đánh hạ, Tưởng đã tổ chức đội cảm tử trên 650 tên, mỗi tên được thưởng 30 đồng, rồi tiến hành phá thành mạnh mẽ dưới sự yểm hộ của hỏa lực đại pháo. Tưởng Giới Thạch còn đích thân chỉ huy, treo giải thưởng 100 đồng cho người nào vào Thành trước nhất. Đúng là với sức mạnh trọng thưởng tất có kẻ dũng phu. Qua hai ngày kịch chiến, thành Huệ Châu dễ giữ khó đánh, cuối cùng đã bị quân Đông chính công phá. Dương Khôn Như hoảng sợ chạy trốn ra ngoài Đông môn, hơn 4000 tên lính của hắn bị bắt sống. Tưởng Giới Thạch vô cùng sung sướng tuyên bố trước mọi người, mỗi binh sĩ được thưởng tiền là 1 đồng, được thưởng thịt lợn là bốn lạng.Sau khi phá được Huệ Châu, Tưởng Giới Thạch vui mừng đắc ý liền ra lệnh cho quân đội tiếp tục tiến lên phía trước, quét sạch bọn tàn quân địch. Chính trong lúc Tưởng Giới Thạch say xưa với chiến tích hiển hách của mình, sư đoàn thứ ba quân Đông chinh do Đàm Thự Khanh chỉ huy đã bị quân chủ lực của bọn làm phản Trần Quýnh Minh bao vây chặt ở khu vực đất Đường Hồ gần Hoa dương vào ngày 27 tháng 10, tổn thất rất thảm hại . Tưởng Giới Thạch nghe tin giật mình kinh sợ lập tức vội vàng tới Hoa Dương đốc chiến, hòng cứu vãn cục thế thất bại. Tưởng còn đặc biệt đem theo đại đội hộ vệ của Bộ tổng chỉ huy quân Đông chinh do đại đội trưởng Trần Canh dẫn đầu. Đúng là tên đại đội trưởng Trần Canh này đã cứu mạng Tưởng Giới Thach.Khi đánh Huệ Châu, Trần Canh còn đang làm đại đội trưởng ở trung đoàn số 4 thuộc trung đoàn chủ công của Lưu Nghiêu Thần. Trong cuộc chiến đầu phá thành, Trung đoàn trưởng họ Lưu chết trận, chân trái của Trần Canh cũng bị thương, thế nhưng Trần Canh không chịu rời chiến trường, vẫn chỉ huy quân đội anh dũng chiến đấu. Sau khi kết thúc cuộc chiến đấu, Tưởng Giới Thch đã điều độing đại đội của Trần Canh tới làm nhiệm vụ hộ vệ ở bên cạnh mình.Sư đoàn ba do Đàm Thự Khanh chỉ huy, từ quân Việt cải biên thành, sức chiến đấu tương đối yếu. Sau khi Tưởng Giới Thạch chạy tới sở chỉ huy Lý Vu, đã liên tục tổ chức ba lần phản công, nhưng đều thất bại. Trong lúc đang điều chỉnh quân đội, bỗng nhiên vấp phải một đợt đánh thọc cạnh sườn của quân phiến loạn Lâm Hổ, thế là toàn tuyến của Sư đoàn ba đều bị tan vỡ. Tưởng Giới Thạch bực tức ngay lúc đó đã cách bỏ chức vụ Sư đoàn trưởng của Đàm Thự Khanh, hạ lệnh cho Trần Canh giữ quyền Sư đoàn trưởng sư đoàn này, thu thập lại quân đội tan vỡ, tổ chức lại các đợt phản công. Thế nhưng, thế đại quân tan vỡ thất bại không có cách gì chống đỡ nổi. Trần Canh tạm thời giữ quyền sư đoàn trưởng, có những bộ đội không nghe sự chỉ huy của Trần, nhìn thấy quân phiến loạn dần dần áp sát tới gần, các nhân viên của Bộ tổng chỉ huy cũng tháo chạy tán loạn. Nhìn thấy tình hình này, Tưởng Giới Thạch càng bức tức bại hoại, rút súng lục ra vung lên quát tháo ấm ỹ ở sở chỉ huy:- Không được rút lui! Không ai được phép rút lui!Tiếng nói vừa dứt, một viên đạn bay véo qua tai, Tưởng Giới Thạch hoảng sợ quá ngồi bệt mông đít xuống dưới đất. Nhìn thấy quân phiến loạn dần dần áp sát, lo sợ quá, Tưởng giơ súng lục lên, quát to:- Ta sẽ tự sát để thành nhân tại đây, ta không còn mặt mũi nào trở về nhìn thấy các phụ lão Giang Đông nữa. Đúng là Tưởng muốn bắt chước tấm gương của Sở Bá vương Hạng Vũ tự vẫn ở Ô Giang. Nhìn thấy tình hình này, Trần Canh vội vàng bước tới khuyên can:- Ngài là tổng chỉ huy, hành vi của ngài sẽ phát sinh ảnh hưởng đối với toàn bộ chiến sự lần này. ở đây cuối cùng chỉ là một sư đoàn hơn thế vẫn chẳng phải là quân đội do Hoàng Phố huấn luyện ra. Xin hãy mau mau rời khỏi nơi này. Chúng ta có thể chỉnh đốn lại quân đội, rồi sẽ đánh trở lại.Trong khi nói chuyện, quân phiến loạn càng ngày càng tới gần đen kịt. Tưởng Giới Thạch hoảng Sợ quá hai chân mềm nhũn, không sao có thể tự đứng lên được nữa. Trần Canh nhìn thấy tình thế càng ngày càng nguy cấp, chẳng kể gì tới vết thương ở chân mình, đã cố hết sức cõng Tưởng Giới Thạch rút lui về phía sau.Trần Canh cõng Tưởng Giới Thạch trên lưng, chạy một mạch mấy cây số, tới bên một dòng sông, đưa Tưởng lên trên một con thuyền, rồi vội vàng quay trở lại tổ chức bộ đội chặn đánh quân địch truy đuổi tới. Khi Trần Canh vượt qua sông thoát nạn thì ánh tịch dươngg đã ngả về tây rồi. Tưởng Giới Thạch hồn kinh chưa định, bắt Trần Canh phải lập tức chạy ra ngoài 160 dặm đường để truyền đạt mệnh lệnh của Tưởng cho sư đoàn một, để cho sư đoàn một kéo tới chi viện. Để bảo đảm thắng lợi của cuộc Đông chinh, Trần Canh chẳng quản gì tới vết thương ở chân và sự mệt mỏi của một ngày kịch chiến, đã hóa trang thành một người nông dân, bôn ba một ngày một đêm, ứng phó với sự quấy rối của mấy toán thổ phỉ, cuối cùng đã đem tình hình cuộc chiến đấu ở Hoa Dương báo cáo với Hà ứng Khâm và Chu Ân Lai ở Sư đoàn 1. Lúc này Tưởng Giới Thạch mới tiếp tục tổ chức ba sư đoàn tiến hành phản công, đánh tan quân đội của Lâm Hổ, tới ngày úng là ân sủng cùng có đủ.Thế nhưng, mối cảm kích đối với ơn Trần Canh cứu mạng của Tưởng Giới Thạch đã phát sinh biến hóa rất nhanh chóng. Sau khi quân Đông chinh đánh hạ đựoc Sán Đầu, Tưởng Giới Thạch bất ngờ biết được Trần Canh học sinh khóa 1 trường Hoàng Phố vốn là một đảng viên Cộng sản. Tưởng lập tức lật mở cuốn danh sách sĩ quan các cấp là học sinh trường quân sự Hoàng Phố đặt ở trong phòng ra, vẽ một ký hiệu vòng tròn đỏ ở bên cạnh họ tên Trần Canh, còn ghi chú thêm Người này là đảng viên Cộng sản không thể để cho hắn cầm quân được.Khi tham mưu hầu cận Trần Canh bước vào trong phòng ở của Tưởng Giới Thạch, vô tình nhìn thấy hàng chữ viết ở bên cạnh của Tưởng, lập tức liên báo cáo tình hình với Chu Ân Lai. Chu Ân Lai yêu cầu Trần Canh phải rời khỏi Tưởng Giới Thạch ngay. Trần Canh lập tức lấy lí do về quê thăm mẹ tới xin phép Tưởng Giới Thạch. Trong óc Tưởng Giới Thạch lập tức nhớ lại hàng chữ ghi bên cạnh mà mình đã viết trước đó mấy hôm, thế những trên miệng vui vẻ bằng lòng ngay, còn cử người đưa tiền lộ phí cho Trần Canh. Sau khi Trần Canh rời khỏi bộ tổng chỉ huy quân sự đông chinh liền về trường quân sự Hoàng phố đảm nhiệm đại đội trưởng đại đội 7 trung đoàn 1 khoa bộ binh.Năm 1931, Trần Canh trên thân mang chức vụ Sư đoàn trưởng sư đoàn 12 Hồng quân công nông Trung Quốc trong khi đột phá vòng bao vây của quân đội Quốc dân đảng chân phải bị thương nặng, khi điều trị ở Thượng Hải không may bị bắt, bọn phản động Quốc dân đảng đã dùng hết mọi cực hình đối với vị ân nhân đã cứu mạng Tưởng Giới Thạch này, uy hiếp dụ dỗ, rồi lần lượt dẫn giải Trần Canh từ Thượng Hải đến Nam Kinh, từ Nam Kinh chuyển tới Nam Xương, lại từ Nam Xương giải tới Nam Kinh, giày vò trăm nỗi đớn đau. Đây là câu chuyện về sau.


    Phần 7 - Chương 4: Tưởng Giới Thạch nhìn thấy hồng Quân kéo tới Quý Dương


    Hồng quân Công nông Trung Quốc do vì bị tổn thất nặng nề trong cuộc chống Vây quét lần thứ năm, Trung Ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và quân ủy Cách mạng Trung Quốc đã quyết định bỏ Tô khu Trung ương, tức thì vào đêm mồng 10 tháng 10 năm 1934 đã chỉ huy 5 quân đoàn chủ lực hồng quân Trung Ương cùng các Cơ quan trung ương, quân ủy và bộ đội trực thuộc tổng cộng 8 vạn 6 ngàn người bắt đầu cuộc Trường chinh. Tưởng Giới Thạch tìm trăm phương ngàn kế muốn bao vây tiêu diệt hồng quân, say sưa mãn nguyện, vội vã điều khiển mấy chục vạn quân đội chặn trước đuổi sau, hòng khiến cho hồng quân lại vấp phải tổn thất nặng nề trong thời kỳ đầu của cuộc Trường chinh. Thế nhưng, khi quân đội hồng quân sắp kéo tới Quý Dương, Tưởng Giới Thạch chỉ một lòng nghĩ tới việc bao vây tiêu diệt hồng quân, thì hầu như Tưởng đã trở thành tù binh của hồng quân.Đầu năm 1935, hồng quân Trung ương bất thình lình đánh chiếm Tuân Nghĩa tỉnh Quý Châu, đem mấy chục vạn quân truy quét tiêu diệt của Quốc dân đảng quẳng tới khu vực phía đông và phía nam Ô giang. Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã kịp thời tiến hành Hội nghị mở rộng ở Tuân Nghĩa, uốn nắn những sai lầm trên mặt quân sự tả khuynh mạo hiểm của Vương Minh, một lần nữa khẳng định một loạt hệ thống chiến lược chiến thuật chính xác mà Mao Trạch Đông đã căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn chiến tranh tổng kết ra, xác lập địa vị lãnh đạo của Mao Trạch Đông trong hồng quân và Trung ương Đảng. Sau khi Mao Trạch Đông nắm giữ quyền chỉ huy, đã lợi dụng đầy đủ những mâu thuẫn của kẻ thù, chỉ huy hồng quân khéo léo xen kẽ vào giữa những tập đoàn quân đội của địch, đạo diễn ra kiệt tác Tứ độ xích thủy, (4 lần vượt qua sông Xích thủy) nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh này, hầu như đã đặt Tưởng Giới Thạch vào đất chết.Sau khi hồng quân chiếm lĩnh được Tuân Nghĩa, Tưởng Giới Thạch vội vàng điều động tập trung binh đoàn Tiết Nhạc và toàn bộ chủ lực quân Kiềm, quân Điền cùng với một bộ phận quân đội Tứ Xuyên, Hồ Nam, Quảng Tây, tiến áp vào khu vực Tuân Nghĩa, hòng đem toàn bộ hồng quân bao vây tiêu diệt ở khu vực biên giới hai tỉnh Xuyên Kiêm phía Tây bắc Ô giang. Không lâu, Tưởng Giới Thạch còn đích thân tới Quý Dương chỉ huy, làm như tất sẽ thắng. Vì vậy Mao Trạch Đông đã chỉ huy hồng quân trước sau đã mấy lần vượt qua sông Xích Thủy tại các vùng Bái Viên hầu (nay là Nguyên Hâu), bến Thái Bình, bến đò Nhị Lang, Mao Đài v.v...trung tuần tháng 3 lại kéo vào Xuyên Nam. Tưởng Giới Thạch phán đoán hồng quân sẽ lại vượt Trường Giang ở phía bắc, vội vàng ra lệnh cho tất cả quân đội truy kích về phía Xuyên Nam, lại hạ lệnh cho quân đội ở biên giới ba tỉnh Xuyên, Kiềm, Điên gấp rút tu sửa xây dựng các lô cốt âm mưu phong tỏa bao vây tiêu diệt hồng quân.Thế nhưng, Mao Trạch Đông đoán địch như thần, sau khi bọn địch bắt đầu hành động, hồng quân đã dùng một trung đoàn giương cờ đánh trống dụ địch đi về hướng tây, quân chủ lực đột nhiên lại quẹo về hướng đông bắc. Bước tới ngày 21 tháng 3 đã vượt qua sông Xích Thủy đi về phía đông lần lượt qua bến đò Nhị Lang, Cửu Khê Khẩm bến Thái Bình. Cánh phải từ tập đoàn quân đội địch cấp tốc tiến về phía nam, phía nam vượt qua Ô Giang tiền phong bức thẳng tới Qúy Dương.Lúy này, quân đội Quốc dân đảng đều tuân theo mệnh lệnh của Tưởng Giới Thạch xung kích về hướng Xuyên Nam, vùng phụ cận Qúy Dương chỉ có 4 trung đoàn của sư đoàn 99. Tưởng Giới Thạch đang đốc chiến ở Qúy Dương được biết chủ lực của hồng quân đã áp sát Qúy Dương, cho rằng hồng quân sắp đánh Qúy Dương, vội vàng lồng lộn lên, quát chửi những tên dưới quyền không nắm rõ được ý đồ chân thực của hồng quân, đã để chúng đánh lừa. Trong lòng Tưởng Giới Thạch hiểu rất rõ, lúc này Qúy Dương như thể một ngôi thành trống rỗng, hễ chủ lực của hồng quân tập kích tới Qúy Dương thì bốn trung đoàn ở bên thân mình tuyệt đối không thể bảo giá được.Có lẽ nào cứ như vậy chịu để cho hồng quân tóm bắt hay sao? Cứ như vậy lại chịu làm tên tù ở dưới bậc thềm của Mao Trạch Đông hay sao? Trước mắt hồng quân cách Qúy Châu chỉ có mấy chục dặm đường, Tưởng Giới Thạch lòng nóng như lửa thiêu, để giữ lấy mạng sống, Tưởng Giới Thạch một mặt ra lệnh cho quân đội ở các đường phải hỏa tốc lao tới cứu viện Qúy Dương, để cho bộ đội quân phiệt Vân Nam tới trước Cứu giá; một mặt ra lệnh cho quân Quốc dân đảng Qúy Dương tử thủ sân bay. Các cứ điểm khác có thể để mất, duy có sân bay thì không thể để mất. Đồng thời còn để cho tham mưu hầu cận chuẩn bị kiệu ngựa, tìm người dẫn đường tốt, hễ hồng quân tới đánh Thành luôn luôn chuẩn bị tháo chạy- Sau khi bố trí xong mấy đạo mệnh lệnh, Tưởng Giới Thạch vẫn hoang mang lo sợ, vẫn luôn luôn tra hỏi hồng quân có đánh thành hay không? Viện quân của Quốc dân đảng khi nào có thể tới nơi?Quân đội hồng quân kéo tới Qúy Dương, vì sao Tưởng Giới Thạch gặp phải đại nạn mà không chết? Khi hồi tưởng lại cuộc Trường chinh, Lưu Bá Thừa đã viết: Khi bố trí hành động lần này, Mao Trạch Đông đã từng nói: Chỉ cần có thể điều động được quân Điền ra thì chính đã là thắng lợi. Quả nhiên, bọn địch đã hoàn toàn hành động dựa theo sự chỉ huy của Mao Trạch Đông. Tức thì quân đội Trung Quốc đã dùng một quân đoàn bao vậy Long Lý ở đông nam Quý Dương, hư trương thanh thế, mê hoặc quân địch. Số chủ lực còn lại xuyên qua con đường Tương (Hồ Nam)Kiềm (Quí châu), chen thẳng vào Vân Nam, đi ngược hẳn lại quân đội của Điền (Vân nam) tới cứu viện Quý Dương. Nguyên soái Nhiếp Vinh Trăn, trong ghi chép hồi ký cùng viết, hồng quân tiến thẳng nhanh chóng, quân tiên phong áp thẳng tới chân thành Quý Dương, quân đội giữ thành Quý Dương hoảng sợ đã phải đóng chặt bốn cửa, còn quân giải phóng thì từ ngoai ô thành Quý Dương trước tiên hướng về Quý Định, sau đó lại ngoặt trở lại, ngày mồng 9 tháng 4 từ một cửa rất nhỏ ở giữa Quý Dương tới Long Lý, theo hướng đông bắc đi xuống đông nam vòng qua Quý Dương. Lúc đó Tưởng Giới Thạch đã ở Quý Dương, từ xưa đến nay Tưởng vẫn thô lỗ liều lĩnh, lần này vì giải phóng quân hành động thần tốc, Tưởng không mò được ra ý đồ của giải phóng quân, lại vẫn cứ cho rằng giải phóng quân muốn đánh Quý Dương.Xem ra, đúng là Tưởng Giới Thạch tự mình dọa cho mình hoảng sợ mà thôi!


    Phần 7 - Chương 5: Tưởng Giới Thạch chạy trốn về Tróc Tưởng Đình


    Về phía Tây bắc dưới chân núi Nam Lệ thành huyện Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây có một nơi thắng địa du chơi rất đẹp, đó là Hoa Thanh Trì. Nước ở trong Hồ Hoa Thanh nóng tới 43oC, trong nước bao hàm nhiều thành phần hóa học, thích hợp cho việc tắm gội điều dưỡng chữa bệnh. Tương truyền Tần Thủy Hoàng đã làm cho nữ thần nổi giận ở Lệ Sơn, sau khi bị nữ thần nhổ vào mặt, lập tức mọc thành mụn. Tần Thủy Hoàng cầu xin tha, nữ thần dùng nước suối nóng rửa cho Tần Thủy Hoàng khỏi, có thể nhìn thấy Thần của nữ thần. Đường Huyền Tông đời Đường mỗi năm đều phải đem Dương Quý Phi tới Hoa Thanh Trì sống qua mùa đông. Trong bài Trường Hận Ca nhà thơ nổi tiếng Bạch Cư Dị cũng viết: Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh Trì, Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi (Đông về tắm suối Hoa Thanh, nước ấm da mịn long lanh mỡ màng). Năm 1936, sau khi Tưởng Giới Thạch cũng tới Hoa Thanh trì đã cho xây dựng một ngôi đình ở trên núi phía sau cách Hoa Thanh trì không xa lắm. Khi đó những tên Quốc dân đảng gọi ngôi đình này là Đình dân tộc phục hưng, xung quanh ngôi đình còn khắc rất nhiều văn tự ca tụng Tưởng Giới Thạch. Sau khi giải phóng, ngôi đình này được đổi tên là Tróc Tưởng đình(Ngôi đình đã bắt Tưởng Giới Thạch).Tại sao lại gọi nó là Tróc Tưởng Đình? Nói ra thì còn có một đoạn kinh lịch chạy nạn hồn bay phách lạc của Tưởng Giới Thạch nữa. Vốn là, việc rắp mưu tiêu diệt kẻ khác phe cánh. Làm quân phiệt Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch thì ai ai cũng đều biết cả. Quân đội đích hệ của Tưởng Giới Thạch với quân Đông Bắc do Tương học Lương cần đầu và quân đội Tây Bắc do Dương Hổ Thành cầm đầu có mâu thuẫn rất sâu sắc. Sau khi quân Đông Bắc và quân Tây Bắc nhận lệnh tới Thiểm Tây Tiễu Cộng, đã nhiều lần bị hồng quân công nông Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đánh bại. Trương học Lương và Dương Hổ Thành dần dần nhận thức được Tiễu Cộng chẳng có tiền đồ, Tiễu Cộng chỉ có thể làm tổn thất lực lượng của mình, khiến cho Tưởng Giới Thạch ngồi không vớ bở. Với ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân công nông, để xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật, quân đội Đông Bắc, quân đội đường 17 và Hồng quân đã thực hiện sự liên hiệp trên cơ sở chống Nhật vào tháng 10 năm 1936, đã khiến cho phong trào kháng Nhật cứu vong ở khu vực Tây bắc, đặc biệt là khu vực Tây An đã không ngừng phát triển. Đối với tình thế này, Tưởng Giới Thạch cảm thấy vô cùng lo lắng. Sau khi Tưởng xử lý xong sự biến Lưỡng Quảng liền vội vội vàng vàng bay tới Tây An, cưỡng bức Trương Học Lương và Dương Hổ Thành chỉ huy quân đội tiếp tục Tiễu Cộng. Tưởng Giới Thạch còn triệu tập gặp gỡ các sĩ quan quân đội từ cấp sư đoàn trở lên của quân đội Đông Bắc và quân đội đường 17, khẩu khí nghiêm khắc, nói:- Kẻ thù trước mắt chúng ta là Cộng sản Đảng. Người Nhật Bản cách chúng ta rất xa. Chúng ta đánh trận phải trước gần sau xa... vô luận như thế nào, lúc này chúng ta cần phải tiêu diệt Cộng sản Đảng. Quân đội Đông Bắc và quân đội đường 17 hiện tại chỉ có hai con đường để đi: Một con đường là tới Thiểm Bắc tiễu phỉ, quân đội Trung ương làm viện quân của các anh. Một con đường là điều về Mân (Phúc kiến) Hoản (An huy) nghe sự điều khiển của Trung ương, do quân trung ương tiến vào hai tỉnh Thiểm, Cam tiễu Cộng. Trương Học Lương và Dương Hổ Thành đã không bằng lòng tác chiến với hồng quân mới, cũng chẳng bằng lòng quân đội của mình rời khỏi tây bắc. Bị Tưởng Giới Thạch thay đổi biên chế, sau khi hai người bàn bạc, quyết định trước hết sử dụng khóc lóc can gián, khóc lóc can gián không thành thì sẽ dùng binh lính can gián.Ngày hôm sau, Trương Học Lương tới Hoa Thanh Trì, nơi Tưởng Giới Thạch ở, kể lể tình thế trước mắt. Trương học Lương nói: Chỉ có nhất chí kháng Nhật mới là con đường duy nhất làm cho đất nước tồn tại, mới không phụ lòng mong mỏi của nhân dân toàn quốc. Trương còn nức nở khóc lóc kể lể nói toàn thể tướng sĩ quân đội Đông Bắc có tinh thần chống Nhật rất hăng hái. Quân đội ở mặt trận chuẩn bị tự động tổ chức Viện tuy chống Nhật. Nào ngờ Tưởng Giới Thạch không những không chút cảm động suy nghĩ còn bừng bừng giận dữ, quát mắng nghiêm khắc Trương Học Lương là ấu trĩ vô tri, còn đập bàn chửi:- Ngươi bây giờ cho dù có cầm súng giết ta đi thì chính sách của ta cũng không thể thay đổi được!Buổi sáng ngày mồng 9 tháng 12, Tưởng Giới Thạch còn triệu tập hội nghị Tiễu Cộng ở Tây Bắc, chuẩn bị lập tức điều 30 vạn quân đội tiến vào Thiểm Tây, còn Quyết định ngày 12 tháng 12 phát mệnh lệnh bao vây tiễu trừ hồng quân lần thứ 6. Trương Học Lương và Dương Hổ Thành vạn bất đắc dĩ đã phải dùng binh lính để can gián. Tiếng súng tróc nã Tưởng Giới Thạch cuối cùng cũng đã vang lên, tiếng súng này hầu như đã đòi mạng của Tưởng Giới Thạch.Sáng Sớm ngày 12 tháng 12, sau khi Tưởng Giới Thạch ngủ dậy, đặt hàm răng giả ở trên tủ đầu giường, mặc bộ quần áo ngủ đứng trước cửa sổ. Trong sắc đêm mông lung, bỗng nhiên Tưởng nhìn thấy bốn chiếc xe ôtô quân dụng chở đầy lính vũ trang đỗ lại tập trung ở cửa ngoài công quán. Sau khi xuống xe bọn lính vội vàng uà tới gò cửa. Khi bọn lính gác kông chịu mở cửa, bọn lính này lập tức nổ súng. Nghe thấy tiếng súng, Tưởng Giới Thạch giật mình kinh sợ cho rằng có binh biến do Đảng Cộng sản súi giục. Thế nhưng tiếng súng bỗng nhiên dồn dập, mấy tên hạ sĩ quan xông vào trong phòng, hấp tấp nói:- ủy viên trưởng, mau chạy ngay! Mau chạy ngay! - Tưởng Giới Thạch vừa nghe, vội vàng vứt bỏ chiếc áo ngủ, xông ra cửa sau, khi vượt qua bức tường vây vượt qua bức tường vây vườn hoa, một tên hạ sĩ quan dùng sức đẩy Tưởng lên, Tưởng Giới Thạch rơi uỵch xuống dưới chân tường bị thương ở sương sống lưng và xương con khoai ở chân.Để chạy thoát thân, Tưởng Giới Thạch nhịn đau đớn, chẳng kể gì, chạy vọt lên trên đèo núi, hai chân bị gai cào rách thịt mà Tưởng vẫn không hể hay biết. Trên đồi núi đã nhọn lởm chởm, gai mọc um tùm, không có chỗ nào ẩn thân được. Tưởng Giới Thạch chạy một hồi, bàn chân đau buốt quả thực không thể chạy nổi nữa. Lúc này, một tên tùy viên chạy kịp, cõng Tưởng Giới Thạch chạy lên núi phía đông nam. Hắn chạy một mạch tới vài dặm đường mới nhìn thấy một tảng đá to mới vội vàng giấu Tưởng Giới Thạch ở phía sau tảng đá ấy. Sau sự việc này, một số tên trong Quốc dân đảng đã gọi tảng đá này là Dân tộc phục hưng thạch- hòn đá dân tộc phục hưng.Lúc này trên thân Tưởng Giới Thạch chỉ mặc một chiếc áo kép màu xanh, thân dưới chỉ có một chiếc quần đơn màu trắng, trên chân ngay cả một đôi tất cũng chẳng có. Giá rét mưa đông ở vùng tây bắc, gió lạnh thấu xương, Tưởng Giới Thạch vừa lạnh, vừa kinh lại vừa sợ, thân run cầm cập, co ro cúm rúm. Mắt nhìn thấy những tên lính hầu cận ở bên thân, trong tiếng súng ác liệt, từng đứa từng đứa đã trúng đạn ngã gục, nhìn thấy quân đội đen nghịt ở dưới chân núi Lệ, xung quanh hành dinh, tiếng súng máy, tiếng đại bác truy kích, liên tiếp nổ không lúc nào ngừng. Tưởng Giới Thạch đã trên năm mươi tuổi không kìm nổi kinh hoàng, tự hỏi:- Ta thực sự sẽ chết trong tiếng súng điên loạn của đám quân làm phản này sao?Trời mờ mờ sáng, tiếng súng ở Hoa Thanh Trì dần dân yên tĩnh. Trương Học Lương và Dương Hổ Thành nhận được báo cáo của tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc vụ Tôn Minh Cửu: Thứ Trưởng bộ Quân chính Chính phủ Nam Kinh Trần Thành, chủ nhiệm Sở bình định Phúc Châu Tưởng Đỉnh Văn, chủ nhiệm Sở bình định Lan Châu Châu Thiệu Lương, chủ nhiệm Sở bình định liên khu Dự Ngạc Hoản Vệ Lập Hoàng, quân đoàn trưởng quân đoàn 25 Vạn Diệu Hoàng cùng các nhân viên quân chính cao cấp như Trần Kế Thừa, Trần Điều Chi, Tưởng Tác Tân, Tưởng Bách Lý, Trương Xung v.v.. toàn bộ đều bị bắt giữ. Chủ nhiệm ủy bạn soan thảo biên tập Khoa Sử Quốc dân đảng Thiệu Nguyên Xung khi vượt tường chạy trốn bị súng bắn bị thương, sau khi đưa tới bệnh viện không chữa kịp đã bị chết. Duy chỉ có điều là chưa bắt được Tưởng Giới Thạch, thế nhưng ổ chăn trong phòng ngủ Tưởng Giới Thạch vẫn còn ấm, bộ răng giả vẫn còn đặt ở trên tủ đầu giường, chiếc chuyên xa ở trong sân cũng chưa lái chạy. Cho dù Tưởng có chạy trốn cũng chưa chạy được bao xa. Trương Học lương vừa nghe đã nổi nóng, liền lớn tiếng hạ lệnh cho tiểu đoàn trưởng họ Tôn nhanh chóng chia quân lùng sục ở trên núi Để ủy viên trưởng chạy thoát ta sẽ bắn chết ngươi đó!Tưởng Giới Thạch có thể chạy thoát ra khỏi Hoa Thanh Trì được không? Trương Học Lương vô cùng sốt ruột. Vì muốn ép Tưởng phải chống Nhật, trước khi xảy ra sự việc, Trương Học Lương đã từng bí mật thương lượng hai lần với Dương Hổ Thành tại dinh quan của mình, hơn thế, còn đặt ra 3 điều quy định:1. Quyết định 6 giờ sáng ngày 12 sẽ đồng thời hành động ở hai nơi là Tây An và Lâm Đồng.2- Phàm các cuộc nói chuyện của Tưởng Giới Thạch với phía Nam Kinh và Tây An đều cần phải tiếp dây tổng đài thông qua dinh quan của Trương Học Lương để tiện trinh sát hành động của Tưởng Giới Thạch.3- Cử nhân viên tin cậy và đắc lực bắt giữ Tưởng Giới Thạch tại Lâm Đồng vào lúc sáng sớm ngày 12.Tối hôm qua Trương học Lương còn trịnh trọng phân công Tôn tiểu đoàn trưởng, tuyệt đối không để cho Tưởng Giới Thạch chạy thoát. Bây giờ Tưởng Giới Thạch đang ở đâu?Sau khi Tôn tiểu đoàn trưởng vấp phải sự huấn thị quở trách nghiêm khắc của Trương Học Lương, vội vàng cùng binh lính lên núi lục soát. Lúc này trời đã sáng, địa hình địa vật ở xung quanh nhìn đã rõ ràng. Khi chúng lục soát tới tảng đá to đó, nhìn thấy ở trong hang bên cạnh tảng đá có một người cuộn tròn phủ phục, liền dùng súng lục chĩa vào thét lớn:- Ai đó? Có phải là ủy viên trưởng không? Hãy mau ra ngay, nếu không ra sẽ nổ súng lập tức!Tưởng Giới Thạch vừa nghe, vội vàng nói:- Tôi là ủy viên trưởng đây, các ông không được nổ súng, không được nổ súng!- Nói xong liền run run rẩy rẩy bò ra khỏi hang. Khi Tưởng duỗi thẳng lưng, nhìn thấy họng súng của các binh sĩ chĩa thẳng vào mình, liên cụp mắt xuống, nói:- Các anh cứ bắn chết ta đi! - Nói xong, mặt tái xanh tái xám trắng bệch như tờ giấy.Tôn tiểu đoàn trưởng đưa mắt nhìn Tưởng Giới Thạch toàn thân đầy bụi đất, nói:- Chúng tôi không bắn chết ông, chỉ bắt ông phải chống Nhậgiục Tưởng:- Mời ủy viên trưởng hãy mau xuống núi, Trương phó tư lệnh đang đợi ngài!Tưởng Giới Thạch vừa nghe, bỗng nhiên ngồi xuống đất, bực tức nói.- Lưng ta đau lắm không thể đi được. Hãy nói với phó tư lệnh của các anh tới gặp ta!Lưng của Tưởng Giới Thạch qủa thực là đau, khi vượt tường chạy trốn bị ngã lưng đau buốt. Thế nhưng lúc này cho dù lưng chẳng đau Tưởng cũng chẳng chịu đi.- Thưa ủy viên trưởng, ở đây không an toàn. Lưng ngài bị đau, chúng tôi sẽ cõng ngài xuống núi.Tôn Minh Cửu nói xong, tỏ ý cho binh sĩ xung quanh xúm vào khiêng Tưởng lên, du Tưởng, đẩy Tưởng xuống núi, vào tới Hoa Thanh Trì. Chẳng bao lâu, Tưởng Giới Thạch lại bị vừa lôi vừa kéo lên trên một chiếc xe ôtô con, lái về phía Tây An.Ngồi trong xe ôtô, bên trái Tưởng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc vụ Tôn Minh Cửu, bên phải là Lữ đoàn trưởng sư đoàn 105 quân đội Đông Bắc Đường Quân Nghiêu. Theo đà lắc lư của chiếc ôtô, Tưởng Giới Thạch nói một tiếng có ý thức:- Chật quá!Thế nhưng, bây giờ khác, trước kia khác, Tưởng Giới Thạch thân làm ủy viên trưởng lúc này có khác gì tên tù dưới bậc thềm, bản thân Tưởng cũng cảm thấy bây giờ không phải là lúc oán trách được. Trên đường thường xuyên gặp phải quân đội, ôtô lúc chạy lúc dừng. Tưởng Giới Thạch lo lắng sinh ra chuyện bất trắc, thò đầu ra ngoài cửa xe ngó nhìn.- Đây là quân đội nào vậy? - Tưởng hỏi- Quân đội Đông Bắc! - Tôn Minh Cửu lạnh nhạt nói một câu - Phó tư lệnh của chúng tôi ủng hộ ủy viên trưởng chống Nhật!- Ta cũng không phải là không chống Nhật! - Tưởng Giới Thạch lại bực tức - Ta là lãnh tụ quốc gia, quốc sách phải do ta quyết định, đánh Cộng sản là quốc sách đâu có sai! - Tưởng Giới Thạch nén cơn bực tức trào dâng trong lồng ngực, rồi dần dần nhắm mắt lại. Khi xe tới cửa thành Tây An, Tưởng Giới Thạch nghe thấy tiếng ồn ào huyên náo, nhìn thấy bộ đội ở dưới cửa Thành, không nhịn nổi lại hỏi:- Đây là quân đội nào?- Quân đội đường 17! - Tiểu đoàn trưởng họ Tôn rất muốn chửi cho Tưởng một trận.Xe ôtô đỗ lại, một hạ sĩ quan tới mời Tưởng Giới Thạch xuống xe. Tưởng Giới Thạch vẫn muốn ưỡn ngực đứng dậy như trước, bỗng nhiên lưng đau buốt nhói vào tận tim, kêu lên một tiếng Trời ơi! lại ngồi phịch xuống đệm ngồi. Khi viên hạ sĩ quan cõng Tưởng Giới Thạch ra khỏi xe ôtô, Tưởng Giới Thạch đang muốn đứng thẳng, lại bỗng nhiên kêu lên một tiếng Trời ơi! Tôn tiểu đoàn trưởng vội vàng bước tới dìu Tưởng đi, Tưởng Giới Thạch mới không bị ngã lăn xuống mặt trước quần chúng. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc vụ của Dương Hổ Thành là Tống Văn Mai với Tôn tiểu đoàn trưởng cùng dìu Tưởng Giới Thạch vào trong phòng ngủ. ở trong phòng ngủ toàn bộ bóng đèn dây điện đều tháo dỡ hết, chỉ sợ Tưởng Giới Thạch nhất thời nghĩ quẩn tiếp xúc điện tự tử.Sau khi Tưởng Giới Thạch ngồi xuống, đặt chân phải bị thương lên trên đầu gối bên trái, rên rỉ ngắn dài. Tống Văn Mai đưa tới một cốc nước sôi để nguội, Tưởng Giới Thạch bình tĩnh lại, hai tay bưng chiếc cốc nhỏ, uống một hơi cạn sạch. Tống Văn Mai lại vội giót đầy một cốc nữa, Tưởng Giới Thạch lại uống cạn. Giót liên tục, uống liên tục, chỉ trong vòng 10 phút, Tưởng Giới Thạch đã uống hơn 10 cốc nước. Lúc bình thường, chưa bao giờ Tưởng đã uống nhiều nước như vậy.Sau đó, với sự cố gắng của Trương Học Lương, Chu Ân Lai v.v.. Tưởng Giới Thạch bị bức ép phải tiếp nhận yêu cầu đình chỉ nội chiến, đoàn kết chống Nhật.Tưởng Giới Thạch chạy trốn về Tróc Tưởng đình tuy đã thoát cơn nguy hiểm, nhưng một khắc một giây Tưởng vẫn không quên chống cộng, chống nhân dân.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 12:51 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 7 - Chương 6: Tưởng Giới Thạch trên đường thăm ấn Độ trở về



    Sau Sự biến Tây An, Quốc dân đảng đã triệu tập Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ 3 khóa 5, đã xác định chính sách đối với Nhật Bản và sự hợp tác lại từ đầu với Đảng Cộng Sản, phát biểu tuyên ngôn Quốc Cộng hòa bình thống nhất. Ngày 31 tháng 7 năm 1937 Tưởng Giới Thạch phát biểu Thư gửi toàn thể các chiến sĩ kháng chiến đã nói: Sự nhẫn nại mấy năm nay, chửi không chửi lại, đánh không đánh lại... Hiện tại, hòa bình đã tuyệt vọng, chỉ có kháng chiến đến cùng. Trong tháng 8, Tưởng Giới Thạch hoạch định chiến trường Nam Bắc thành 5 chiến khu, còn tự nhận là sĩ quan tư lệnh trưởng chiến khu thứ 3 Thượng Hải, đã đặt ra phương châm tác chiến chủ lực quốc quân tập trung ở Hoa Đông, công kích bọn địch ở Thượng Hải, ra sức bảo vệ mảnh đất quan trọng Tùng Hộ (Thượng hải), củng cố thủ đô. Không lâu, Tưởng Giới Thạch chỉ huy quân đội tiến hành các chiến dịch quyết chiến ở Tùng Hộ, quyết chiến ở Từ Châu với quân đội xâm lược Nhật Bản. Quân đội Quốc dân đảng tuy thương vong nặng nề nhưng quân xâm lược Nhật Bản cũng bị đả kích trầm trọng.Sáng sớm ngày mồng 8 tháng 12 năm 1941, Tưởng Giới Thạch ở biệt thự Hoàng Sơn ngoại ô Trùng Khánh nhận được tin điện báo khẩn cấp chiến tranh Thái Bình Dương đã bùng nổ, Tưởng đã lập tức trở về Trùng Khánh, quyết định tuyên chiến với Đức, Nhật, còn đề suất 3 nguyên tắc thành lập Đồng Minh Thái Bình Dương và Bộ tổng tư lệnh liên quân; yêu cầu Anh, Mỹ, Xô với Trung Quốc cùng tuyên chiến đối với Nhật Bản; sau khi cuộc chiến tranh Thái bình dương thắng lợi, các nước liên minh không đơn độc giảng hòa với Nhật Bản v.v...Ngày mồng 3 tháng giêng năm 1942, Tưởng Giới Thạch đảm nhiệm chức Thống soái tối cao chiến khu Trung Quốc.Để liên hiệp với ấn Độ cùng tác chiến chống Nhật Bản, ngày mồng 4 tháng 2 Tưởng Giới Thạch đã tới thăm ấn Độ. Chính phủ ấn Độ chịu ảnh hưởng của thủ tướng nước anh là Sớc Sin , trong cuộc đàm phán với Tưởng Giới Thạch dài tới nửa tháng, mà vẫn chưa đạt được hiệp nghị nhất trí về cuộc tác chiến với Nhật. Vì thế, đối với Sớc Sin, Tưởng Giới Thạch rất không hài lòng.Ngày 21 tháng 2, Tưởng Giới Thạch khó chịu chẳng vui ngồi lên máy bay trở về nước. Khi máy bay bay tới La Rôn Miến Điện, Tưởng Giới Thạch tạm thời quyết định hạ cánh xuống La Rôn thị sát lính Viễn chinh Trung Quốc vào tác chiến ở Miến. Mấy tháng trước, Nhật Bản sau khi xâm chiếm Malaixia và Singgapor lại vào xâm lược Miến Điện. Cuộc thị sát của Tưởng Giới Thạch cũng là vì làm tăng thêm quân uy cho quân đội viễn chinh.Khi chiếc máy bay của Tưởng Giới Thạch từ La Rôn cất cánh bay về nước đột nhiên vấp phải sự truy kích của 18 chiếc máy bay chiến đấu của Nhật Bản. Cơ trưởng hoảng sợ toát mồ hôi, một mặt báo cho các nhân viên trên máy bay buộc chặt dù, một mặt vội vã dùng vô tuyến điện liên hệ với mặt đất, thỉnh cầu chi viện khẩn cấp.Vừa nghe nói có hơn 10 chiếc máy bay chiến đấu của quân đội Nhật Bản đuổi tới, các nhân viên trên máy bay vô cùng kinh sợ. Lúc đó năng lực hộ vệ của chiếc máy bay này rất yếu, hễ bị máy bay Nhật bắn trúng thì máy bay tan, người chết, ngay đến xương của xác chết cũng không thể tìm thấy được! Tưởng Giới Thạch cũng buộc xong dù, nhưng Tưởng không muốn nhẩy xuống từ độ cao mấy ngàn mét, mà Tưởng đã đem ra một quyển sách lật mở xem. Là nghe theo mệnh trời, hay là...Thế nhưng cuối cùng tai nạn đã không kéo tới, sau một hồi kinh hồn bạt vía, chiếc máy bay của Tưởng Giới Thạch cũng đã hạ cánh an toàn.Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa, gặp đại nạn mà thoát chết!



    Phần 7 - Chương 7: Tưởng Giới Thạch suýt bị bắt sống ở trên đảo Phục Hưng


    Ngày 25 tháng 4 năm 1949, Tưởng Giới Thạch mặc áo ngắn cưỡi ngựa, ngoài khoác áo dài nén chịu nỗi khổ sở đớn đau, với sự hộ tống của một đoàn gia nhân là Tống Mỹ Linh, Tưởng Kinh Quốc, Tưởng Vĩ Quốc v.v... và một đoàn cựu thần là Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy, Trần Lập Phu v.v... đã rời ngôi nhà cũ ở Khê Khẩu, bước lên chiếc quân hạm mang tên Thái Khang ở bến bờ Tượng Sơn, ngày 26 tháng 4 lên Đảo Phục Hưng ở ngoài cửa Ngô Tùng Thượng Hải. Tên tổng tư lệnh quân cảnh vệ Kinh Hộ Hàng, tên tâm phúc của Tưởng Giới Thạch, thấy lạ lùng vì được ưu ái nhiều, vội vã điều binh khiển tướng, bố trí sắp xếp công tác bảo vệ an toàn cho vị Tổng thống đã hạ bệ Tưởng Giới Thạch này.Một tuần lễ trước, hàng triệu Quân giải phóng đã đột phá hào của trời là Trường Giang, với thế gió thu quét sạch lá vàng, tấn công quân đội tàn dư Quốc dân đảng về hướng Giang Nam. Vào ngày Tưởng Giới Thạch tới đảo Phục Hưng, chủ lực binh đoàn 9 của Quân giải phóng thông qua Quảng Đức, quân đội binh đoàn 8, binh đoàn 10 đã tiến thành một tuyến Chùa Thiên Vương, Nghi Hưng. Ngày hôm sau, Tô Châu bị quân đoàn 29 giải phóng quân chiếm lĩnh; khu vực Vu Hồ, Nam Kinh, Trấn Giang cũng nguy trong sớm tối. Tưởng Giới Thạch ở trên đảo Phục Hưng suốt ngày lo sợ hoảng hốt, ngồi đứng không yên.Buổi tối hôm đó, Tưởng Giới Thạch đang sắp tắt đèn đi ngủ, một tên lính hầu cận vội vàng chạy vào, thần sắc hoảng loạn nói với Tưởng Giới Thạch:- Thưa Tổng tài, vừa rồi nhận được mật báo, trung tướng Trương Quyền đã câu kết với Cộng phỉ, chuẩn bị bắt giữ quân hạm, phong tỏa đường thủy cửa Ngô Tùng, dẫn cộng quân tới Đảo Phục Hưng, để...Tưởng Giới Thạch vừa nghe, sắc mặt sám ngoét như sắc mặt người chết. Tưởng nghĩ: Mẹ kiếp! Trương Quyền cũng muốn làm trò giậu đổ bìm leo, muốn bắt ta à? Bắt ta đem đến chỗ Cộng sản để báo công! Mẹ kiếp! Tưởng Giới Thạch vừa tức vừa sợ, vội và đập mạnh, chiếc cốc pha lê ở trên bàn rơi xuống đất vỡ tan, Tưởng gào thét:- Ngay lập tức báo cho Thang Ân Bá, để Thang lập tức bắt Trương Quyền lại, cả Lý Tích Tá cũng phải bắt ngay, bắn chết tại chỗ!Vốn dĩ, trung tướng Trương Quyền là một Sư trưởng nổi tiếng của thời kỳ Bắc phạt Quốc dân đảng, trong quân đội Quốc dân đảng đóng ở Hộ cũng phải kể là người có thâm niên cao. Với thanh thế lớn mạnh lừng lẫy của Giải phóng quân, Trương Quyền chuẩn bị hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tiến hành vũ trang khởi nghĩa, bắt sống Tưởng Giới Thạch. Trương Quyền đã liên lạc được với một tàu quân hạm, chuẩn bị ngầm ở ngoài bến Ngô Tùng, cắt đứt đường chạy trốn của Tưởng Giới Thạch. Nào ngờ, viên tư lệnh Tung đôị cùng chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa với Trương Quyền là Lý Tích Tá lại bố trí làm với một viên trung tá tham mưu trưởng khoa dưới quyền là Trương Hiền. Trương Hiền bán thân cầu vinh, ngoài mặt tuân theo, bên trong chống lại, đem tin tức chuẩn bị khởi nghĩa của Trương Quyền mật báo cho Tưởng Giới Thạch biết. Trương Quyền và Lý Tích Tá chưa kịp tới Đảo Phục Hưng để bắt Tưởng Giới Thạch đã bị Thang Ân Bá bắn chết tại cửa phố xá nhộn nhịp đường Nam Kinh Thượng Hải.Đêm hôm trước khi giải phóng Thượng Hải, tuy Tưởng Giới Thạch chưa bị bắt sống, nhưng lại càng nghi thần ngờ qủy, mỗi giờ mối phút đều như ngồi trên cửa núi phun lửa vậy. Tưởng luôn luôn cảm thấy có người muốn tới giết mình.Ngày mồng 7 tháng 5, Tưởng Giới Thạch không sao chịu đựng nổi, đã vội vàng hấp tấp ngồi lên quân hạm rời khỏi Thượng Hải trốn tới Đài Loan.


    Phần 8 - Chương 1: Thụy nguyên vô lại buông thả phóng túng


    Có người nói: Tính cách chính là vận mệnh. Cũng có người nói: Tính cách của một số người có thể ảnh hưởngtới thời đại. Tưởng Giới Thạch suốt đời bị sấm sét dập vùi, hết nổi lại chìm, lần này lượt khác. Thế nhưng ông đã khiến mình trước sau vấn đứng ở thế không bị thất bại trong cuộc đấu tranh với bọn quân phiệt cũ và mới, cũng đã khiến cho ông thất bại thảm hại trong cuộc đấu tranh với những người cộng sản, đã hoàn thành một nhân sinh: Quật khởi trong nguy nan, thảm hại trong huy hoàng giãy dụa trong tuyệt cảnh.Vậy Tưởng Giới Thạch đã có nhữngtính cách như thế nào?
    Lật mở lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc, loài người không khó phát hiện: Đại phàm là tuổi thơ của các bậc đế vương và một số nhân vật nổi tiếng, thường có một số sáng suốt sâu sa và hành động tốt đẹp, làm cho người đời tán dương ca ngợi. Như Khang Hy đế 14 tuổi giết quyền thần Ngao Bác, Khổng Dung 7 tuổi nhường lê v.v... Những thuyền thuyết này hoặc thật hoặc giả, nửa thật nửa giả, cùng chung một lò soạn sử và dựng thần, duy trì và bảo hộ thần thánh chí tôn, khiến cho các bậc vương giả vĩnh viễn đứng trên vành sáng lóa mắt chí tôn chí thánh. Thế nhưng khi chúng ta xem lướt qua thực sử thời thơ ấu của Tưởng Giới Thạch đã phát hiện thấy con người này trong năm ba bốn chục của những năm 30-40 thế kỷ này cũng có thể gọi là con người xưng vua xưng chúa nhưng lài là một kẻ sống buông thả vô lại.Mặc dù chính sử của Quốc dân đảng khi ghi chép thời thơ ấu của Tưởng Giới Thạch rất thận trọng, thế nhưng những người dân Khê Khẩu Phụng Hóa lại ngấm ngầm vụng trộm nói: Thằng bé này vừa sinh ra đã là cái phôi sinh ra hết chuyện nọ đến chuyện kia[1]. Tưởng Giới Thạch thời thơ ấu, tên tục là Thụy Nguyên. Mức độ bướng bỉnh và bản tính buông thả, những đưa trẻ bình thường không thể nào sánh kịp.Ngày 30 tết âm lịch năm 1891, là năm âm lịch thứ tư sau khi Tưởng Giới Thạch ra đời. Tết Xuân là mở đầu của một năm, nó tượng trưng cho sự phục hồi của vạn vật, vạn tượng đều đổi mới, đó là ngày tết truyền thống gia đình đoàn tụ, cầu chúc nhau được hạnh phúc như ý của dân gian Trung Quốc. Trong ngày hôm đó, Cửa hiệu muối Ngọc Thái của họ Tưởng giăng đèn kết hoa, vô cùng tưng bừng phấn khởi. ở trong một quốc gia có nền văn hoa chú trọng đến việc ăn uống này, bữa cơm đêm tất niên luôn luôn là cao trào của ngày tết. Gia đình họ Tưởng cũng không lệ ngoại. Lúc này, ở trong nhà khách phía sau hiệu muối Ngọc Thái, tam đại đồng đường nhà Tưởng Ngọc Biểu ngồi xúm quanh bàn ăn, cùng thưởng thức những món ăn quý hiếm của ngày tết. Có lẽ là không khí chúc mừng vui vẻ, cảnh vật xen kẽ nhau đã kích động Thụy Nguyên cậu bé hơn ba tuổi không hiểu biết gì. Trong lúc vui đùa, cậu đột nhiên phát sinh ra ý nghĩ kỳ quặc, muốn thử xem cuống họng của mình có độ sâu bao nhiêu. Kết quả, một chiếc đũa đã cắm sâu vào thẳng cuống họng theo đường thực quản... trong phút chốc, một trận đau đơn kịch liệt rách tim vỡ phổi. Tưởng Thụy Nguyên mắt trắng dã, mồ hôi toát ra, làm cho tất cả mọi người già trẻ trong nhà đều ngơ ngác nhìn nhau. Bà mẹ Vương Thái Ngọc của Tưởng hầu như đã hôn mê ngất đi. Đêm hôm đó, ông nội của Tưởng là Tưởng Ngọc Biểu suốt đếm mất ngủ, chỉ hoảng sợ đưa cháu biến thành câm. Ông thỉnh thoảng lại hỏi cô con dâu của mình qua cửa sổ cánh phòng:- Thụy Nguyên đã đỗ được chưa?Sáng sớm, khi Thụy Nguyên tỉnh lại, nghe tiếng hỏi của ông, liền từ trên giường vọt dậy vui vẻ trả lời:- Ông ơi, cháu đã khỏi rồi, không còn đau một tý nào nữa. Lúc này mới khiến cho cả nhà biến lo buồn thành vui vẻ.Năm Thụy Nguyên lên 5 tuổi, gặp dịp Trung thu, mọi người trong gia đình đều ngồi ngắm trăng ở ngoài sân. Còn Tưởng luôn luôn có những hành động kỳ di, liền bỏ ánh trăng sáng ở trên trời không nhìn mà lại phát hiện ở trong vại nước đặt chỗ cuối sân có một vầng trăng sáng rực rỡ lung linh. Tức thì Tường chèo lên trên miệng vại thò bàn tay vào bên trong để vớt. Tưởng vốn nghĩ rằng thò tay vào là có thể vớt được vầng trăng trong nước, nào ngờ đầu nặng đít nhẹ, Tưởng đã ngã lộn ngược đầu sục vào trong vại nước. Nếu người nhà không nhanh tay thì tính mạng của đứa bé nghịch ngợm này đã toi đời rồi. Đối với Tưởng Thụy Nguyên mà nói sự nguy hiểm trong nước, đây đã không phải là lần đầu bữa hiệu muối Ngọc Thái gần phố, mà dãy phố dài duy nhất ở trên thị trấn này chính là đã vươn dài ra tới tận suối Viêm. Nước suối ở đây trong vắt, đã nhọn lởm chởm, chẳng còn nghi ngờ gì nó đã có sức hấp dẫn cực kỳ to lớn đối với Tưởng Thụy Nguyên. Hầu như mỗi ngày Tưởng đều ra bờ suối nô đùa. Có mấy lần sau những trận mưa rào, nước suối dâng cao, dòng nước chảy siết xuýt nữa đã cuốn trôi Thụy Nguyên đi.Kỳ thực, kiệt tác mà Tưởng Thụy Nguyên đắc ý nhất chính là trò chơi dân một đoàn trẻ con đi đánh trận. Trong loại hoạt động này, Tưởng tự mệnh danh là Đại Tướng, đứng đầu bọn trẻ, tay cầm Trường mâu do mình tự chế, dưới anh trăng sáng, dẫn đội ngũ của mình đi chinh chiến ở khắp nơi, thường thường là đầu vỡ máu chẩy. Do vì tính tình ngang ngạch, quật cường bất khuất, cho nên mọi sự Tưởng đều đi trước người một bước, nếu không như vậy thì thà chết không làm, những đứa trẻ ở trong phố đều không dám đụng vào Tưởng, cho nên Tưởng đã được một biệt hiệu là Thụy Nguyên vô lại. Một lần, ở bên ngoài Tưởng chuốc họa vào thân, bị mẹ đánh đòn nghiêm khắc, trong lúc tình thuế nguy khốn không có chỗ thoát thân, liền phải rúc đầu chui vào trong gầm giường. Vừa hay, lúc đó có người đến tìm mẹ, Tưởng Thụy Nguyên thừa cơ lúc mở cửa, liền chạy vọt ra khỏi cửa. Bà mẹ Vương Thái Ngọc bực tức quá, không biết làm thế nào bà đã phải gào thét khóc lóc ầm ỹ.Năm lên 6 tuổi, bố mẹ và ông bà Thụy Nguyên rất sợ đứa trẻ này ngang ngạnh thành nét thì sẽ khó cứu chữa, họ liền quyết định mời thày chạy tử mặc dù Tưởng chưa đến tuổi đi học. Họ đã mời một lão tú tài lên gọi là Nhiệm Giới My tới dạy Tưởng. Cuộc sống trong trường, tuy cũng có điều bó buộc Tưởng Thụy Nguyên, thế nhưng cũng không thể trừ bỏ hết được thói quen ngang ngạnh liều lĩnh và buông thả của Tưởng được. Tệ hại hơn là tưởng văn bản chẳng coi thày giáo ra gì. Một lần, Tưởng xúc phạm hiệu quy, thày giáo dơ thước lên chuẩn bị đánh vào mu bàn tay. Nào ngờ thước chưa đụng đến tay, Tưởng đã tự động ngã lăn xuống đất, vừa khóc vừa rẫy rụa, làm cho thày giáo phải bó tay.ở Phụng Hóa có một tập tục, vào ngày mồng một tết hàng năm, mọi người trong họ đều phải đến miếu thờ thăm vái tổ tông. Sau khi vái lạy mỗi người được phân mấy miếng bánh hoặc kẹo vừng. Dòng họ Tưởng ở Khê Khẩu cũng có tục lệ như vậy. Một lần, sau khi Tưởng Thụy Nguyên thăm vái tổ tiên xong, nhìn thấy mọi người đều sắp hàng theo thứ tự, liên nghĩ ngay ra một kế Tưởng ngã lăn xuống đất, toàn thân dính đầy bùn đất, sau đó bò dậy chui rúc len lỏi vào trong đoàn người. Mọi người trong họ nhìn thấy Tưởng Thụy Nguyên giống tựa con khỉ bùn đang khệnh Khạng bước tới trước mặt, đều vội vàng né tránh hết chỉ sợ dính phải vận rủi. Tức thì Tưởng đường hoàng bước tới lĩnh bánh kẹo vừng. Từ đó về sau, số người biết tên Thụy Nguyên vô lại ngày càng nhiều. Đàn bà trẻ con ở Khê Khẩu ai ai cũng đều biết được cái tên này.Năm 14 tuổi, bà mẹ Vương Thái Ngọc đã đích thân tìm chọn cho Tưởng Thụy Nguyên một nhà làm thông gia, lấy nàng Mao Phúc Mai 19 tuổi về làm vợ cho Tưởng. Bà mong muốn thông qua việc hôn nhân có thể khoác được một cái rọ lên đầu con ngựa rừng nhỏ bé ương ngạnh ngang bướng này.Ngày tổ chức lễ cưới, trống nhạc vang trời, pháo nổ liên tiếp. Chiếc kiệu hóa có cô dâu ngồi bên trong dừng lại ở trước cửa miếu thờ, mọi người dìu cô dâu ăn mặc chỉnh tề lộng lẫy từng bước từng bước đi vào trong phòng hỉ. Thế nhưng chú rể Tưởng Thụy Nguên lại tỏ ra đầy bụng bực tức. Trước hết những đứa bạn của Tưởng kia không chịu chơi với Tưởng nữa, chúng nói rằng chú rể đã thành người lớn rồi, muốn có vợ thì không có bạn, không đáng mặt làm tướng quân nữa. Điều này đã khiến cho Tưởng Thụy Nguyên rất bực bội. Ngoài ra, trong thời gian này bà mẹ đã quản thúc Tưởng rất nghiêm ngặt, động một tý là dạy dỗ mắng mỏ, làm cho Tưởng nghe mà váng đầu nhức óc. Sau khi hôn lễ bắt đầu, lúc đầu Tưởng còn có thể giữ vững được tinh thần, biểu hiện lịch sử lễ độ. Tiếp theo sau ta những trình tự rườm rà phức tạp, Tưởng dần dần bắt đầu đã không chịu đựng nổi. Khó khăn lắm mới nghe thấy người phụ trách nghi lễ hét to Đưa cô dâu chú rể nhập động phòng, Tưởng Thụy Nguyên tựa hồ như được lệnh tha tội, vội vàng ưỡn thẳng lưng tháo bỏ ngáychiêc mũ da dưa hấu đính giải đỏ ở trên đầu xuống, ném vút lên trên trời, theo tiếng reo hò chạy như bay vọt ra cửa băng lên phố. Đôi lúc mọi người dẫn cô dâu bước vào động phòng, quay trở lại tìm chú rể tiếp tục làm nghi lễ ngồi trên giường, buông màn, trao cốc cho nhau uống rượu v.v.. thì đã không thấy Tưởng Thụy Nguyên chạy đi lối nào rồi.Bà mẹ Tưởng nghe nói con trai bỏ đi đâu, lo lắng vô cùng. Giữa lúc đang sắp sửa cử người đi tìm ở bốn phía, bỗng nghe thấy ở cửa ngoài có một trận ồn ào huyên náo, ra ngoài cửa nhìn thì thấy một đoàn trẻ con tóc để chỏm ngang ngạnh đang tranh nhau ném cuống pháo. Trong đó, đứa tranh giành được nhiều nhất, đốt nhanh nhất, gào thét to nhất, chính là chủ rể tóc bím đuôi sam đen lánh, mặc áo chén áo dài, đeo hoa hồng cát tường như ý. ở vùng Phụng Hóa có câu tục ngữChú rể ném cuống pháo, vợ chồng khó sống tới già lão. Mọi nhà đều khiêng kỵ điều này, coi đó là điều dự báo cuộc hôn nhân không tốt lành Vương Thái Ngọc vừa nhìn thấy con trai mình không chịu phấn đấu vươn lên. bỗng chốc sắc mắt thay đổi, bưng mặt chạy vào trong phòng của mình gào khóc thảm thiết. Mao Phúc Mai vốn dì vẫn cho rằng người có học, bao giờ cũng có phần lịch sự nhà nhặn như trong những vở tuồng, nào ngờ người chồng nhỏ bé của mình lại ngang ngạnh xấu xa tới mức như vậy, lại hiện tượng tới những ngày sau này, đúng thật là ruột sầu trăm mối dòng lệ chứa chan.Từ sau khi Tưởng Thụy Nguyên kết hôn, những tính cách buông tuồng vô lại, phóng túng bừa bãi này của Tưởng, cũng thường thường đem lại nỗi buồn bực cho nhà bên ngoại. Phong tục ở nơi đó, sau khi nam nữ thành thân, ngày mồng 2 tết xuân, chú rể mới phải tới dãy nhà vợ lễ tết mừng tuổi bố mẹ vợ. Bố mẹ vợ cũng theo tục lệ địa phương cũng mời con rể ở lại dùng cơm. Đây là thứ lễ tiết mà cả hai bên bố mẹ vợ và con rể đều cần phải rất tôn trọng. Vào lúc sáng Sớm ngày mồng 2 tháng giêng, Vương Thái Ngọc và Mao Phúc Mai đã chuẩn bị sẵn sàng những lễ vật đem đi, còn thuê một người gánh đưa Tưởng Thụy Nguyên tới nhà ông nhạc lễ tết. Phía bên nhà vợ rất vui mừng sung sướng. Ông già Mao Đỉnh Hòa giết vịt mổ gà, nấu canh, rang lạc chuẩn bị một bàn rượu thịt thịnh soạn, còn mời một số nhân vật đứng đầu trong họ tới, chỉ còn chờ con rể đến là mở tiệc ăn mừng. Thế nhưng, một nửa ngày đã trôi qua, vẫn chưa thấy bóng dáng con rể đâu. Theo tốc đội bình thường, từ Khê Khẩu Tới Nham Đầu chỉ có lộ tình ba tiếng đồng hồ. Thế nhưng, mãi tới khi mặt trời đã ngả về tây vẫn chưa nhìn thấy chàng rể đâu. Các vị khách phí công chờ đợi nửa ngày, chẳng còn gì hứng thú, họ xôn xao dự định cáo từ, làm cho Mao Đỉnh Hòa rất ngượng ngùng. Chính trong lúc này, có người tới báo: Chàng rể đã đến từ lâu rồi, hiện tại đang Tạp giao ở trong miếu thờ nhà họ Mao!- Cái gì kia? - Quả thực Mao Đỉnh Hòa không dám tin tưởng vào đôi tai của mình. Một người đi học đã chín năm, làm sao có thể Tạp giao cùng với bọn khốn kiếp hạ lưu bán thuốc nhảm, hoạch tiền được? Trước mặt những người trong họ, Mao Đỉnh Hòa quả thực là khó xử.Lúc này, Tưởng Thụy Nguyên quả nhiên đã dẫn mấy tay anh chị trong hội hoa đàng đang hát trò diễn tuồng ở trong miếu thờ nhà họ Mao ở Nham Đầu. Hội hoa đăng là một loại hoạt động văn hóa mang tính chất tự vui chơi ở trong dân gian vùng đó, do một số thanh niên tự phát tổ chức ra, đi biểu diễn hết thôn này trại khác vào thời kỳ tết Xuân hàng năm để đổi lấy một số đồ vật, tiền, gạo, bánh trái v.v... Dựa theo lý mà nói, bàn về kinh tế và địa vị thì Tưởng Thụy Nguyên không nên tham gia vào loại hoạt động với hình thức hoạch tiền này. Thế nhưng chàng hậu sinh ngang bướng háo sư này, chẳng những đã tham gia mà còn dân cả băng anh chị khốn khổ này tới nhà bố vợ ăn tiệc nữa!Giữa lúc ông già họ Mao đang chuẩn bị đi xem sự thể ra sao, tiếng thanh la ở ngoài cửa đã vang lên, pháo nổ ba lần, đội hoa đăng kéo thẳng tới. Đi đầu là một thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi, mặc áo lụa dài màu đen mới tinh, trên vạt áo bùn lấm loang lổ, bím tóc sam ở dưới mũ da sắp sửa rũ tung ra. Mao Đỉnh Hòa nhìn kỹ quả nhiên đúng là Tưởng Thụy Nguyên, con rể của mình, không kìm nổi lửa giận bốc cao ba trượng, dùng chiếc tẩu thuốc cán đồng chỉ thẳng vào Tưởng Thụy Nguyên mà chửi:- Mày là cái đồ vô lại! Còn dám vác mặt tới cửa làm xấu cả nhà. Môn phong của hai nhà Mao Tưởng đều do mày làm cho bại hoại hết cả!Tiền thì chẳng kiếm được lại bị nếm một trận chửi cay đắng, các tay anh chị trong hội hoa đăng thì cười khì khì rồi lủi trốn. Tưởng Thụy Nguyên đang lúc hào hứng thì vấp phải trận chửi quái ác, sắc mặt từ hồng chuyển sang tím. Sau khi đối chọi với bố vợ một lúc, Tưởng hì mũi một tiếng, rồi bỗng nhiên quay ngoặt, khênh khạng bước đi đầu không ngoái trở lại. Lúc này, giữa con rể và bố vợ đã kết thành cục oán hận ở trong lòng.Đối với những tính cách ngang ngạnh phóng đãng theo kiểu này của Tưởng Thụy Nguyên, trong cuốn sách Tưởng Giới Thạch tiên sinh trước năm 15 Dân quốc của Mao Tư Thành cũng lược ghi: Những trò ưa thích của tiên sinh, lấy lớp học làm vũ đài, dùng bạn học làm đồ chơi, thái độ ngông cuồng không ai sách kịp. Những điều tóm tắt phái thảo này, chình là biểu hiện ở trong trường của Tưởng Thụy Nguyên thời niên thiếu.Thế thì, Tưởng Trung Chính sau khi thành niên lại lược thuật như thế nào về những năm thơ ấu ngang ngược ác liệt của mình?Trong bài Lược sự về tiên tỉ Vương Thái phu nhân do Tưởng tự soạn, Tưởng nói: Thời niên thiếu Trung Chính nhiều bệnh tật, thường xảy ra nguy kịch. Tới khi khỏi, lại vui vẻ chơi đùa. Phàm những vết thương về nước lửa dao gậy, vấp phải nguy hại không chỉ có một lần, một lần lại làm tăng thêm vất vả khổ sở cho mẹ hiền. Năm lên 6 tuổi thì đi học, ngày càng bướng bỉnh, vậy mà tiên tỉ vẫn dạy dỗ không biết mệt mỏi, vẫn chịu đựng khổ sở không chút nương chiều. Rõ ràng, trong bài nói tới vui vẻ chơi đùa,ngày càng bướng bỉnh chính là trò chơi tinh nghịch mà Thụy Nguyên vô lại biểu diễn; còn như Thường xảy ra nguy kịch thì nhất định là bao hàm tình tiết nguy hiểm chọc đùa vào trong cuống họng và trò trồng ngược cũ tỏi ở trong vại nước rồi!Hiển nhiên là, mọi người đều đã nhìn thấy rõ: buông thả phóng đãng, tự làm theo ý mình, mọi việc đều tranh giành hiếu thắng, để đạt mục địch đã không từ thủ đoạn nào v.v... những biểu hiện này đã tạo thành một trong những đặc chưng điển hình của mô típ hành vi Tưởng Thụy Nguyên. Do đó đã được biệt hiệu àl vô lại. Phải nên nói rằng, loại tính cách điêu toa, hiếu thắng, không chọn thủ đoạn của Tưởng Thụy Nguyên là nguyên nhân cơ bản di truyền của việc noi theo gương Cha. Người cha Tưởng Triệu Thông của Tưởng, mọi người gọi là Con lươn vàng cứng đầu, có ý là rất khó đối phó. Tưởng Triệu Thông là con người tinh nhanh tài giỏi, thao nói năng, làm việc không bị thu hớ, luôn chiếm thế lợi. Những điểm tinh nhanh tài giỏi này của Tưởng Triệu Thông đều đã truyền cả cho con trai, công thêm sự sủng ái của hai người ông và cha lại càng bồi dưỡng cho tính cách phóng túng buông thả bừa bãi của Tưởng Thụy Nguyên, đúng là màu xanh lấy tự màu lam, nhưng lại đặm hơn màu lam.Những tính cách đặc chưng mà Tưởng Thụy Nguyên đã noi theo cha và mở rộng hơn cha, trong công cuộc tung hoành ngang dọc mà bản thân Tưởng đứng trên vũ đài chính trị của Trung Quốc đã thực sự có đất dụng võ!
    ---------------------------
    [1] Tưởng Giới Thạch gia thế trang 80, NXB nhân dân Triệt Giang tháng 10 năm 1988



    Phần 8 - Chương 2: Quật cường bất khuất, cố chấp và độc đoán chuyên quyền


    Nếu nói tính cách Vô lại buông thả phóng túng thời niên thiếu của Tưởng Thụy Nguyên có khả năng chủ yếu là đến tự người cha, thế thì, tính chất quật cường bất khuất, cố chấp bẩm sinh có lẽ chủ yếu là chịu ảnh hưởng của người mẹ.Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc là người làng Cát Trúc huyện Thăng Triết Giang. Nhà họ Vương vốn cũng là một gia đình giàu có ở vùng đó. Về sau gia cảnh sa sút, đặc biệt là vấp phải người anh chơi bời cờ bạc thành nết, khiến cho cuộc sống ngày càng khó khăn hoàn toàn dựa vào đôi bàn tay khéo léo làm công việc may vá của Vương Thái Ngọc để trợ giúp gia đình. Vương thái Ngọc khi còn ở nhà mẹ đã là một tay khiến cho các cô gái trẻ coi đó là một phụ nữ đảm đang tuyệt vời, lại giỏi chữ nghĩa, thông thạo thư thả, biết tụng các quyển kinh như Kinh Lăng nghiên kinh Kim Cương v.v... Cũng có thể gọi là một cô gái tài ba sắc xảo nhất trong đám phụ nữ nông thôn thời đó. Thế nhưng, vận mệnh của cá nhân dâu có thể so sánh đúng với tài năng của con người được. Đặc biệt là ở trong chế độ phong kiến Trung Quốc đã tuyên truyền Người đàn bà không có tài chính là có đức suốt trong hơn hai ngàn năm lịch sử, lấy gà theo gà, lấy chó theo chó là kết cục tất nhiên của những người phụ nữ yếu đuối. Vương Thái Ngọc trướng hết do cha mẹ làm chủ gả về làm vợ Du mỗ nhà họ Tào ở Điền thôn Thế nhưng chưa được mấy năm thì chồng chết nàng phải sống cảnh góa bụa. Lúc 23 tuổi, do được người anh họ là Vương hiền Đông giới thiệu, Vương Thái Ngọc cải giá lấy làm lẽ Tưởng Triệu Thông, cuộc sống mới tạm gọi là giầu có sung túc. ở trong gia đình họ Tưởng, Vương Thái Ngọc như mai nở hai kỳ, lại khôi phục được tính quật cường bất khuất và tự tin của thời làm con gái ngày trước. Nàng sinh con đẻ cái, cần kiệm xây dựng gia đình thu vén cho gia đình họ Tưởng ngăn nắp gọn gàng.Thế nhưng, đối với Vương Thái Ngọc mà nói, những ngày tốt, đẹp chỉ như làn mây khói bay qua trước mắt, trong nháy mắt đã tan biến. Tháng 7 năm 1895. Tưởng Triệu Thông bị bệnh qua đời, nàng lại làm bà quả phụ lần thứ hai. Không lâu, người con trai của vợ trước Tưởng Triệu Thông sinh ra là Tưởng Giới Khanh đã chia gia tài với mẹ con Thụy Nguyên. Vương Thái Ngọc và những đứa trẻ do nàng sinh ra chỉ được phân một căn nhà nhỏ mà mình đang ở. theo sự hồi ức về sau này của Tưởng Giới Thạch, người mẹ của Tưởng đã phải chịu đựng rất nhiều oan khuất, nước mắt ràn rụa nghẹn ngào, chẳng biết thổ lộ cùng ai. Thậm chí điền sản cũng bị cướp đoạt, còn bị vu cáo ở công đường, chịu đựng biết bao cảnh khổ nhục. Vậy mà ở trong làng chẳng có công luận, họ hàng thân thích cũng chỉ bàng quan [1] đã khiến cho mẹ con nhà họ Tưởng khổ sở hết chỗ nói. Bà họ Vương giãy dụa trong khốn cảnh như vậy. Bản thân bà kiên cường thông minh, biết nhiều chữ nghĩa, liền từ trong nghịch cảnh đó tự nhiên đã sinh ra một loại ý chí kiên nghị, tự cường bất khuất, ra sức chấn hưng thanh thế gia đình, lẽ dĩ nhiên cũng đã đem loại ý chí này truyền cho người con cả là Tưởng Thụy Nguyên. Sau đó, người con thơ ấu lại chết yếu, Thụy Nguyên liền trở thành niềm hy vọng duy nhất của Vương thị. Do vậy, bà đã dốc toàn bộ sức lực ra tiến hành giáo dục đối với Thụy Nguyên, thúc đẩy Thụy Nguyên cố gắng học tập khắc khổ tự cường. Mỗi ngày Tưởng Thụy Nguyên ra ngoài, trở về, người mẹ đều tra xét những thứ mà con trai đem theo. Khi ra ngoài, tất phải hỏi là đi đâu. Khi tan học trở về thì hỏi han tình hình bài vở. Lúc nhà rỗi còn bắt Tưởng quét dọn nhà cửa sân thềm, giúp đỡ việc tằm tang v.v... và làm những việc lao động thể lực mà Tưởng có thể làm được. Ngoài ra, còn truyền thụ dạy dỗ những lễ tiết như xử sự với người và việc ứng đối ngoài xã hội.Với sự dạy dỗ cặn kẽ như rót vào tai của mẹ, Tưởng Thụy Nguyên mông lung mơ hồ nẩy nở ra tư tưởng phải phấn đấu nỗ lực, trong học tập không ngừng chú ý khắc phục hành vi điên cuống phóng đãng của minh. Có khi trong giờ học Tưởng cũng tâm trí rạo rực dở trò quái ác đùa giỡn bạn học. Thế nhưng, hễ cứ bắt đầu chăm chỉ, lại chuyên tâm bền trí, chẳng kể hoàn cảnh rối loại thế nào, Tưởng vẫn cứ vùi đầu vào đọc tụng hoặc viết chữ, không hề bị ảnh hưởng gì.Đối với những hành vi của mình, Tưởng còn tìm thấy những căn cứ lý luận. Trong trường tư thục treo tấm biển đề Đăng Thanh ngọc khiết, Tưởng Thụy Nguyên đem nó giải thích rằng: Cho dù trong hoàn cảnh rối bời, chỉ cần dốc lòng truy cầu học vấn, thì nhất định có thể làm được. Cách giải thích như thế này tuy đã đi rất xa, những cũng đủ nhìn thấy bộ óc hiếu động của Tưởng, có những kiến giải độc lập của mình.Trong những trò vui, ngoài việc Tưởng kiên trì làm đại tướng ra, còn thường nói với các bạn rằng: Ta cầu phải làm đại quan mà không có ai quản được.Mùa hạ năm 1903, Tưởng Thụy Nguyên đổi tên là Tưởng Chí Thanh, tới Phụng Hóa dự thi khóa Đồng tử thí. Đồng tử Thí là kỳ thí khoa ải sơ cấp nhất được tiến hành đối với các nam thiếu niên vị thành niên của chinhs phủ nhà Thanh. Những người thi đồ được gọi là Đồng sinh, những người đồ đồng sinh mới có thể đưựoc tham gia thi tú tài. Thế nhưng Tưởng Chí Thành lần đầu tiên ra khỏi lều cỏ lại không thi đỗ.Lần này tới Phụng Hóa, tuy Tưởng Chí Thanh thi trượt thế nhưng cũng mở rộng được tầm mắt. Sau cuộc chính biến năm Mậu Tuất (năm 1898), tiếng kêu gọi yêu cầu cải cách trong toàn quốc ngày càng lên cao, để duy trì và bảo hộ giai cấp thống trị phản động đã lung lay sắp xụp đổ triều đình nhà Thanh bắt đầu chơi trò mánh khéo lừa bịp dự định xây dựng chính sách mới, thực thi một trong những chính sách mới đó là tuyên bố phế bỏ chế độ khoa cử. Lúc đó đã bắt đầu xây dựng những trường học kiểu mới ở các nơi. ở Thành Phụng Hóa cũng đã có tới ba bốn trường kiểu mới. Tưởng Chí thanh đã nhanh nhậy ý thức được: Muốn đuổi kịp trào lưu của thời đại thì cần phải tiếp thụ nền giáo dục kiểu mới. Tức thì Tưởng đề suất xin với mẹ cho rời nhà tới học tập ở Trường Tây.Lúc đó, nhìn từ tình hình gia đình, mẹ góa con côi, hoàn cảnh kinh tế lại chẳng dư dật. Mong mỏi bức thiết của bà mẹ Tưởng là sau khi học xong trường tư thục thì đảm đương lấy công việc gia đình, ở nhà kinh doanh buôn bán hoặc trông nom quản lý ruộng đất. Thế nhưng, Tưởng Chí Thanh quyết chí không chịu, nói với Vương Thị rằng:- Con lập chí phải làm nên sự nghiệp lớn. Làm thương nhân nếu được hoan nghênh, thì phải nhìn vào sắc mặt của người khác mà làm việc, con quyết kông làm cái việc buôn bán đâu! - Trong một số văn chương truyện ký của Tưởng Giới Thạch lại đem hành vi Tưởng đòi đi học Trường Tây này nói thành Tinh thần đòi hỏi đổi mới. Kỳ thực không phải như vậy, điều chủ yếu mà Tưởng Chí Thanh đòi hỏi truy cầu lúc đó là tiền đồ của Cá nhân. Còn điều đã phản ánh trong thực sử này lại nòi là tính cách, đó là sự thực!Sau đó, Tưởng Chí Thanh chuyển vào học ở trường Phượng Lộc trong thành huyện Phụng Hóa, bắt đầu tiếp nhận nền giáo dục mới. Lúc đó cái gọi là những trường mới dựng lên, trong quá trình giảng bài ngoài tiếng Anh và Toán học ra đại bộ phận bài học vẫn giảng bài học cũ kinh sử v.v..., điều này đã dẫn đến sự bất mãn của một số học sinh khao khát tri thức khoa học cận đại. Các học sinh sôi nổi đề suất với nhà trường yêu cầu Cải lương giáo vụ. Tưởng Chí Thanh là người dẫn đầu nêu ý kiến cải cách với nhà trường. Những người phụ trách nhà trờng liền lấy tội danh đầu xỏ âm mưu làm loạn, quyết định đuổi Tưởng Chí Thanh ra khỏi trường hơn thế còn đưa lên quan trừng trị. Các học sinh khác nhìn thấy quan cảnh như vậy vô cùng phẫn nộ, họ tổ chức đứng dậy phản đối, đề suất kháng nghị với nhà trường. Bản thân Tưởng cũng hăng hái tranh đấu. Về sau phía nhà trường nhìn thay sự việc chẳng lành, liền xóa bỏ quyết định đuổi học. Từ đó các bạn học đã gọi Tưởng Chí Thanh bằng một biệt hiệu là Tướng quân mặt đỏ.Thắng lợi của cuộc đấu tranh trong trường học, không nghi ngờ gì đã làm mạnh mẽ thêm tính cách quật cường bất khuất, cố chấp của Trởng, đồng thời cũng mở rộng thêm tâm thái cố chấp, tự phụ của Tưởng, nuôi dưỡng thành những nhân tố tính cách độc đoán chuyên quyền, thực thi chuyên chế phong kiến trên võ đài chính trị Trung Quốc của tưởng sau này.Tưởng Giới Thạch thành viên đầu tiên đã thể hiện ra tính cách cố chấp, quật cường bất khuất trên vũ đài chính trị Trung Quốc, đó là vào năm 1916. Lúc đó, Tưởng Giới Thạch thông qua Trần Kỳ Mỹ quen biết được Tôn Trung Sơn, rồi tham gia vào Trung Hoa Cách mạng Đảng. Tháng 6 năm đó, Tôn Trung Sơn cử Tưởng Giới Thạch đi tới Sơn Đông nhận chức tham mưu trưởng quân đội Đông Bắc quân Cách mạng Trung Hoa do Cư chính lãnh đạo. Trên cương vị tham mưu trưởng, Tưởng đã tận tâm tận chức, lại cộng thêm những cơ sở quân sự đạt được trong khi lưu học ở Nhật Bản, Tưởng rất muốn làm nên sự nghiệp ở đây. Lúc đó, các loại quân đội ở trong nước Trung hoa, bao gồm cả quân đội của Đảng Cách mạng tổ chức và xây dựng, còn chưa có chế độ chương trình quy cả hoàn thiên hệ thống. Bởi vì chế độ quân sự cũ của triều Thanh đã tan rã, chế độ quân sự mới lại nhất thời chưa thể xây dựng được, cho nên đã thể hiện ra trạng thái tương đối hỗn loạn. Đối mặt với tình trạng này, Tưởng tham mưu trưởng vừa lên nhậm chức hết sức gạt bỏ mọi nghị luận, mạnh dạn thực thi đổi mới trong đội quân này. Tưởng đã thay đổi phương pháp tập luyện, chỉnh đốn kỷ luật, đặt ra chương trình quy tắc, định ra điều khoản thi hành v.v... Khi tiến hành một loạt hệ thống cải cách này, Tưởng luôn luôn hách dịch chửi người, hiện rõ hết tài năng, dẫn đến sự đố kỵ oán ghét của các đồng liêu, mọi người xôn xao viết đơn tố cáo lên Tôn Trung Sơn. Do vì phạm phải sự phẫn nộ của quần chúng, Tưởng Giới Thạch đành phải từ chức rút lui, yên lặng ra đi.Bình tâm mà phán xét, lúc này Tưởng Giới Thạch vẫn là một thanh niên nhiệt huyết, quả thực muốn có một chút tác dụng, để chấn hưng quân đội. Thế nhưng, phương pháp của Tưởng giản đơn, đối với mọi người lại quá kiêu ngạo, không thể được mọi người chấp nhận, kết quả là chỉ có thể ôm mối bực tức mà ra đi. Đối ước điều này có bài ký đã viết: Tính tình quật cường hay bực tức nóng nẩy, hơi không vừa lòng là nhẩy lên gào thét như sấm nổ. Xử sự thì cố chấp ý mình, không cho người khác được thổ lộ... cho nên đồng liêu thường tỏ ra ác cảm...[2].Trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch thực tiễn Cách mạng theo Tôn Trung Sơn, do những nguyên nhân chính kiến không hợp, phủi tay là bất cần, việc bỏ rời đội ngũ Cách mạng từng phát sinh nhiều lần. Từ năm 1916 đến năm 1924, trong vòng tám năm. Tưởng đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng Trường quân sự Hoàng Phố, sự việc động một chút là Tưởng từ chức rời bỏ đội ngũ đã đạt tới trên mười lần. Như năm 1918, Tưởng ra nhậm chức chủ nhiệm khoa tác chiến bộ tổng tư lệnh quân đội Viện Mân Việt, vào thời điểm mấu chốt quan trọng của cuộc tác chiến, do vì có quan hệ bất hòa với các tướng lĩnh quân Việt, liền bức tức bỏ đi. Tôn Trung Sơn và các tướng lĩnh quân Việt như Trần Quýnh Minh v.v.. đã nhiều lần khuyên can, Tưởng đều khăng khăng nhất mực không chịu trở lại nhận chức. Từ đây có thể nhìn thấy tính cách quật cường, bất khuất, cố chấp của Tưởng đã phát triển tới mức độ như thế nào !
    Tháng 10 năm 1919, Tôn Trung Sơn từng viết thư phê bình thói hống hách lộng quyền của Tưởng Giới Thạch, nói rằng: Điều tôi mong muốn chính là vì chủ nghĩa. Tôi luôn luôn nhất quán với chính sách, tức là chủ nghĩa cộng hòa mà tôi phục tùng đã 30 năm nay. Tôi đâu có phải là một ông vua chuyên chế, dùng lời nói chống lại việc làm đắc ý đâu ?... Thói quen nóng nảy và cứng cỏi của huynh quá nặng, cho nên thường bất hòa khó hợp. Thế nhưng với trách nhiệm nặng nề của người đảng viên, cần phải cố gắng hy sinh ý thích cá nhân để cầu lấy sự nghiệp cho Đảng, đâu có phải là vì cá nhân được ![3].
    Trong đoạn văn này, Tôn Trung Sơn đã dạy dỗ Tưởng Giới Thạch không được giống như một ông vua chuyên chế, cần có lời nói giữ được niềm tin, không được quá nóng nẩy, phải có lòng khoan dung độ lượng với người; nên vì chủ nghĩa, vì đảng mà hy sinh ý thích cá nhân. Thế nhưng đối với những lời phê bình của Tôn Trung Sơn Tưởng vẫn bỏ ngoài tai, vẫn cứ làm theo ý thích của mình.Sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, trong Quốc dân đảng đã không có người chế ngự được Tưởng Giới Thạch. Theo sự tăng tiến của địa vị và sự bành trướng của quyền lực, khí chất quật cường ngang ngạnh và cố chấp trong máu thịt của Tưởng Giới Thạch đã dẫn dẫn biến hóa ra ngoài trở thành độc đoán, chuyên quyền, rồi từng bước đi theo hướng chuyên chế phong kiến.
    Cuối năm 1926, theo đã thắng lợi của chiến tranh bắc phạt, Tưởng Giới Thạch đã giành được đại quyền trên mặt quân sự, đã đủ lông đủ cánh, bắt đầu tạo ra dư luận chuyên chế. Ngày mồng 3 tháng 12 trong bài nói chuyện với Đảng nộ Giang Tây, Tưởng nói: Hiên tại quân cách mạng dưới quyền chỉ huy của tôi, chỉ cần bản thân tôi phục tùng Đảng, còn ngoài ra quyết không được hai lòng. Điều này chính là nói quân đội là của Tưởng, Tưởng tức là đại biểu của quân đội. Tưởng còn đặc biệt yêu cầu các vị trung ương chỉ huy Tưởng nhanh chóng gánh chịu trách nhiệm, thiết thực chỉnh đốn Đảng vụ.[4], quả nhiên, Tưởng Giới Thạch đã từng bước từ Tổng Tư lệnh bắc phạt quân leo lên Tổng tài Quốc dân đảng, rồi leo lên Tổng thống Trung Hoa dân quốc leo lên đỉnh cao tột cùng của quyền lực.
    Ngày 11 tháng 9, tại Lư Sơn, Tưởng Giới Thạch huấn thị đối với các tướng quân trong trung đoàn huấn luyện sĩ quan quân đội, nói: Vô luận quốc gia chuyên chế hay quốc gia dân chủ, cho đến cả quốc gia xã hội chủ nghĩa đều cần phải có một nguyên thủ hoặc lãnh tụ, trong quốc gia đế chế, xưng là hoàng đế hay Thiên tử; trong quốc gia dân chủ thì gọi là đại Tổng thống hoặc chủ tịch. Danh nghĩa tuy khác nhau nhưng ông ta chính là một thủ lĩnh đại biểu cho quốc gia đó. Cho nên thiên tử ở trong Đại Lục chúng ta có thể giải thích theo nghĩa rộng là nguyên thủ quốc gia. Tổng thống, nguyên thủ, Chủ tịch v.v.. chính là thiên tử, Hoàng đế. Sự vận dụng xảo diệu dùng cổ ví kim, dùng tây ví đông tồn tại trong tâm Tưởng Giới Thạch, trong ngôn từ quả thật đã có lòng ham muốn phảng phất muốn làm hoàng đế. Điều đáng may là Viên Thế Khải từ hơn hai chục năm trước, đã đi trước một bước, đa làm tấm gương chiếc xe trước cho Tưởng mỗ, nếu không, vị Thụy Nguyên vô lại cứ khăng khăn làm theo ý mình này, bảo đảm chắc chắn sẽ diễn ra một màn hài kịch theo kiểu mặc áo hoàng bào lên thân.
    Tháng 5 năm 1945, Quốc dân đảng triệu tập đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6. Trong hội nghị, các đảng đồ của Tưởng liên doanh nêu ra Dự án sửa đổi Cương lĩnh của Đảng yêu cầu đặt chức Tổng tài theo chế độ suốt đời, đã vấp phải sự phản đối của một số nguyên lão. Tức thì Tưởng đùng đùng nổi giận, phát bực trong hội nghị đã nói: Hai ba trăm vạn quân đội tinh nhuệ của ta, đủ sức mạnh để tiêu diệt quân đội trung cộng. Đồng tiền kho bạc của chúng ta có hàng trăm triệu đô la Mỹ đã chuẩn bị sẵn sàng, vật giá tài chính đâu còn là vấn đề nữa. Điều mà tôi lo lắng chính là cái Đảng này ! Tôi đâu có giống Uông Tinh Vệ! Khi ở Vũ Hán, Uông chỉ muốn làm chủ tịch, còn tôi thì chỉ bằng lòng làng Tổng tài. Nhiệm vụ làm Tổng tài, một là để đánh Nhật Bản, một là để tiêu diệt Trung Cộng ! Sau khi hoàn thành nhiệm vụ như vậy tôi vẫn làm. Tổng tài thì tôi không là người nữa! Trong hội nghị, Đới Quý Đào lại đề suất: Chức Tổng tài trao cho hội nghị thảo luận, mọi người nên thông qua không được bảo lưu! Tức thì dưới bục, mọi người huyên náo, các đại biểu xôn xao chất vấn: Đã là giao cho hội nghị bàn bạc, sau không được thảo luận?. Kết quả, với sự uy bức của Tưởng, dự án bàn bạc vẫn là thông qua sự sửa đổi. Khi bế mạc đại hội, Tưởng Giới Thạch chiêu đãi tiệc các đại biểu. Thế nhưng các đại biểu tới dự không đầy một phần ba. Tưởng bực bội vô cùng, nói:Thanh tra những người không đến, xử trí thích đáng! Lần đại hội này đã thể hiện một cách sống động mặt mũi chuyên chế độc tài, chống cộng trong con người Tưởng Giới Thạch.
    ------------------------------
    [1] Bài nói chuyện tại bữa cơm tới tại đại hội toàn thể lần thứ 6 của Quốc dân đảng Trung Quốc - Tưởng Giới Thạch - Tháng 5 năm 1945
    [2] Tưởng Giới Thạch tiên sinh toàn tập - Tưởng Giới Thạch tiên sinh truyện (Tần Sấu Âu) trang 34
    [3] Dân quốc Thập ngũ niên - Mao Tư Thành, tập thượng trang 97
    [4] Dân quốc thập ngũ niên - Mao Tư Thành tập 19 trang 8 - 9
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 12:56 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 8 - Chương 3: Tính bẩm sinh của lái buôn : tích trữ hàng quý



    Mặc dù thời niên thiếu Tưởng Giới Thạch từng phát ra lời thề: Suốt đời tuyệt đối không làm thương nhân. Thế nhưng quan sát cả cuộc đời Tưởng, trong việc làm người và xử sự của ông ta, trái lại, đã luôn luôn bộc lộ ra sự điêu toa của thương nhân.Từ xưa tới này, người Trung Quốc tin thờ câu cách ngôn Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng . Nguyên nhân không phải vì câu nói này xuất ra từ trong miệng thánh hiền, mà ở chỗ nó đã vạch rõ được một quy luật khách quan tư tưởng, tính cách của con người chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh như vây. Cho nên khi mọi người nghiên cứu và vạch rõ tính cách thương nhân của Tưởng Giới Thạch thì không thể không chú ý tới hoàn cảnh mà Tưởng Giới Thạch đã sống trong thời nhi đồng và thiếu niên.Trước hết, mọi người hãy nhìn xem hoàn cảnh địa lý của quê hương đã có ảnh hưởng như thế nào đối với Tưởng. Thị trấn Khê Khẩu, tuy ở trong vùng núi xa xôi hẻo lánh cách phía bắc thành huyện Phụng Hóa 15 kilômét, nhưng thực ra không phải là Đào hoa nguyên cách tuyệt với đời. Con suối Viêm chảy qua thị trấn, là đường giao thông chủ yếu liên hệ vùng này với thế giới bên ngoài. Dòng suối Viêm có thể chở thuyền gỗ đi lại trên mặt nước. Kỳ nước dâng hàng năm thuyền chở hàng nặng tới ngàn cân cũng có thể qua lại. Từ Khê Khẩu thuận dòng chẩy đi xuống hơn tám chục dặm, liền có thể tới Ninh Ba, Danh Phụ Triết Đông. Ninh ba là cửa cảng được mở ra theo quy định của Điều Ước Nam Kinh trong cuộc Nha phiến chiến tranh lần thứ nhất, là một trong năm cửa cảng buôn bán do các đế quốc cận đại giàu mạnh bắt ép Chính phủ nhà Thanh mở ra sớm nhất. Từ Ninh Ba ngồi thuyền gỗ tới Thượng Hải, cũng chỉ hành trình mất một, hai ngày. Lúc đó, giao thông đường bộ rất không phát đạt, nông dân ở vùng núi các nơi như Thiên Đài, Tân Xương v.v.. ở phía Tây bắc Khê Khẩu muốn tới ven biển đều phải đi qua thị trấn Khê Khẩu chỗ lối ra khúc thứ chín của Suối Viêm. Do đó, Khê Khẩu đã trở thành nơi tập trung phân tán vật tư của quê hương phía bắc Phụng Hóa. Một vị trí địa lý có lợi này của Khê Khẩu đã dẫn tới sự phát đạt về thương nghiệp, mà sự phát đạt về thương nghiệp lại thúc đẩy ý thức chuộng thương. Lúc đó, thị trấn Khê Khẩu nhỏ bé, số hộ chưa đầy một ngàn (Năm 1936 tổ chức đại thọ lần thứ 50 của Tưởng, Phong Cảo phòng từng đặt 1000 xuất điểm tâm ở Ninh Ba, theo dự định mỗi hộ trên thị trấn được phát một xuất, kỳ thực số xuất phát ra là 960, có thể nhìn thấy số hộ trên thị trấn khi Tưởng còn thơ ấu, tuyệt đối không vượt quá số này). Thế nhưng đã có hơn 100 hiệu buôn, cửa hàng, sự phát đạt về thương nghiệp của Khê Khẩu có thể đã nhìn thấy một vết vằn trên lưng báo. Phong cách sùng chuộng nghề buôn bán đã sản sinh theo sự hưng khởi của nghề buôn, đã trực tiếp kích động tư tưởng kinh tế tiểu nông suốt mấy ngàn năm của dân cư vùng đó, khiến cho quan niệm truyền thống đã tan vỡ từng bước, những quy phạm hành vi của nền kinh tế thương phẩm đã sinh sôi nẩy nở trong sự thay đổi ngấm ngầm. Tưởng Giới Thạch chính là đã sinh ra vào thời kỳ ấy.Thứ nữa, ảnh hưởng của gia đình đối với Tưởng Giới Thạch càng trực tiếp hơn. Cha ông đời xưa của họ Tưởng từ cuối đời Minh tới nay đều lấy nghề nông làm gốc. Đến đời ông nội của Tưởng Giới Thạch, bắt đầu thay đổi nghề cũ, lấy việc buôn bán muối để sống. Đến những năm cuối, Tưởng Ngọc Biểu dốc hết tiền tích lũy ra, mở cửa hiệu muối Ngọc Thái ở thị trấn Khê Khẩu, lấy việc buôn bán muối nấu rượu làm nghề nghiệp chính kiêm cả việc kinh doanh lượng thực và buôn bán vôi v.v..., gia đình ngày càng giầu có. Đến đời Tưởng Triệu Thông, cha của Tưởng Giới Thạch do vì kinh doanh phát đạt, việc buôn bán đã đạt tới đỉnh điểm. Vào lúc đó cửa hiệu muối Ngọc Thái với cửa hiệu tạp hóa Thành Vĩnh Xương, cửa hiệu tạp hóa Nghiêm Hẵng Xuân Nam và cửa hiệu gạo Giang Sinh v.v.. đều là những hiệu buôn lớn đếm được trên đầu ngón tay ở thị trấn Khê Khẩu.Lúc đó, nghê buôn muối rất sang trọng, trong dân gian có bài thơ ca vịnh nghề buôn muối như sau:Đạm hồng sam tử đạm hồng quầnĐạm tảo nga my đạm điểm thầnChỉ duyên hỗn thân đô thị đạmnhân thử giá dữ mãi diêm nhân(áo hồng nhạt, quần hồng màu nhạt, mày ngài nhạt, môi hồng điểm nhạt. Bởi chưng toàn thân đều là màu nhạt, vậy nên chỉ gả cho người bán muối thôi!) Điều này nói lên rằng làm nghề buôn bán muối rất có nhiều tiền, ở đâu cúng có thể lấy được thê được thiếp, thỏa thích vui chơi.Lại nữa, ở thời nhà Thanh, muối do nhà nước độc quyền. Cửa hiệu bán muối cần phải tới quan kiểm muối lĩnh được thẻ bán muối. Sau khi được quyền chuyên bán rồi mới có thể kinh doanh. Do đó, cửa hiệu muối Ngọc Thái ở Khê Khẩu chỉ có duy nhất, không có hiệu muối thứ hại. Tưởng Giới Thạch sống trong một gia đình giầu có như vậy, cha mẹ dạy bảo cặn kẽ, tha thiết khuyên răn chỉ mong muốn Tưởng kế thừa được tổ nghiệp, cũng là một việc hợp tình hợp lý. Tưởng Giới Thạch tuổi trẻ ngang ngạnh, chỉ thích ham chơi, tuy từ nhỏ đã muốn làm Quan lớn mà không ai có thể quản được, thế nhưng sự hun đúc rèn luyện của gia đình vẫn không có cách gì chống cự được.Tháng 8 năm 1916, sau khi Tưởng Giới Thạch từ chức từ trong quân đông bắc quân cách mạng Trung hoa, qua Bắc Kinh đến Thượng Hải. Lần này đến Thượng Hải, Tưởng chẳng có việc gì để làm, tâm trạng chơ vơ chới với, cảnh tượng lạnh giá chát chua. Lúc này, Trần Kỳ Mỹ đã chết, trên chính giới Tưởng mất quả núi để nương tựa, trên mặt kinh tế cũng rất kiệt quệ. Do đó cần phải mở ra một con đường khác tìm lấy người che chở. Trong thời kỳ này, Tưởng bắt đầu kết giao với Trương Tĩnh Giang, Trần Quả Phu v.v..rồi cùng bọn họ lao vào tham gia gia dịch đầu cơ ở sở Giao dịch chứng khoán Thượng Hải.Việc theo đuổi Kinh doanh mang tính chất đầu cơ trong việc giao dịch chứng khoán ở Thượng Hải, rất thuận lợi và đã phát tài to. Chỉ trong thời gian chưa đầy nửa năm, từ trong việc giao dịch chứng khoán, Tưởng Giới Thạch đã thu được khoản lợi cực lớn, số mức thu được mười mấy vạn đồng, nghiễm nhiên trở thành một phú ông mới ở bãi Thượng Hải. Trong sóng gió hãi hùng của việc mua bán cổ phiếu, chứng khoán, như thủy triều lúc lên lúc xuống, tình huống vạn biến trong nháy mắt, sở dĩ Tưởng có thể đứng vững mà không bị sa vào thế thất bại, chủ yếu là được sự tương trợ hết sức có lợi của Trương Tĩnh Giang v.v..Trương Tĩnh Giang là người huyện Ngô Hưng Triết Giang, dòng dõi thương nhân, từng theo đuổi hoạt động thương nghiệp ở Pa ri, về mặt chơi mua bán cổ phiếu, chứng khoán thì Trương là tay sành. Trương không những chỉ rõ bến mê đường tối trên mặt buôn bán, mà còn xuất vốn ra cho Tưởng, khiến Tưởng có thể mạnh tay làm lớn, và đã nhiều lần thu lợi. Ngoài những nhân tố khách quan được sự giúp đỡ của một số người như Trương Tĩnh Giang v.v..ra, tổ chấy quê hương thời nhi đồng của Tưởng Giới Thạch cũng đã phát huy được tác dụng, đúng là ngầm hiểu ý nhiều. Điều này có thể nói là nhân tố bên trong tạo ra sự phát tài cho Tưởng.Năm 1919, Tưởng Giới Thạch đã sớm trở thành lão tướng trên thương trường, đã hợp tác với bọn Ngu Hiệp Khanh v.v...mở ra sở giao dịch hàng hóa chứng khoán Thượng Hải. Ngu Hiệp Khanh làm chủ tịch hội đồng, Trương Tĩnh Giang, Trần Quả Phu, Tưởng Giới Thạch v.v...làm ủy viên hội đồng. Tổng cộng chia làm 10 vạn cổ phần, cầm cho các nhà buôn Nhật Bản 7 vạn cổ phần, cầm cố cho các nhà buôn người Hoa 3 vạn cổ phần. Đến cuối năm 1920, thu lợi được 2 triệu 70 vạn đồng. Kho tiền của Tưởng Giới Thạch đã bành trướng nhanh chóng như vậy đó.Từ năm 1916 đến năm 1922, trong hoạt động giao dịch chứng khoán Thượng Hải suốt sáu năm dài, Tưởng Giới Thạch không những đã thu được lợi ích kinh tế cực kỳ lớn, hơn thế đã quen biết được một loạt các nhân vật thượng tầng trong tập đoàn tài chính Giang Triết và tập đoàn lưu manh. Điều quan trọng hơn là: Tưởng đã nắm chắc được rất nhiều tuyệt chiêu mà ít người biết tới trong hoạt động kinh doanh thương nghiệp mang tính chất đầu cơ, thế rồi đem những tuyệt chiêu trong thương chiến này đưa sang cấy ghép trên vũ đài đấu tranh chính trị, khiến Tưởng có thể hô gió gọi mưa, trở thành một kiêu hùng của thời thế.Thực tiễn buôn bán sáu năm ở Thượng Hải đã kiến cho Tưởng Giới Thạch tỉnh ngộ ra được tính chất quan trọng của tiền vốn.Hoạt động đầu cơ cổ phiếu, thu lợi tuy nhiều, thế nhưng việc này bắt buộc phải cần đến tiền vốn, nếu không có sự giúp vốn của Trương Tĩnh Giang, cho dù Tưởng có tài ba đến mấy, thì cũng chỉ có thể lảng vảng ở bên ngoài cửa của sở giao dịch mà thôi. Vậy thì, sau khi Tưởng Giới Thạch về tới Quảng Châu, trở lại với mặt trận cách mạng, chàng thanh niên hừng hực đầy dã tâm này đa dựa vào tiền vốn nào để xây dựng cơ đồ trên vũ đài chính trị ?Nhìn tấm gương xa kinh nghiệm thành công của Napôlêông, Tằng Quốc Phiên, quan sát gần đường lối cướp nước của Viên Thế Khải và bài học nhiều lần làm cách mạng thất bại của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch hiểu sâu sắc rằng ở Trung Quốc quân phiệt Cắt cứ, anh hùng nhiều như cây rừng, không có quân đội riêng, không có thực lực làm tiền vốn thì đừng hòng bàn tới bất kỳ chuyện gì. Mà muốn xây dựng, thực hiện quân sự của mình, lại không thể đi con đường cũ kéo nhau lên núi, chiếm cứ địa bàn, chiêu binh mãi mã của bọn quân phiệt xưa. Phải làm sao đây ? Khảo sát đối với Liên Xô đã khiến cho Tưởng Giới Thạch bỗng nhiên sáng tỏ. Đó chính là: lợi dụng sự giúp đỡ của Liên Xô, mượn danh nghĩa của cách mạng và Quốc dân đảng, vứt bỏ quân đội cũ, xây dựng lại từ đầu, lập nên một quân đội kiểu mới chịu sự khống chế tuyệt đối của mình và phục vụ cho mình. Chính là vì nhìn trúng kiểu này, Tưởng Giới Thạch quen kiểu chọn chỗ béo bở, mới chịu tiếp nhận chức vụ hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố lúc đó binh quyền chẳng có, địa vị cũng chẳng cao này.Những người đã nghiên cứu lịch sử Quốc dân đảng đều am hiểu sâu sắc một điều thường thức cơ bản: Tưởng Giới Thạch đã xây dựng cơ nghiệp từ Hoàng Phố. Sau một số năm, Tưởng Giới Thạch đã làm nên chức Tổng tài Quốc dân đảng và Tổng thống Trung hoa dân quốc! Thế nhưng các học sinh Hoàng Phố của Tưởng vẫn xưng hô gọi Tưởng là Hiệu trưởng điều này không thể không coi là một thành công lớn của Tưởng. Mấy chục năm trở lại đây, Tưởng dựa vào danh nghĩa Quốc dân đảng và Cách Mạng để xây dựng trường quân sự, xây dựng lên thực lực quân sự của mình. Sau đó lại dựa mượn thực lực quân sự để đề cao địa vị chính trị của mình, có thể nói là quân quyền đảng quyền đã hỗ trợ thúc đẩy cùng tiến, cùng đạt thành quả rực rỡ, cuối cùng đã tập hợp Đảng quyền Quân quyền vào cả một thân Tưởng, Tưởng đã trở thành Lãnh tụ Cách mạng nắm vững thực lực quân sự. Tức thì, đem so sánh với các thủ lĩnh quân sự nói chung, Tưởng Giới Thạch là một Tín đồ trung thực theo Chủ nghĩa Tam dân chấp hành đúng như Tôn Trung Sơn, có vốn chính trị rồi, không thể bị coi là quân phiệt nữa. Rồi đem so sánh với các lãnh tụ đương thời ở trong Quốc dân đảng như Uông Tinh Vệ Hồ Hán Dân v.v... Tưởng lại là tướng lĩnh nắm thực lực quân sự, chứ không phải là nhà chính trị xuông không có thực lực. Khoản tiền vốn Tưởng Giới Thạch xây dựng cơ đồ trên vũ đài chính trị Trung Quốc thật là lớn lao!Bà con nhân dân thường nói: Vật có hiếm mới quý. Đối với những nhà buôn, định luật này có thể gọi là tích trữ hàng quý. Còn như trong triết học đối nhân xử thế của Tưởng Trung Chính thì hễ cứ phát hiện ra hàng quý của mình liền lập tức nâng cao bảng giá, giá tiền mà ông ta rao bán đã không trung mà cũng chẳng chính.Ngày 16 tháng 6 năm 1922, Trần Quýnh Minh nổ pháo vào Phủ tổng thống, phát động quân phiến loạn chống lại Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu, Tôn đã rút về chiến hạm Vĩnh Phong. Ngày 29 tháng 6, Tưởng Giới Thạch từ Hộ đến Huệ, bước lên tàu Vĩnh Phong thay Tôn Trung Sơn chỉ huy tác chiến với quân phiến loạn. Trong 55 ngày đêm gian khổ, Tưởng ngày đêm hầu hạ bên mình đã khiến cho Tôn Trung Sơn rất cảm động. Trong lời tựa mà Tôn Trung Sơn viết vào cuốn Ký sự gặp nạn ở Quảng Châu của Tôn đại Tổng thống do Tưởng Giới Thạch soạn thảo, cũng từng ca tụng rằng: Cuộc làm phản của họ Trần, Giới Thạch đã tới Việt, lao vào nguy nan, ngày đêm phục dịch trên chiến hạm, vạch thảo nhiều kế hoạch, càng sống chết với tôi và các tướng sĩ hải quân. Dựa theo lý mà nói, trải qua sự từng trải nguy hiểm này, quan hệ giữa Tưởng và Tôn phải càng mật thiết hơn. Thế nhưng, thực tế đã không như vậy, Tưởng Giới Thạch tự cho rằng có công với Tôn Trung Sơn thì phải được sự đền đáp cao hơn mới phải. Khoảng cuối tháng 8, Tưởng Giới Thạch đã viết cho Tôn Trung Sơn một bức thư, trong thư, ngoài vấn đề Đảng vụ Quốc dân đảng, Tưởng cũng đã đề xuất rất nhiều ý kiến, phê bình. Kỳ thực những người sáng mắt vừa nhìn đã biết ngay, Tưởng tự nhận là thần có công, đã không thỏa mãn với công tác quân sự đơn thuần. Tưởng hy vọng Tôn Trung Sơn có thể đề bạt mình thành người lãnh đạo chủ chốt của Quốc dân đảng để thực thi hoài bão của mình, cho nên trên vấn đề Đảng vụ Tưởng đã nêu rất dài.Tháng 1 năm 1924, Đại hội đại biểu Quốc dân đảng lần thứ nhất đã triệu tập tại Quảng Châu. Trong hội nghị, để đổi mới Quốc dân đảng, Tôn Trung Sơn đã tuyển chọn ra ẹy ban chấp hành Trung ương 24 người có tham gia hai đảng Quốc Cộng. Trong cơ cấu lãnh đạo Trung ương tuyển chọn mới lần này lại không có vị trí của Tưởng Giới Thạch, Tưởng chỉ đảm nhận chức vụ một ủy viên trong ủy ban quân sự cấp dưới. Đây là một đòn đả kích rất lớn đối với Tưởng, người tự cho mình là công thần, Tưởng suốt ngày ấm ức bất an, như người ngồi trên thảm kim. Tháng 2, Tưởng lại một lần nữa dùng từ chức để ép giá, đệ đơn từ chức tới Tôn Trung Sơn chưa được phê chuẩn đã phủi tay bỏ đi.Nhìn chung, trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch đi theo Tôn Trung Sơn này, hơi một tý là Tưởng từ chức đã có tới hơn mười lần. Trong những lần đó, ngoài một số nguyên nhân khác ra, còn phần lớn đều do tự coi mình là công thần, ép buộc Tôn Trung Sơn phải phong cho Tưởng chức quan to lớn hơn.Trên vũ đãi quốc tế, đặc trưng tính cách tích trữ hàng qúy này của Tưởng Giới Thạch cũng thể hiện rất rõ rệt. Tháng 6 năm 1942, sau cuộc hải chiến ở đảo Trung Đồ, quân Mỹ chuyển sang phản công ở chiến trường Thái Bình Dương. Do vì đại lục Trung Quốc đã kiềm chế mấy triệu quân tinh nhuệ Nhật Bản, những hành động quân sự trên Thái Bình Dương đối với quân Mỹ cũng có ý nghĩa rất trọng đại. Do đó, trong chiến lược của nước Mỹ, địa vị của Trung Quốc đột nhiên được nâng cao. Lúc này Tưởng Giới Thạch lão mưu thần toán đã nhìn trúng thời cơ liền dùng thủ đoạn ép buộc tổng thống Rudơven nước Mỹ. Tưởng thông qua Stilwell đề xuất với Chính phủ Mỹ ba yêu cầu: 1-Điều 3 Sư đoàn quân Mỹ tới Trung Quốc để hiệp trợ tác chiến; 2- Xây dựng tại Trung Quốc một đội hàng không được tổ chức bởi 500 chiếc; 3- Mỗi tháng phải vận chuyển vào Trung Quốc 5000 tấn vật tư. Ba điều yêu cầu này không được thỏa mãn, cũng chính là nói nước Mỹ không tích cực viện Hoa, Tưởng Giới Thạch sẽ chuẩn bị giảng hòa đơn phương với Nhật Bản. Kỳ thực, số vật tư này dùng bao nhiêu vào chống Nhật, dùng bao nhiêu vào chống cộng, trong lòng Stilwell đều rõ cả. Bất đắc dĩ nước Mỹ phải cầu đến Tưởng để tác chiến ở chiến trường Thái Bình Dương, đành phải đáp ứng vô điều kiện bảng kê vũ khí quân sự mà Tưởng Giới Thạch nêu ra.Bẩm tính thương nhân này của Tưởng Giới Thạch, không những biểu hiện ra trong cuộc đấu tranh chính trị, mà cũng còn biểu hiện ra trên chiến trường quân sự mà Tưởng dập tắt nổi loạn nữa. Trong việc thu thập sự biến chống Tưởng trong nội bộ, Tưởng đã nhiều lần dùng tới Pháp bảo cúng tiền. Tháng 3 năm 1929, Quế Hệ trước tiên gọi điện đánh Tưởng, cuộc chiến tranh Tưởng Quế bùng nổ. Tưởng vận dụng thủ pháp dùng tiền mua chuộc và thủ pháp viễn giao cận công, trước hết dùng phương thức hứa hẹn lừa Phùng Ngọc Tường phạt Quế. Lại dùng vàng bạc mua chuộc tướng lĩnh của Quế Hệ là Lý Minh Dương quay súng chống lại, nhanh chóng đập tan được cuộc tấn công của Quế Hệ. Sau đó, Tưởng lại với danh nghĩa là Phùng Ngọc Tường chưa tham chiến, không thi hành lời hứa trước, bức Phùng phải dấy động Can qua với Tưởng. Thế nhưng giữa lúc Phùng Ngọc Tường chiếm cứ Tây Bắc chuẩn bị đánh Tưởng, các bộ tướng của Phùng là Hàn Phúc Củ, Thạch Hữu Tam đã bị đồng tiền của Tưởng mua chuộc, đã đánh điện chống lại Phùng ủng hộ Tưởng. Một thời gian, Tưởng Giới Thạch đã dùng tiền bạc lôi kéo và chia rẽ giữa quân sự với chính trị lưu manh đã thu được toàn thắng. Những ví dụ các trận đánh kiệt suất dùng tiền bạc giành chiến thắng giống kiểu này, trong đời sống sinh nhai quân sự của Tưởng Giới Thạch không sao kể hết được. Cho dù Tưởng có bại trận cũng không quên trước hết phải nắm lấy đồng tiền. Năm 1949, đối mặt với thế tấn công mạnh mẽ, trong chiến dịch vượt sông của quân giải phóng, Tưởng Giới Thạch bàng hoàng lo sợ phải chạy trốn về Đài Loan, thứ đầu tiên cướp đoạt đem đi cũng vẫn là tiền bạc.Người ta thường nói: giang sơn dễ đổi, bản tính khó thay. Mặc dù Tưởng Giới Thạch chán ghét kinh doanh buôn bán, thế nhưng trong con người Tưởng điều bộc lộ ra rõ ràng nhất vẫn là bản chất thương nhân. Tích trữ hàng qúy, đầu cơ trục lợi, dùng tiền chế thắng v.v..thật là cặn kẽ thấu đáo, kỹ càng hết mức !



    Phần 8 - Chương 4: Trái tim tự tư với trái tim yêu nước


    Một du khách nước ngoài sau khi tham quan hết Cố cung đã tặc lưỡi than rằng : Hoàng đế nhà Thanh đã có trái tim tư hữu quá nặng, một người mà trong cung điện lớn lao có nhiều kiến trúc tinh vi lộng lẫy đến như vậy ! Kỳ thực, vị khách này không biết đó thôi. Đâu chỉ có một Cố cung Bắc Kinh, mà tất cả thiên hạ này cũng đều là tài sản riêng của Hoàng đế cả. Kinh thi nói : Đất dưới gầm trời, đâu cũng là đất của vua, khách trên mặt đất, ai cũng là thần của vua cả. Trong xã hội Coi thiên hạ là nhà của mình của chế độ phong kiến mấy ngàn năm, quyền của vua cao hơn hết. Trẫm tức là Quốc gia, đó là câu danh ngôn chí lý. Năm 1911, Tôn Trung Sơn đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi, giương cao ngọn cờ Thiên hạ là của chung, xoá bỏ chế độ phong kiến Coi thiên hạ là nhà của mình lập nên Dân quốc. Thế nhưng Tôn Trung Sơn làm lãnh tụ cách mạng, còn chưa kịp thực hiện lý luận của mình thì đã vĩnh biệt cuộc đời. Sau Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch, người tự xưng là Tín đồ trung thực của Tôn Trung Sơn, chiếm giữ địa vị lãnh tụ Quốc dân đảng kéo dài nửa thế kỷ và mấy lần nhậm chức Tổng thống Trung hoa Dân quốc đã đưa vào thực tiễn lời hứa Thiên hạ là của chung như thế nào ? Năm 1954, Chủ tịch Chính phủ tỉnh Đài Loan của Quốc dân đảng lưu vong ở nước Mỹ là Ngô Quốc Trinh đã thẳng thắn chỉ ra những hành vi cử chỉ của Tưởng Giới Thạch : Trái tim tự tư tương đối nặng hơn trái tim yêu nước của ông ta. Trái tim tự tư nặng hơn Trái tim yêu nước, đây chính là bình giá đúng mức của cấp dưới Tưởng Giới Thạch đối với tính cách chính trị của lãnh tụ mình.Nói thực tình, từ những năm trước mặc dù Tưởng Giới Thạch đã có tư tưởng tự phấn đấu, thế nhưng với sự xung kích của trào lưu tư tưởng cách mạng dân chủ, ý thức yêu nước của Tưởng vẫn còn tương đối nồng hậu. Tháng 4 năm 1905, với ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng tiến bộ, Tưởng Giới Thạch 18 tuổi đã cắt đi bím tóc, kiên quyết vượt biển Đông sang Nhật bản học tập quân sự. Sau một số năm, khi hồi tưởng đoạn lịch sử này, Tưởng nói : Lúc đó tôi đang học tập ở trường trung học Long Tân huyện nhà, bởi vì hết sức căm phẫn sự hoành hành của bọn thổ hào trong làng, mục kích thấy đất nước của chúng ta chịu sự áp bức của bọn đế quốc. Đặc biệt là lúc đó nhìn thấy Nhật bản là một quốc gia nhược tiểu, có thể phấn đấu quật cường, đánh bại đế quốc Nga, đã đem lại cho tôi sự kích thích rất lớn trên mặt tinh thần. Cho nên tôi học ở trường trung học Long Tân chưa đầy nửa năm, đã xin mẹ tôi cho phép tôi được sang Nhật học quân sự, để làm trọn nghĩa vụ đối với dân với nước để mau chóng tự cường rửa nhục cho đất nước[1]. Tư tưởng nước giàu binh mạnh, chấn hưng Trung hoa này của Tưởng đã đại biểu cho tư tưởng của đông đảo lớp trẻ có ý chí cứu nước quật cường. Cũng chính lần vượt biển Đông sang Nhật bản học này, Tưởng đã thông qua quan hệ của Trần Kỳ Mỹ quen biết với Tôn Trung Sơn, trở thành người sùng bái Tôn Trung Sơn.Với ảnh hưởng của loại tư tưởng cấp tiến này, Tưởng Giới Thạch trẻ trung hăng hái có lúc đã biểu hiện ra rất sôi nổi. Trong thời gian học tập ở trường bổ túc lục quân Bảo Định, một lần sĩ quan quân y Nhật bản lên lớp dạy môn vệ sinh, đặt một miếng đất bùn lên trên bàn dùng để ví với Trung quốc, nói rằng trên miếng đất bùn này có 400 triệu con vi sinh vật, cũng giống hệt như 400 triệu nhân khẩu của Trung quốc. Tưởng Giới Thạch nghe thấy lời nói này liền hăng hái đứng lên rảo cẳng bước tới bục giảng, đem miếng đất bùn đó phân thành 8 miếng, đưa tới trước mặt viên sĩ quan giảng dạy Nhật bản lớn tiếng nói :- Nhật bản có 50 triệu người, phải chăng cũng giống như 50 triệu con vi trùng ăn bám ở trên miếng đất một phần tám tấc khối Anh này ?Người sĩ quan giảng dạy Nhật bản căn bản không nghĩ được rằng ở trên lớp lại có thể có học sinh gan góc đến như vậy, nhất thời kinh ngạc, miệng há hôc, mắt trợn tròn, không biết nên đối phó thế nào cho phải. Sau giây lát ngượng ngùng, người giáo viên trấn tĩnh lại, lên mặt ông thầy, lớn tiếng quở trách Đảng cách mạng của Tưởng. Tưởng liền bực tức trả lời :- Xin hỏi Ngài, ví dụ như vậy có đúng không ? Xin đừng hỏi những chuyện ngoài đề.Người giáo viên Nhật bản chẳng có lời nào để đáp lại, liền lập tức tìm đến người phụ trách nhà trường yêu cầu xử lý Tưởng Giới Thạch thật nghiêm khắc. Hành vi ngang ngược của người giáo viênNhật bản thực sự rất vô lý, ngay cả đến người lãnh đạo nhà trường cũng phải đồng tình với Tưởng Giới Thạch. Cuối cùng việc này cũng phải lờ đi cho xong chuyện. Năm 1907, Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa vượt biển sang Nhật vào trường Trấn Vũ học tập quân sự. Sau khi tới Nhật bản, qua giới thiệu cuả Trần Kỳ Mỹ, Tưởng Giới Thạch tinh lực cương cường đã gia nhập Đồng minh hội do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, sau đó lại gia nhập Trượng phu đoàn. Cái gọi là Trượng phu đoàn lấy ý ở trong sách Mạnh Tử là Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị Trượng phu. Đây là một tổ chức thanh niên, lấy việc trừ đuổi giặc Talu, xây dựng dân quốc làm tôn chỉ. Trong thời kỳ này, cuốn sách mà Tưởng thích đọc nhất là Quân cách mạng của Châu Dung. Tưởng đã hấp thụ được tư tưởng dân tộc chủ nghĩa từ trong đó. Trong 15 năm Dân quốc của Mao Tư Thành, nói Tưởng đã mê đọc Quân cách mạng, đọc cả sớm cả tối, lúc ngủ còn ôm nó ở trong lòng không nỡ rời tay. Khi nằm mơ, hình như vẫn đang nói chuyện với Châu Dung, còn Cùng nâng ngọn giáo, giết chết giặc Tanu. Lúc đó trên bức ảnh Tưởng gửi cho người anh họ là Đan Duy Tắc đã từng viết một bài thơ Đằng đằng sát khí mãn toàn cầu, lực bất như nhân khẳng thả hưu ? Quang ngã thần châu hoàn ngã trách, đông lai chí khải tại phong hầu ! (Sát khí đằng đằng khắp năm châu, Lực kém xa người phải bảo nhau. Rạng rỡ nôn sông tròn phận sự. Trí vươn đâu phải tại phong hầu ?) - Dựa vào tinh thần này, sau khi Tưởng Giới Thạch được biết cuộc khởi nghĩa Vũ Xương năm Tân Hợi đã nhanh chóng về nước, dẫn đầu một Đội cảm tử hơn trăm người tham gia cuộc khởi nghĩa Hàng Châu. Để thể hiện quyết tâm vì việc nghĩa chỉ tiến không lùi này của mình, Tưởngcòn viết một bức thư vĩnh biệt gửi về Khê Khẩu biểu thị cho gia đình biết Thề hy sinh vì cách mạng là chí quyết tâm cuả mình.Thế nhưng, trái tim yêu nước nàycủa Tưởng Giới Thạch khôngphát huy được mấy lớn lao, theo dòng chảy của thời gian năm tháng , trái tim đó đã biến hoá nhạt nhẽo dần.Trái lại, theo sự bành trướng của dục vọng quyền lực, trái tim tự tư của Tưởng cúng dần dần tăng trưởng lên.Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã phát động cuộc chính biến phản cách mạng ở Thượng hải, rồi thành lập Chính phủ Quốc dân ở Nam kinh vào tháng 10 năm 1928, dựng lên một cớ ở khác ở trong Quốc dân đảng, rồi lại từng bước, từng bước giành đoạt được quyền lực tối cao. Quyền lực là một thứ làm hư hỏng con người, đặc biệt là trong một đất nước có truyền thống phong kiến lâu dài như vậy ở Trung quốc thì hầunhư quyền lực, độc tài và tính chê bai người khác là ba ngôi của một thể.Vừanắm được đại quyền, điều trước tiên Tưởng Giới Thạch nghĩ tới là làm thế nào để duy trì bà bảo hộ được lợi ích đã có.Để duy trì và bảo vệ nền thống trị độc tài thì đầu tiên cầnphải trừ diệt tai hoạ từ bên trong là Đảng cộng sản. Tháng 10 năm 1930, sau khi dẹp yên được phái phản đối trong nội bộ như Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn và Lýa Tông Nhân v.v...liềnphóng tầm mắt chuyển nhập vào các căn cứ địa đỏ, đã bắt đầu cuộc chiến tranh Tiễu cộng. Lúcnày bọn đế quốc Nhật bảnđang như hổ đói rình mồi đối với Đông bắc Trung quốc, những dấu tích phát động cuộc xâm nhập với qui mô lớn đã rất rõ ràng. Đối mặt với dã tâm xâm lược củaNhật bản, Trương Học Lương vô cùnglo lắng, đã nhiềulần cử người tới Nam kinh gặp gỡ Tưởng Giới Thạch thỉnh thị thời cơ thích hợp. Thế nhưng, Tưởng Giứi Thạch đang tập trunglực lượng Tiễu cộng, chỉ sợ phát rq xung đột với quân Nhật, tức thì ngày 16 tháng 8 năm 1931 đã đánh điện mật cho Trương Học Lương : Vô luận là quân đội Nhật từ nay về sau có gây hấn như thế nào đối với Đông bắc, phía ta cũng không nên chống đối, cố gắng tránh xung đột. Người anh em tuyệt đối khôngđược thể hiện sự phẫn nộ nhất thời, mà bỏ mặc khôngchiếu cố tới quốc gia, dân tộc[2]. Ngày hôm sau, Chính phủ Quốc dân đảng, chấp hành ý kiến của Tưởng lại một lần nữa gửi điện cho Trương Học Lương, nói rằng : Trung ương coi việc bình định nội loạn là công việc hàng đầu, các đồng chí ở Đông bắc phải thôngcảm ! Vậy thì thế nào gọi là lợi ích của Quốc gia, dân tộc mà Tưởng Giới Thạch khuyên răn Trương Học Lương ? Ngày 22 tháng 8 Tưởng đã biểu lộ rõ mình : Trung quốc mất bởi chủ nghĩa đế quốc, chúng ta còn có thể làm vong quốc nô, còn có thể thoi thóp, ngắc ngoải, kéo dài hơi thở đã tàn; nếu mất bởi Đảng cộng sản thì có muốn làm nô lệ cũng khônglàm được.[3] Đây chính là chính sách Cướp ngoải tất phải yên trong nước nổi tiếng của Tưởng. Thực chất là duy trì quyềnlực độc tàicủa Tưởng Giới Thạch. Bởi vì trong con mắt của Tưởng, điều uy hiếp quyền lực lớn nhất đối với Tưởng là Đảng cộng sản, chứ không phải là đế quốc Nhật.Do đó tiêu diệt Đảng cộng sản là điều ràng buộc chặt với Lợi ích quốc gia, dân tộc. Lý luận này như cùng một lò sinh ra với luận điệu Thà tặng người ngoài, chứ không bao giờ cho gia nô của Từ Hi Thái hậu.Để củng cố quyền lực mà mình đã cướp được, có thể để cho kẻ địch từ bên ngoài đến xâm lăng mà không đếm xỉa tới, cứ dốc toàn lực ra để làm vững chắc nền chuyên chế độc tài. Ngày 28 tháng 1 năm 1932, quân xâm lược Nhật bản đổ bộ lên Thượng hải, lộ quân thứ 19 của Quốc dân đảng đã chống lại chỉ thị Gánh vác trách nhiệm nặng nề là nhẫn nhục, họ đã đứng lên đánh lại quân Nhật, bùng nổ ra cuộc kháng chiến 28-1. Thượng Hải là một thành phố lớn nhất của Trung quốc, lại là trug tam công nghiệp và tiền tệ, vấp phải sự xâm nhập của quân Nhật, trongnhững ngày này, Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch Chính phủ Quốc dân đã làm gì ? Ngày hôm đó, Tưởng Giới Thạch triệu tập Hội nghị chính trị Trung ương lâm thời, tuyên bố 3 quyết định: Thứ nhất, triệt tiêu chức vụ Bộ trưởng Bộ ngoại giao của Trần Hữu Nhân bởi dám công khai phê bình Tưởng Giơí Thạch khôngó chính sách chống Nhật, để răm dạy kẻ khác chớ hùa theo. Thứ hai, khôi phục việc kiểm tra báo chí, cấm chỉ tất cả những ngôn luận nào phê bình Chính phủ và Lãnh tụ dăng trên báo chí, kẻ nào vi phạm nghiêm trị không tha. Thứ ba : cải tổ Chính phủ quốc dân, Uông Tinh Vệ, phái thân Nhật kế nhiệm Viện trưởng Viện Hành chính, Tống Tử Văn được bổ nhiệm chức Phó viện trưởng Viện hành chính kiêm Bộ trưởng Bộ tài chính. Đứng trước quân địch, Tưởng Giới Thạch phụ trách thống lĩnh quân dân toàn quốc giữ đất chông Nhật, lúc này lại đang bận với việc làm trong sạch nội bộ, kiềm chế dư luận, tín nhiệm sử dụng phái thân Nhật, để mong cầu củng cố lấy ách thống trị Phát xít của mình, tình yêu nước với yêu quyền lực của Tưởng, tình nào nặng, tình nào nhẹ ? Có thể nhìn thấy rõ !Tục ngữ nói : Đánh hổ thì giao cho anh em, ra trận thì giao cho cha con người lính. Điều đó nói lên rằng, trong những giờ phút gay go nhất, vẫn là thân thiết với người trong nhà. Tưởng Giới Thạch hiểu sâu đạo lý đó, cho dù khi lợi ích của quốc gia phát sinh ra mâu thuẫn cực kỳ lớn với lợi ích gia tộc thì Tưởng chẳng hề do dự gì mà không đem cán cân nặng về gia tộc. Ngày 19 tháng 8 năm 1948, để cứu vãn nền kinh tế tài chính gần như sắp sụp đổ từ ngày phát động nội chiến tới nay, để bình ổn vật giá, với cương vị Tổng thống, Tưởng Giới Thạch đã công bố Lệnh xử trí tài chính khẩn cấp, thực hành chế độ tiêu tiền quan kim. Đồng thời với việc cải cách tiền tệ, Tưởng đã cử con trai là Tưởng Kinh Quốc tới Thượng Hải nhậm chức đặc phái viên kinh tế, phụ trách việc đánh gian thương, bình ổn vật giá. Đối mặt với giang sơn xã tắc đang gặp cơn nguy biến, đại thái tử Tưởng Kinh Quốc cũng thực sự muốn làm một việc to lớn, chông chii lại với cơn sóng bạc đầu sắp dội tới để cữu vãn lại vương triều họ Tưởng. Vì vậy Tưởng Kinh Quốc đã xây dựng tổ chức Đại đội dẹp loạn bình định , Tổng đội phục vụ của thanh niên Thượng Hải, nêu ra khẩu hiệu Chỉ đánh lão hổ, không đánh ruồi nhặng, trấn giữ ngân hàng trungương Thượng Hải, triển khai phong trào đả kích gian thương, quản chế vật giá rất rầm rộ. Trong vòng thời gian một tháng, Tưởng con liên tục xử lý mấy vụ án lớn, án quan trọng, bắn chết, bắt giữ hàng loạt bọn quan lại và gian thương làm càn làm bậy mưu lợi riêng, khiến cho tên tuổi nổi lên vang dội, được các nhà báo nước ngoài gọi là Sa hoàng kinh tế của Trung quốc. Giữa lúc Tưởng Kinh Quốc đang thuận buồm xuôi gió, đang đánh đuổi truy quét bọn gian thương bất chấp luật pháp, một vụ án tích trữ lớn có can hệ tới Công ty Dương tử đã được khám phá ra. Công ty Dương tử chính là Công ty của con cả Khổng Tường Hy là Khổng Lệnh Khản chủ trì, Tống Mỹ Linh cũng có cổ phần ở trong đó. Như vậy Công ty Dương tử này liền trở thành cửa hiệu buôn của nhà vua, danh phù hợp với thực. Sau khi vụ án Công ty Dương tử tích trữ đầu cơ hàng quí được phát giác, đại thái tử Tưởng Kinh Quốc xuất phát từ suy nghĩ cho lợi ích của Đảng quốc đã thiết diện vô tư, kiên quyết bắt phải xử lý theo pháp luật. Trong lúc tình thế nguy cấp, đại công tử họ Khổng trình báo lên bà dì là Tống Mỹ Linh. Trong cơn thịnh nộ, đệ nhất phu nhân lại gạt sang Tưởng Giới Thạch. Ngày mồng 2 tháng 10, Tưởng cha triệu gọi Tưởng con, gia tăng áp lực, chỉ thị rõ ràng rằng Tưởng Kinh Quốc không được phép can thiệp vào vụ án này. Với lời lẽ thành khẩn, ý tứ sâu xa, Tưởng Giới Thạch nói với đại thái tử và các tùy viên rằng :- Ai ai cũng đều có người thân thích cả. Những sự việc làm cho người thân thích mất mặt, xin mọi người các anh hãy thử nghĩ mà xem, ai có thể thực sự thiết diện vô tư được ! Ta nghĩ rằng, vụ án này hãy bỏ qua là hơn ! [4]. Trong mâu thuẫn lợi ích giữa Quốc và Gia đang rung rinh chực nổ, Tưởng Giới Thạch đã ra uy bức đại thái tử tuyển chọn Gia mà vứt bỏ Quốc. Từ đó việc cải cách chế độ tiền tệ đã triệt để thất bại, vật giá tăng vọt, dân chúng khổ sở điêu linh, những ngày vương triều họ Tưởng còn sống được ở trên đại lục chỉ đếm được ở trên đầu ngón tay.Sau khi chạy trốn tới Đài Loan, theo sự tăng trưởng cuả tuổi tác và sự ổn định của cục thế, Tưởng Giới Thạch bắt đầu suy nghĩ tới vấn đề người kế tục. Chọn ai đứng ra làm người kế tục mình đây ? Đội ngũ Quốc dân đảng lúc đó tuy đã lung tung lộn xộn, đã thất bại khó gượng dậy nổi, thế nhưng chọn ra mấy người tjhông minh tài cán, được nhiều người tin cậy để kế thừa đại tổng thống cũng không khó lắm. Thế nhưng tâm tư của Tưởng cha, muốn đem phần di sản Quyền lực Đảng quốc nqỳ để lại cho con trai. Thế nhưng, thời đại đế chế cuối cùng đã trở về quá khứ rồi. Tưởng Giới Thạch tự coi mình là Tín đồ trung thực của Tôn Trung Sơn, giả côngkhai đem quyền lực trao cho con trai Tưởng Kinh Quốc, há chẳng phải là sẽ chuốc lấy sự thoá mạ của bàn dân thiên hạ hay sao ? Tức thì để đem thiên hạ trao cho con trai, Tưởng cha đã thioết kêkks tỉ mỉ khéo léo một con đường kế tục gấp khúc. Trong thời gian 20 năm, từ năm 1950 đến đầu năm 1970, Tưởng Kinh Quốc từ chủnhiệm chính trị Bộ quốc phòng rồi tới Phó bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lên thẳng Viện trưởng Viện Hành chính, còn kiêm nhiệm các chức vụ như Phó bí thư trưởng Hội nghị Quốc phòng, Phó bí thư trưởng Hội nghị an toàn quốc gia v.v... Đồng thời với việc liên tục thăng tiến các chức vụ hànhchính, các chức vụ trong Đảng cũng được lên nhanh như gió xoáy, được bầu vào ủy ban thường vụ Trung ương Quốc dân đảng. Đồng thời với việc dốc toàn sức nâng dỡ con trai hoàn thành việc thăng tiến các chức vụ, Tưởng Giới Thạch bắt đầu dùng những nô bộc trùng thành kiên định tuyệt đối với họ Tưởng như Trần Thành, Nghiêm Gia Cán v.v..., hơn thế còn tiến hành đả kích đối với một số nhân vật có khả năng hình thành sự uy hiếp đối với việc kế tục của Tưởng Kinh Quốc như Trần Lạp Phu, Ngô Quốc Trinh, Tôn Lập Nhân v.v... Trải qua hơn hai chục năm khổ tâm xây đắp, Tưởng Giới Thạch đã nhìn thấy xu thế kế tục của con trai đã ổn định, mới yên lòng nhắm mắt xuôi tay trở về với phương Tây. Buổi tối ngày 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch 88 tuổi đã tạ thế tại dinh Sĩ Lâm ở Đài Bắc. Ngày 28 tháng 4, toàn thể ủy ban Trung ương Quốc dân đảng Đài Loan đã triệu tập hội nghị, sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Tưởng Kinh Quốc làm Chủ tịch Trungương Đảng kiêm Chủ tịch ủy ban thường vụ Trung ương. Sau 3 năm, ngày 20 tháng 5 năm 1978, Tưởng Kinh Quốc với danh nghĩa Chủ tịch Quốc dân đảng Đài Loan đã trở thành Tổng thống của Trung hoa Dân quốc Đài Loan. Với bộ áo khoác ngoài Cộng hoà hiện đại, một màn hài kịch giao tiếp quyền lực Quốc gia theo quan hệ huyết thống đã hạ, quyền lực đã trao, nhận riêng tư giữa Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc như vậy đó ! Nếu tiên Thủ tướng Tôn Trung Sơn ở trên trời có linh thiêng thì có thể nhìn thấy dâú tích sâu xa Coi thiên hạ là của riêng mình, thế mà Tưởng Giới Thạch vẫn tự khoê là Tín đồ trung thực của Ngài, không biết Ngài đã có cảm tưởng như thế nào?
    ------------------------
    [1] Tưởng Giới Thạch - Bài nói chuyện với học sinh tòng quân tháng 1 năm 1944.
    [2] Trương Học Lương với sự biến đương thời 18-9 , Tuyển tập tư liệu văn sử của Hồng Phương,tập 6 trang 24
    [3] Vinh Mạnh Nguyên Vương triều họ Tưởng trang 51
    [4] Chu Nhất Trí Một bức màn tiền quan kim Thượng Hải, trích trong Tuyển tập tư liệu văn sử tập 81, trang 211



    Phần 8 - Chương 4: Trái tim tự tư với trái tim yêu nước


    Một du khách nước ngoài sau khi tham quan hết Cố cung đã tặc lưỡi than rằng : Hoàng đế nhà Thanh đã có trái tim tư hữu quá nặng, một người mà trong cung điện lớn lao có nhiều kiến trúc tinh vi lộng lẫy đến như vậy ! Kỳ thực, vị khách này không biết đó thôi. Đâu chỉ có một Cố cung Bắc Kinh, mà tất cả thiên hạ này cũng đều là tài sản riêng của Hoàng đế cả. Kinh thi nói : Đất dưới gầm trời, đâu cũng là đất của vua, khách trên mặt đất, ai cũng là thần của vua cả. Trong xã hội Coi thiên hạ là nhà của mình của chế độ phong kiến mấy ngàn năm, quyền của vua cao hơn hết. Trẫm tức là Quốc gia, đó là câu danh ngôn chí lý. Năm 1911, Tôn Trung Sơn đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi, giương cao ngọn cờ Thiên hạ là của chung, xoá bỏ chế độ phong kiến Coi thiên hạ là nhà của mình lập nên Dân quốc. Thế nhưng Tôn Trung Sơn làm lãnh tụ cách mạng, còn chưa kịp thực hiện lý luận của mình thì đã vĩnh biệt cuộc đời. Sau Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch, người tự xưng là Tín đồ trung thực của Tôn Trung Sơn, chiếm giữ địa vị lãnh tụ Quốc dân đảng kéo dài nửa thế kỷ và mấy lần nhậm chức Tổng thống Trung hoa Dân quốc đã đưa vào thực tiễn lời hứa Thiên hạ là của chung như thế nào ? Năm 1954, Chủ tịch Chính phủ tỉnh Đài Loan của Quốc dân đảng lưu vong ở nước Mỹ là Ngô Quốc Trinh đã thẳng thắn chỉ ra những hành vi cử chỉ của Tưởng Giới Thạch : Trái tim tự tư tương đối nặng hơn trái tim yêu nước của ông ta. Trái tim tự tư nặng hơn Trái tim yêu nước, đây chính là bình giá đúng mức của cấp dưới Tưởng Giới Thạch đối với tính cách chính trị của lãnh tụ mình.Nói thực tình, từ những năm trước mặc dù Tưởng Giới Thạch đã có tư tưởng tự phấn đấu, thế nhưng với sự xung kích của trào lưu tư tưởng cách mạng dân chủ, ý thức yêu nước của Tưởng vẫn còn tương đối nồng hậu. Tháng 4 năm 1905, với ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng tiến bộ, Tưởng Giới Thạch 18 tuổi đã cắt đi bím tóc, kiên quyết vượt biển Đông sang Nhật bản học tập quân sự. Sau một số năm, khi hồi tưởng đoạn lịch sử này, Tưởng nói : Lúc đó tôi đang học tập ở trường trung học Long Tân huyện nhà, bởi vì hết sức căm phẫn sự hoành hành của bọn thổ hào trong làng, mục kích thấy đất nước của chúng ta chịu sự áp bức của bọn đế quốc. Đặc biệt là lúc đó nhìn thấy Nhật bản là một quốc gia nhược tiểu, có thể phấn đấu quật cường, đánh bại đế quốc Nga, đã đem lại cho tôi sự kích thích rất lớn trên mặt tinh thần. Cho nên tôi học ở trường trung học Long Tân chưa đầy nửa năm, đã xin mẹ tôi cho phép tôi được sang Nhật học quân sự, để làm trọn nghĩa vụ đối với dân với nước để mau chóng tự cường rửa nhục cho đất nước[1]. Tư tưởng nước giàu binh mạnh, chấn hưng Trung hoa này của Tưởng đã đại biểu cho tư tưởng của đông đảo lớp trẻ có ý chí cứu nước quật cường. Cũng chính lần vượt biển Đông sang Nhật bản học này, Tưởng đã thông qua quan hệ của Trần Kỳ Mỹ quen biết với Tôn Trung Sơn, trở thành người sùng bái Tôn Trung Sơn.Với ảnh hưởng của loại tư tưởng cấp tiến này, Tưởng Giới Thạch trẻ trung hăng hái có lúc đã biểu hiện ra rất sôi nổi. Trong thời gian học tập ở trường bổ túc lục quân Bảo Định, một lần sĩ quan quân y Nhật bản lên lớp dạy môn vệ sinh, đặt một miếng đất bùn lên trên bàn dùng để ví với Trung quốc, nói rằng trên miếng đất bùn này có 400 triệu con vi sinh vật, cũng giống hệt như 400 triệu nhân khẩu của Trung quốc. Tưởng Giới Thạch nghe thấy lời nói này liền hăng hái đứng lên rảo cẳng bước tới bục giảng, đem miếng đất bùn đó phân thành 8 miếng, đưa tới trước mặt viên sĩ quan giảng dạy Nhật bản lớn tiếng nói :- Nhật bản có 50 triệu người, phải chăng cũng giống như 50 triệu con vi trùng ăn bám ở trên miếng đất một phần tám tấc khối Anh này ?Người sĩ quan giảng dạy Nhật bản căn bản không nghĩ được rằng ở trên lớp lại có thể có học sinh gan góc đến như vậy, nhất thời kinh ngạc, miệng há hôc, mắt trợn tròn, không biết nên đối phó thế nào cho phải. Sau giây lát ngượng ngùng, người giáo viên trấn tĩnh lại, lên mặt ông thầy, lớn tiếng quở trách Đảng cách mạng của Tưởng. Tưởng liền bực tức trả lời :- Xin hỏi Ngài, ví dụ như vậy có đúng không ? Xin đừng hỏi những chuyện ngoài đề.Người giáo viên Nhật bản chẳng có lời nào để đáp lại, liền lập tức tìm đến người phụ trách nhà trường yêu cầu xử lý Tưởng Giới Thạch thật nghiêm khắc. Hành vi ngang ngược của người giáo viênNhật bản thực sự rất vô lý, ngay cả đến người lãnh đạo nhà trường cũng phải đồng tình với Tưởng Giới Thạch. Cuối cùng việc này cũng phải lờ đi cho xong chuyện. Năm 1907, Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa vượt biển sang Nhật vào trường Trấn Vũ học tập quân sự. Sau khi tới Nhật bản, qua giới thiệu cuả Trần Kỳ Mỹ, Tưởng Giới Thạch tinh lực cương cường đã gia nhập Đồng minh hội do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, sau đó lại gia nhập Trượng phu đoàn. Cái gọi là Trượng phu đoàn lấy ý ở trong sách Mạnh Tử là Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị Trượng phu. Đây là một tổ chức thanh niên, lấy việc trừ đuổi giặc Talu, xây dựng dân quốc làm tôn chỉ. Trong thời kỳ này, cuốn sách mà Tưởng thích đọc nhất là Quân cách mạng của Châu Dung. Tưởng đã hấp thụ được tư tưởng dân tộc chủ nghĩa từ trong đó. Trong 15 năm Dân quốc của Mao Tư Thành, nói Tưởng đã mê đọc Quân cách mạng, đọc cả sớm cả tối, lúc ngủ còn ôm nó ở trong lòng không nỡ rời tay. Khi nằm mơ, hình như vẫn đang nói chuyện với Châu Dung, còn Cùng nâng ngọn giáo, giết chết giặc Tanu. Lúc đó trên bức ảnh Tưởng gửi cho người anh họ là Đan Duy Tắc đã từng viết một bài thơ Đằng đằng sát khí mãn toàn cầu, lực bất như nhân khẳng thả hưu ? Quang ngã thần châu hoàn ngã trách, đông lai chí khải tại phong hầu ! (Sát khí đằng đằng khắp năm châu, Lực kém xa người phải bảo nhau. Rạng rỡ nôn sông tròn phận sự. Trí vươn đâu phải tại phong hầu ?) - Dựa vào tinh thần này, sau khi Tưởng Giới Thạch được biết cuộc khởi nghĩa Vũ Xương năm Tân Hợi đã nhanh chóng về nước, dẫn đầu một Đội cảm tử hơn trăm người tham gia cuộc khởi nghĩa Hàng Châu. Để thể hiện quyết tâm vì việc nghĩa chỉ tiến không lùi này của mình, Tưởngcòn viết một bức thư vĩnh biệt gửi về Khê Khẩu biểu thị cho gia đình biết Thề hy sinh vì cách mạng là chí quyết tâm cuả mình.Thế nhưng, trái tim yêu nước nàycủa Tưởng Giới Thạch khôngphát huy được mấy lớn lao, theo dòng chảy của thời gian năm tháng , trái tim đó đã biến hoá nhạt nhẽo dần.Trái lại, theo sự bành trướng của dục vọng quyền lực, trái tim tự tư của Tưởng cúng dần dần tăng trưởng lên.Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã phát động cuộc chính biến phản cách mạng ở Thượng hải, rồi thành lập Chính phủ Quốc dân ở Nam kinh vào tháng 10 năm 1928, dựng lên một cớ ở khác ở trong Quốc dân đảng, rồi lại từng bước, từng bước giành đoạt được quyền lực tối cao. Quyền lực là một thứ làm hư hỏng con người, đặc biệt là trong một đất nước có truyền thống phong kiến lâu dài như vậy ở Trung quốc thì hầunhư quyền lực, độc tài và tính chê bai người khác là ba ngôi của một thể.Vừanắm được đại quyền, điều trước tiên Tưởng Giới Thạch nghĩ tới là làm thế nào để duy trì bà bảo hộ được lợi ích đã có.Để duy trì và bảo vệ nền thống trị độc tài thì đầu tiên cầnphải trừ diệt tai hoạ từ bên trong là Đảng cộng sản. Tháng 10 năm 1930, sau khi dẹp yên được phái phản đối trong nội bộ như Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn và Lýa Tông Nhân v.v...liềnphóng tầm mắt chuyển nhập vào các căn cứ địa đỏ, đã bắt đầu cuộc chiến tranh Tiễu cộng. Lúcnày bọn đế quốc Nhật bảnđang như hổ đói rình mồi đối với Đông bắc Trung quốc, những dấu tích phát động cuộc xâm nhập với qui mô lớn đã rất rõ ràng. Đối mặt với dã tâm xâm lược củaNhật bản, Trương Học Lương vô cùnglo lắng, đã nhiềulần cử người tới Nam kinh gặp gỡ Tưởng Giới Thạch thỉnh thị thời cơ thích hợp. Thế nhưng, Tưởng Giứi Thạch đang tập trunglực lượng Tiễu cộng, chỉ sợ phát rq xung đột với quân Nhật, tức thì ngày 16 tháng 8 năm 1931 đã đánh điện mật cho Trương Học Lương : Vô luận là quân đội Nhật từ nay về sau có gây hấn như thế nào đối với Đông bắc, phía ta cũng không nên chống đối, cố gắng tránh xung đột. Người anh em tuyệt đối khôngđược thể hiện sự phẫn nộ nhất thời, mà bỏ mặc khôngchiếu cố tới quốc gia, dân tộc[2]. Ngày hôm sau, Chính phủ Quốc dân đảng, chấp hành ý kiến của Tưởng lại một lần nữa gửi điện cho Trương Học Lương, nói rằng : Trung ương coi việc bình định nội loạn là công việc hàng đầu, các đồng chí ở Đông bắc phải thôngcảm ! Vậy thì thế nào gọi là lợi ích của Quốc gia, dân tộc mà Tưởng Giới Thạch khuyên răn Trương Học Lương ? Ngày 22 tháng 8 Tưởng đã biểu lộ rõ mình : Trung quốc mất bởi chủ nghĩa đế quốc, chúng ta còn có thể làm vong quốc nô, còn có thể thoi thóp, ngắc ngoải, kéo dài hơi thở đã tàn; nếu mất bởi Đảng cộng sản thì có muốn làm nô lệ cũng khônglàm được.[3] Đây chính là chính sách Cướp ngoải tất phải yên trong nước nổi tiếng của Tưởng. Thực chất là duy trì quyềnlực độc tàicủa Tưởng Giới Thạch. Bởi vì trong con mắt của Tưởng, điều uy hiếp quyền lực lớn nhất đối với Tưởng là Đảng cộng sản, chứ không phải là đế quốc Nhật.Do đó tiêu diệt Đảng cộng sản là điều ràng buộc chặt với Lợi ích quốc gia, dân tộc. Lý luận này như cùng một lò sinh ra với luận điệu Thà tặng người ngoài, chứ không bao giờ cho gia nô của Từ Hi Thái hậu.Để củng cố quyền lực mà mình đã cướp được, có thể để cho kẻ địch từ bên ngoài đến xâm lăng mà không đếm xỉa tới, cứ dốc toàn lực ra để làm vững chắc nền chuyên chế độc tài. Ngày 28 tháng 1 năm 1932, quân xâm lược Nhật bản đổ bộ lên Thượng hải, lộ quân thứ 19 của Quốc dân đảng đã chống lại chỉ thị Gánh vác trách nhiệm nặng nề là nhẫn nhục, họ đã đứng lên đánh lại quân Nhật, bùng nổ ra cuộc kháng chiến 28-1. Thượng Hải là một thành phố lớn nhất của Trung quốc, lại là trug tam công nghiệp và tiền tệ, vấp phải sự xâm nhập của quân Nhật, trongnhững ngày này, Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch Chính phủ Quốc dân đã làm gì ? Ngày hôm đó, Tưởng Giới Thạch triệu tập Hội nghị chính trị Trung ương lâm thời, tuyên bố 3 quyết định: Thứ nhất, triệt tiêu chức vụ Bộ trưởng Bộ ngoại giao của Trần Hữu Nhân bởi dám công khai phê bình Tưởng Giơí Thạch khôngó chính sách chống Nhật, để răm dạy kẻ khác chớ hùa theo. Thứ hai, khôi phục việc kiểm tra báo chí, cấm chỉ tất cả những ngôn luận nào phê bình Chính phủ và Lãnh tụ dăng trên báo chí, kẻ nào vi phạm nghiêm trị không tha. Thứ ba : cải tổ Chính phủ quốc dân, Uông Tinh Vệ, phái thân Nhật kế nhiệm Viện trưởng Viện Hành chính, Tống Tử Văn được bổ nhiệm chức Phó viện trưởng Viện hành chính kiêm Bộ trưởng Bộ tài chính. Đứng trước quân địch, Tưởng Giới Thạch phụ trách thống lĩnh quân dân toàn quốc giữ đất chông Nhật, lúc này lại đang bận với việc làm trong sạch nội bộ, kiềm chế dư luận, tín nhiệm sử dụng phái thân Nhật, để mong cầu củng cố lấy ách thống trị Phát xít của mình, tình yêu nước với yêu quyền lực của Tưởng, tình nào nặng, tình nào nhẹ ? Có thể nhìn thấy rõ !Tục ngữ nói : Đánh hổ thì giao cho anh em, ra trận thì giao cho cha con người lính. Điều đó nói lên rằng, trong những giờ phút gay go nhất, vẫn là thân thiết với người trong nhà. Tưởng Giới Thạch hiểu sâu đạo lý đó, cho dù khi lợi ích của quốc gia phát sinh ra mâu thuẫn cực kỳ lớn với lợi ích gia tộc thì Tưởng chẳng hề do dự gì mà không đem cán cân nặng về gia tộc. Ngày 19 tháng 8 năm 1948, để cứu vãn nền kinh tế tài chính gần như sắp sụp đổ từ ngày phát động nội chiến tới nay, để bình ổn vật giá, với cương vị Tổng thống, Tưởng Giới Thạch đã công bố Lệnh xử trí tài chính khẩn cấp, thực hành chế độ tiêu tiền quan kim. Đồng thời với việc cải cách tiền tệ, Tưởng đã cử con trai là Tưởng Kinh Quốc tới Thượng Hải nhậm chức đặc phái viên kinh tế, phụ trách việc đánh gian thương, bình ổn vật giá. Đối mặt với giang sơn xã tắc đang gặp cơn nguy biến, đại thái tử Tưởng Kinh Quốc cũng thực sự muốn làm một việc to lớn, chông chii lại với cơn sóng bạc đầu sắp dội tới để cữu vãn lại vương triều họ Tưởng. Vì vậy Tưởng Kinh Quốc đã xây dựng tổ chức Đại đội dẹp loạn bình định , Tổng đội phục vụ của thanh niên Thượng Hải, nêu ra khẩu hiệu Chỉ đánh lão hổ, không đánh ruồi nhặng, trấn giữ ngân hàng trungương Thượng Hải, triển khai phong trào đả kích gian thương, quản chế vật giá rất rầm rộ. Trong vòng thời gian một tháng, Tưởng con liên tục xử lý mấy vụ án lớn, án quan trọng, bắn chết, bắt giữ hàng loạt bọn quan lại và gian thương làm càn làm bậy mưu lợi riêng, khiến cho tên tuổi nổi lên vang dội, được các nhà báo nước ngoài gọi là Sa hoàng kinh tế của Trung quốc. Giữa lúc Tưởng Kinh Quốc đang thuận buồm xuôi gió, đang đánh đuổi truy quét bọn gian thương bất chấp luật pháp, một vụ án tích trữ lớn có can hệ tới Công ty Dương tử đã được khám phá ra. Công ty Dương tử chính là Công ty của con cả Khổng Tường Hy là Khổng Lệnh Khản chủ trì, Tống Mỹ Linh cũng có cổ phần ở trong đó. Như vậy Công ty Dương tử này liền trở thành cửa hiệu buôn của nhà vua, danh phù hợp với thực. Sau khi vụ án Công ty Dương tử tích trữ đầu cơ hàng quí được phát giác, đại thái tử Tưởng Kinh Quốc xuất phát từ suy nghĩ cho lợi ích của Đảng quốc đã thiết diện vô tư, kiên quyết bắt phải xử lý theo pháp luật. Trong lúc tình thế nguy cấp, đại công tử họ Khổng trình báo lên bà dì là Tống Mỹ Linh. Trong cơn thịnh nộ, đệ nhất phu nhân lại gạt sang Tưởng Giới Thạch. Ngày mồng 2 tháng 10, Tưởng cha triệu gọi Tưởng con, gia tăng áp lực, chỉ thị rõ ràng rằng Tưởng Kinh Quốc không được phép can thiệp vào vụ án này. Với lời lẽ thành khẩn, ý tứ sâu xa, Tưởng Giới Thạch nói với đại thái tử và các tùy viên rằng :- Ai ai cũng đều có người thân thích cả. Những sự việc làm cho người thân thích mất mặt, xin mọi người các anh hãy thử nghĩ mà xem, ai có thể thực sự thiết diện vô tư được ! Ta nghĩ rằng, vụ án này hãy bỏ qua là hơn ! [4]. Trong mâu thuẫn lợi ích giữa Quốc và Gia đang rung rinh chực nổ, Tưởng Giới Thạch đã ra uy bức đại thái tử tuyển chọn Gia mà vứt bỏ Quốc. Từ đó việc cải cách chế độ tiền tệ đã triệt để thất bại, vật giá tăng vọt, dân chúng khổ sở điêu linh, những ngày vương triều họ Tưởng còn sống được ở trên đại lục chỉ đếm được ở trên đầu ngón tay.Sau khi chạy trốn tới Đài Loan, theo sự tăng trưởng cuả tuổi tác và sự ổn định của cục thế, Tưởng Giới Thạch bắt đầu suy nghĩ tới vấn đề người kế tục. Chọn ai đứng ra làm người kế tục mình đây ? Đội ngũ Quốc dân đảng lúc đó tuy đã lung tung lộn xộn, đã thất bại khó gượng dậy nổi, thế nhưng chọn ra mấy người tjhông minh tài cán, được nhiều người tin cậy để kế thừa đại tổng thống cũng không khó lắm. Thế nhưng tâm tư của Tưởng cha, muốn đem phần di sản Quyền lực Đảng quốc nqỳ để lại cho con trai. Thế nhưng, thời đại đế chế cuối cùng đã trở về quá khứ rồi. Tưởng Giới Thạch tự coi mình là Tín đ
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 1:00 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 8 - Chương 5: Uy nghiêm cá nhân với tôn nghiêm lãnh tụ



    Mặc dù trong cuộc đấu tranh chính trị, Tưởng Giới Thạch hung hãn, độc ác, nhân cách xấu xa, thế nhưng bề ngoài Tưởng là thủ lĩnh của Quốc dân đảng, Nguyên thủ quốc gia của Trung hoa dân quốc và Tổng tư lệnh quân đội, lại luôn chú ý biểu hiện ra sự tôn nghiêm của Lãnh tụ.Muốn đứng trên đầu tất cả mọi người, muốn thao túng tất thảy ở xung quanh, có thể nói, đó là mô hình từ lúc tuổi thơ, Tưởng Giới Thạch đã muốn làm Lãnh tụ. Lúc đó Thụy Nguyên vô lại, mọi sự mọi việc đều đi trước mọi ngườì. Trong những trò chơi trẻ con, Tưởng đã xưng hùng xưng bá, còn tuyên bố sau này mình sẽ làm đại quan mà không ai có thể quản được. Tất cả những điều này tuy không có quan hệ trực tiếp tới đời sống chính trị về sau này của Tưởng, thế nhưng đã di chuyển ngấm ngầm chìm đọng trong mô thức hành vi của Tưởng. Về sau các sự kiện là người dẫn đầu chống đối nhà trường ở trường Phượng Lộc Phụng hoá, là người chất vấn trước mặt giáo viên sĩ quan Nhật bản ở trường quân sự Bảo Định, đã không ngừng hình thành ý thức đứng đầu mọi người trong tất cả các sự việc của Tưởng. Theo sự tăng trưởng của các sự việc đã trừng trải và sự hiểu biết rộng rãi, đặc biệt là khi địa vị của bản thân đã hiển hách, những tính cách này của Tưởng đã ngày càng bộc lộ rõ.Trên thực tế, những mô thức hành vi Lãnh tụ này trong tính cách của Tưởng Giới Thạch có thể phân tích từ hai phương diện. Phương diện thứ nhát là loại mô thức hành vi này thể hiện thành một loại dục vọng muốn Chinh phục, chinh phục cấp dưới, đối thủ, kẻ thù, tất cả mọi người. Loại hành vi này có đặc trưng là phát triển tới cực đoan, rồi dẫn tới độc đoán, chuyên quyền. Điều này đã được kể rõ ở trên. Một phương diện khác là loại mô thức hành vi này thể hiện thành một loại dục vọng muốn Biểu hiện, tức là thông qua những hành vi có ý thức của mình biểu hiện ra những chỗ siêu nhân của mình với cấp dưới, với binh sĩ, với nhân dân, để đạt tới mục đích làm cho người khác phải tỏ lòng cung kính. Đối với đặc chưng của hai phương diện này mà nói, loại trước là một loại chinh phục mang tính chất cưỡng chế theo mô hình bên ngoài kiểu Bá đạo. Loại sau là một loại chinh phục mang tính chất cảm hoá theo mô hình bên trong kiểu Vương đạo. Đạo của văn võ, lúc căng, lúc trùng, đây chính là thuật thống soái chế ngự của đế vương !Tưởng Giới Thạch hiểu rõ, nếu muốn làm cho thiên hạ vui vẻ chân thành qui phục, không thể chỉ dùng súng, dùng gậy mà được, rất cần phải xác lập quyền uy và tôn nghiêm của Lãnh tụ mới có thể khiến cho thiên hạ thần phục.Làm thế nào để có thể sác lập được uy tín và tôn nghiêm của mình? ở Trung Quốc từ xưa tới nay dân chúng tôn sùng nhất là những người không sợ chết. Ai không sợ chết thì người ấy có thể trở thành anh hùng trong tâm mắt mọi người. Lão Tưởng rất hiểu biết tâm lý truyền thống này của dân tộc Trung Hoa. Trong suốt cuộc đời cuả Tưởng, Tưởng đã từng biểu diễn qua trò chơi Thị tử như qui (coi cái chết như đi về nhà mình) vài ba lần. Tháng 10 năm 1925 khi Tưởng Giới Thạch đông chinh gặp nguy hiểm, ông đã từng cao giọng nhắc bản thân mình phải tự sát để thành nhân, đó là một ví dụ, sau được Trần Canh liều chết cứu thoát. Sau việc đó, đối với Trần Canh, Tưởng Giới Thạch biểu lộ đặc biệt cảm tạ, lại đưa lễ vật, lại bổ nhiệm làm tham mưu hậu cần, cả ân, cả sủng đều có cả! Kiểu biểu diễn bất đắc dĩ này của Tưởng tỏ ra vô cùng xấu xa thô tục.Năm 1926, Tưởng Giới Thạch ra nhậm chức Tổng tư lệnh quân Bắc phạt, lúc này về mặt biểu hiện mình củaTưởng Giới Thạch đã lão luyện hơn nhiều. Cuối tháng 8, quân đoàn 4, quân đoàn 7 Bắc phạt nhiều lần tiến đánh thành Vũ Xương mà chưa hạ được, bộ đội thương vong thảm bại nặng nề. Ngày mồng 3 tháng 9, Tưởng triệu tập hội nghị tác chiến ngay dưới chân thành Vũ Xương, ủy nhiệm Lý Tông Nhân chỉ huy việc phá thành, ra nghiêm lệnh cho quân đội trong vòng 48 giờ phải hạ được thành Vũ Xương. Các tướng lĩnh nghe nói, lo sợ, người nọ nhìn người kia, chẳng ai nói một lời. Lúc này đối với phương pháp chỉ huy bất chấp hiện thực vô cùng liều lĩnh của Tưởng Giới Thạch, Lý Tông Nhân uất ức nghẹn lên tới tận cổ. Tưởng thấy rõ, nhưng để bụng, không tỏ thái độ gì. Ngày 5 tháng 9, Lý Tông Nhân tổ chức bộ đội, bắt đầu tấn công thành một lần nữa. Buổi sáng, cuộc chiến đấu đẫm máu đang quyết liệt thì Tưởng Tổng tư lệnh đột nhiên đi tới và yêu cầu Lý Tông Nhân cùng đi vào chân thành thị sát. Trong lúc súng như cây rừng, đạn như mưa vãi, Lý Tông Nhân nhìn thấy thái độ của Tưởng Giới Thạch ung dung trấn tĩnh, rất có phong độ của chủ soái, bất giác Lý Tông Nhân đã ngấm ngầm bái phục Tưởng.Tháng 2 năm 1942, Tưởng Giới Thạch đã nhậm chức chủ tịch Chính phủ Quốc dân, để bàn bạc công việc cùng tác chiến với Nhật, Tưởng đã sang thăm ấn Độ. Sau khi kết thúc cuộc viếng thăm ấn Độ, Tưởng Giới Thạch đã bay tới La-rôn Miến Điện, thị sát tình hình tác chiến của quân viễn chinh Trung Quốc tại Miến Điện. Ngày 20 tháng 2, sau khi máy bay cất cánh từ sân bay La-rôn, trên đường trở về Côn Minh, bỗng nhiên gặp phải máy bay quân Nhật, rồi bị máy bay Nhật đuổi theo sau đuôi. Lúc đó tình hình ở trên máy bay của Tưởng vô cùng căng thẳng, các nhân viên tùy tùng sau khi buộc chắc những chiếc dù cấp cứu, ai nấy đều rất hoảng sợ. Duy chỉ có Tưởng là điềm nhiên trầm tĩnh, sau khi buộc chắc dù rồi, một mình Tưởng mở sách ra đọc, coi như chẳng có sự gì xảy ra, đúng là dáng vẻ gặp nguy biến không kinh sợ. Sau khi máy bay thoát khỏi nguy hiểm, mọi người đều ca tụng Tưởng Chủ tịch lâm nguy không sợ, trấn tĩnh như thường. Sau khi trải qua mấy lần nguy hiểm đều thoát khỏi, nghệ thuật biểu diễn và năng lực khống chế tình cảm trong hoàn cảnh nguy hiểm theo kiểu này của Tưởng Giới Thạch đã có được bước tiến dài.Trong một đời cuả con người, ngoài việc vấp phải tử vong uy hiếp ra, còn có thể gặp phải một số sự việc ngượng ngùng rất xấu hổ mất mặt, các nhân vật lớn cũng không lệ ngoại. Tháng 8 năm 1926, quân Bắc phạt chiếm lĩnh Hồ Nam. Ngày 14 tháng 8 Tưởng Giới Thạch giữ chức Tổng tư lệnh quân Bắc phạt quyết định kiểm duyệt quân đoàn 7, quân đoàn 8 tác chiến dũng mãnh, để tỏ ra sự quan tâm chăm sóc và tỏ ra sự uy nghi trang trọng. Địa điểm duyệt binh đặt tại sân trường lớn ngoài cửa Đông Trường sa, số quân đội tham gia duyệt binh có tới trên hai vạn người. Ngày hôm đó, tiết trời trong sáng, ánh nắng chiếu dọi nơi nơi, trên sân duyệt binh, cờ xí tung bay phần phật, càng tỏ ra quân dung hùng tráng. Đúng 9 giờ sáng, Tưởng Giới Thạch cưỡi một con ngưạ màu đỏ táo, chầm chậm tiến vào vị trí chủ soái, nghe các đơn vị báo cáo số người tham gia duyệt binh. Tư thế của Tưởng trông thật anh hùng lẫm liệt, vô cùng uy nghi.. Sau khi sĩ quan chỉ huy duyệt binh báo cáo xong, với hơn 10 tướng lĩnh cưỡi trên chiến mã hộ vệ, Tưởng Giới Thạch đi từ phải sang trái, kìm cương đi chầm chậm, bắt đầu duyệt binh. Trước hết kiểm duyệt quân đoàn 7, mọi thứ bình thường, thông qua thuận lợi. Khi đoàn tướng lĩnh kiểm duyệt quân đoàn 8, quân đoàn này đã nghĩ ra cái khác hẳn, bỗng nhiên tiếng nhạc kêu vang, lính thổi kèn lại đột nhiên kêu lanh lảnh, âm thanh chói tai. Con ngựa của Tưởng bỗng nhiên sợ hãi, hí dài lên một tràng rồi lồng lên như điên cuồng. Tưởng Giới Thạch đang tập trung tinh thần kiểm tra quân đội, đã không được chuẩn bị tư tưởng trước, cũng không thông thạo thuật cưỡi ngựa, trong nháy mắt đã lộn cổ ngã ngựa. Thế nhưng chân phải vẫn còn móc ở trên bàn đạp, toàn thân kéo lê ở dưới đất, cực kỳ nguy hiểm. Sau khi kéo lê đi một đoạn, cuối cùng Tưởng đã rời khỏi bàn đạp , thoát cảnh nguy hiểm. Các sĩ quan tướng lĩnh bị sự kiện đột xuất làm cho kinh ngạc hoảng hồn, giờ mới định thần tỉnh lại, họ vội vàng xuống ngựa dìu Tổng tư lệnh đứng dậy. Tưởng Giới Thạch bị kinh hồn lạc phách, thở hổn hển. Bộ quân trang mới tinh bị dính đầy bùn đất bẩn thỉu, ủng mất, mũ rơi, thật là ngượng ngùng quá xá! Nếu là người thường trong trường hợp như thế này khẳng định là sẽ xấu hổ nhục nhã tới mức không có lỗ để chui xuống đất. Nhưng Tưởng Giới Thạch thì không như vậy. Sau khi từ dưới đất bò lên, lấy lại tinh thần, chỉnh đốn lại áo mũ, lại tập tễnh dò dẫm chỉ huy các tướng lĩnh kiên trì đi bộ duyệt binh , cẩn thận từng li từng tí một. Sau khi duyệt binh xong, Tưởng còn phát biểu diễn thuyết động viên răn bảo hai quân đoàn, rồi kêu gọi quân đội cần phải phục tùng lãnh tụ cách mạng, phục tùng chủ nghĩa tam dân. Cuộc biểu diễn đặc sắc tuyệt vời này của Tưởng đã giành được bình luận tốt của các sĩ quan và binh lính. Bình tâm mà suy xét, trong những trường hợp vô cùng gay cấn như thế này, Tưởng có thể nhanh chóng xoay chuyển cục diện, cuối cùng đã đem sự việc xấu mất mặt, biến thành sự việc tốt làm tăng thêm uy tín cho bản thân mình. Có thể thấy được, quả thực Tưởng đã có những điểm khác hẳn người bình thường.Ngày 12 tháng 12 năm 1936, vì Tưởng Giới Thạch cứ khăng khăng làm theo ý mình, thực hành chính sách Cướp ngoài tất phải yên bên trong trước, đã ép quân Đông bắc và quân Tây bắc Tiễu cộng, vấp phải binh lính can gián của Trương Học Lương và Dương Hổ Thành, bị bắt giữ ở Tây An. Cho dù đến giờ phút như vậy, lão Tưởng vẫn còn ghi nhớ không quên lên mặt Lãnh tụ. Sự biến sáng sớm ngày hôm đó, khi các binh lính lùng soát tìm thấy Tưởng ẩn thân ở trong hang núi, họ dự định nổ súng. Tưởng sợ các binh lính bắn nên cao giọng hô to :- Tôi chính là Tưởng ẹy viên trưởng đây ! Khi Tưởng nhìn rõ các binh lính không muốn đòi mạng của Tưởng, lại nói :- Nếu các anh bắt tôi làm tù binh, thì có thể nổ súng giết chết tôi đi, thế nhưng không được làm nhục tôi! Khi được chuyển đến ở Đại lầu Tân thành, thái độ của Tưởng Giới Thạch quật cường ngang bướng, cự tuyệt nói chuyện với Trương học Lương, còn đem hành động binh gián của Trương và Dương gọi là phản nghịch. Sau đó trong cuộc tranh cãi với Trương Học Lương, khi Tưởng Giới Thạch nghe thấy Trương nói mình là quật cường ngang bướng như vậy đã bực tức hỏi vặn lại Trương Học Lương :- Thế nào là quật cường ngang bướng? Tên nhãi nhép ngươi thì bắt được cái gì? Ta đại biểu cho phẩm cách của 400 triệu người và khí chất của cả dân tộc Trung Hoa, nếu ngươi có cả gan, thì hãy lập tức nổ súng giết chết ta xem nào!Lúc này, Tưởng Giới Thạch bởi không hiểu rõ động cơ binh gián của Trương và Dương, đã vô cùng hoảng sợ hai vị tướng lĩnh này đòi mạng của mình, do đó vô cùng kinh hãi. Thế nhưng, Tưởng lại săn sóc tới thân phận, sĩ diện, vẻ ngoài cứng rắn, bên trong yếu mềm của Lãnh tụ, trên mặt xỉ vả, kiện cáo một chút cũng chẳng chịu thua. Tất cả những thứ này giống hệt như một con vịt đã được hầm chín - thịt nát nhưng mồm không nát! Trong suốt thời kỳ sự biến Tây An, Tưởng Giới Thạch hầu như đều biểu hiện ra loại thái độ này, ở nơi nào cũng tự coi mình là lãnh tụ, không chịu hạ cái bộ dạng ấy xuống, mọi sự vụ đàm phán, đều dựa vào anh em nhà họ Tống để điều hoà. Sau khi sự biến kết thúc, Tưởng đã về tới Nam kinh. Để lấy lại sĩ diện, Tưởng đặc biệt lấy lý do đối với cấp dưới quản thúc không nghiêm lập tức lại xin từ chức vụ Viện trưởng hành chính và ẹy viên trưởng ẹy ban quân sự rồi trao cho toà án quân sự xét xử Trương Học Lương. Để duy trì sự tôn nghiêm lãnh tụ của mình, thà ta phụ mọi người trong thiên hạ, chứ không để cho người trong thiên hạ phụ ta. Đó chính là tính cách của Tưởng Giới Thạch.Mặc dù lúc trẻ, Tưởng Giới Thạch cũng hút thuốc, uống rượu, chim gái, mọi thứ phong lưu đều đã hưởng thụ qua. Thế nhưng, từ sau khi làm lãnh tụ Trung hoa Dân quốc, Tưởng cũng bắt đầu chú ý tới ảnh hưởng. Đặc biệt là tháng 2 năm 1934, Tưởng Giới Thạch đã đề xuất ra cái gọi là Phong trào đời sống mới. Đồng thời với việc tuyên truyền Lễ nghĩa, liêm xỉ, kêu gọi quốc dân về phương diện ăn, mặc, ở, đi lại cần phải Chỉnh tề, sạch sẽ, đơn giản, chất phác, dùng thứ đó để phối hợp tuyên truyền chống cộng, lung lạc nhân tâm. Đề xướng Phong trào đời sống mới , kêu gọi Giản dị, chất phác, Tưởng Giới Thạch đã dẫn đầu làm trước. Tưởng không hút thuốc, không uống rượu, chỉ uống nước sôi trắng, mỗi bữa cơm cũng hết sức đơn giản. Nói chung, bữa cơm trưa, bữa cơm tối cũng chỉ một bữa mặn, một bữa chay. Khi chiêu đãi khách, cũng chỉ sơ lược thêm hai đĩa thức ăn,làm cho khách căn bản ăn chẳng được no. Hưởng thụ qua tiếp khách chiêu đãi của Tưởng, sau bữa ăn, chẳng hẹn mà ai cũng đều đem loại tiết kiệmnày của Tưởng liên hệ với sự keo kiệt ki bo của Kẻ bần tiện. Có khi ra ngoài, trước tiên Tưởng Giới Thạch đều dặn dò trước những tên lính hầu cận, không cho phép chúng đàn áp lăng nhục chính quyền địa phương. Một lần, hai vợ chồng Tưởng Giới Thạch tới Hàng Châu nghỉ ngơi, Hà Vân, Cục trưởng Công an tỉnh Triết giang phụ trách công tác cảnh vệ, để lấy lòng nhân viên ở bên cạnh Tưởng, đã bày yến tiệc riêng mời bọn sĩ quan hầu cận. Trong lúc mấy tên đang ăn uống nhậu nhẹt, lão Tưởng bước vào, dùng gậy ba-toong đập vỡ hết mọi bát đĩa, cốc chén thức ăn bày ở trên bàn, còn chửi rủa Hà Vân một trận, mới cho qua chuyện. Tưởng Giới Thạch cố tình trang điểm cho mình về phương diện sinh hoạt, không phải là không muốn xác lập ảnh hưởng lãnh tụ, để cho mọi người phải hoảng sợ mà bắt chước mình. Thế nhưng, mọi hiệu quả dẫn đến đâu? Trong cuốn sách Tưởng Giới Thạch mà tôi từng quen biết Phùng Ngọc Tường đã từng vạch trần : Kỳ thực, đời sống mới chỉ là điều nói để lừa người mà thôi.Ví dụ, đời sống mới không cho phép đánh bài, thế nhưng khi nghe thấy nói Tưởng Giới Thạch tới là đem bài mạt chược cất vào trong ngăn kéo. Lại như đời sống mới không cho phép ăn uống nhậu nhẹt, người bình thường ăn một mâm cơm tiêu tốn 8 đồng, các quan lớn ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch ăn một mâm cơm tốn hết 60 đồng, thức ăn là yến sào, cá vây quí hiếm. Chẳng những các quan lớn xa xỉ như vậy, đàn bà, các nô tài của quan lớn cũng như vậy cả. Cuộc sống xa xỉ như vậy, chẳng phải là Tưởng Giới Thạch không biết. Tưởng biết rất rõ. Chỉ có điều là Tưởng không thể nói toạc ra, nói toạc ra thì Tưởng không thể lừa được mọi người.Về phương diện mặc, Tưởng Giới Thạch cũng rất chú ý tới thân phận của mình. Ngay từ khi nhận chức hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, để lưu lại những ấn tượng sâu sắc cho học sinh, mỗi ngày trước và sau giờ làm việc, Tưởng chỉ khoác chiếc áo chùm đầu không có tay màu đen, di đôi găng tay màu trắng, đôi ủng da đánh xi rất bóng, phía trước có một sĩ quan phụ tá đi mở đường, phía sau có 4 vệ sĩ hộ giá, nghiễm nhiên ra vẻ một thống soái. Về sau khi làm Tổng tư lệnh quân cách mạng quốc dân, ẹy viên trưởng ẹy ban quân sự và Tổng thống, Tưởng lại càng chú trọng tới cách ăn mặc của mình. Tham gia các hoạt động quân sự nói chung, tiếp kiến các tướng lĩnh, thị sát quân đội, vẫn luôn luôn dựa theo mô thức Hoàng Phố ngày trước. Khoác chiếc áo trùm đen, đeo găng tay trắng, đeo hàm tướng quân, đi ủng màu đen để tỏ ra khí phách quân nhân. Nếu dùng thân phận Tổng thống khi xuất hiện trong một số trường hợp, thì Tưởng thích mặc áo ngắn chăn ngựa, áo choàng dài theo kiểu truyền thống Trung Quốc để thích hợp với tập quán tâm lý của quốc dân.Có khi Tưởng còn khéo léo lợi dụng phục trang để hục hặc đả kích kẻ thù chính trị, nâng cao mình, cũng là đời sống tuyệt vời của Tưởng. Tháng 3 năm 1948, Quốc dân đảng trù bị triệu tập Quốc dân Đại hội, bắt đầu tiến hành tuyển cử, bầu ra Tổng thống và Phó tổng thống. Tưởng Giới Thạch thao túng công tác trù bị của Quốc dân Đại hội, hy vọng bầu Tôn Khoa đảm nhiệm chức Phó tổng thống để đạt được mục đích bài xích các phái khác trong Quốc dân đảng. Thế nhưng, thủ lĩnh phái Quảng Tây Lý Tông Nhân không để ý đến trò bày đặt của Tưởng, được sự giúp đỡ của người Mỹ bắt Lý phải ra tham dự tranh cử, mưu cướp lấy chiếc ghế Phó tổng thống. Sau khi trải qua một cuộc bàn tính vụng trộm, quả nhiên Lý Tông Nhân đã trúng cử Phó tổng thống. Tưởng nhìn thấy chủ trương của mình bị trở ngại, Lý Tông Nhân thì vênh vênh tự đắc, bỗng bừng bừng nổi giận chuẩn bị chơi cho Lý Tông Nhân một vố ở trong buổi lễ nhậm chức. Trước lễ nhậm chức một hôm, vị Phó tổng thống mặt đầy hí hửng tới thỉnh thị Tổng thống Tưởng Giới Thạch, hỏi han Tưởng xem tham dự buổi lễ thì mặc quần áo nào. Trước tiên Tưởng bảo Lý ăn mặc âu phục, sau lại thông tri cho Lý ăn mặc quân phục, làm cho Lý không còn hiểu ra sao, đành cứ phải làm theo. Kết quả, ngày hôm sau, khi bắt đầu buổi lễ, Tổng thống Tưởng Giới Thạch mặc áo bào dài, tỏ ra tư thái của bậc trưởng giả, còn Phó tổng thống Lý Tông Nhân thì mặc quân phục là nếp thẳng đứng, từng bước cứ đi theo đằng sau lưng Tưởng Giới Thạch, tỏ ra vô cùng quá khép nép, giống hệt như tên lính cận vệ ở bên cạnh Tổng thống vậy. Nói thực ra thì lão Tưởng giở ngón chơi này ra có thể nói là mưu già tính kỹ. Thân mặc áo choàng dài, trang điểm mình thành một vị trưởng giả nho nhã, đôn hậu mang truyền thống Trung Quốc. Điều này đối với dư luận trong và ngoài nước cùng với tâm lý dân chúng đều tương đối dễ dàng tiếp nhận. Còn Lý Tông Nhân thân mặc quân phục, hoàn toàn không phù hợp với không khí lễ nhậm chức Tổng thống. Điều này trên thực tế có ý ngầm nói rằng, chức vụ Phó tổng thống này sở dĩ giành được là do dựa vào báng súng của Quảng Tây. ở trước mặt đông đảo quần chúng như thế này , Lý Tông Nhân vô cùng bực bội, rõ ràng Tưởng Giới Thạch lấy địa vị Nguyên thủ tôn kính cuả một nước để diễu cợt Lý, làm cho Lý càng giận dữ đành phải câm lặng như ngậm hoàng liên.Nghĩ lại năm xưa, khi Tưởng Giới Thạch theo đuổi cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn, cũng đã từng nói dõng dạc đầy lý lẽ phản đối chuyên chế chủ nghĩa và sùng bái cá nhân. Đương nhiên, chỉ sau một thời gian, khi mình cũng trở thànhlãnh tụ thì Tưởng đã ra sao ? Chẳng những đã tiến hành mạnh mẽ kiểu chuyên chế độc tài, duy ngã độc tôn; hơn thế, trong cách ăn ở đi đứng cùng với nói năng cử chỉ đều cố ý b iểu hiện phong độ và địa vị lãnh tụ của mình, thể hiện ra sự tôn nghiêm của Nguyên thủ. Bệnh Nghiện lãnh tụ của Tưởng có thể nói thật là lớn lao !



    Phần 8 - Chương 6: Tác phong chính khách : nuốt lời lật lọng


    Vào những năm 80, ở Đài Loan từng xuất bản cuốn sách Tính cách chính trị của cha con Tưởng Giới Thạch trong cuốn sách đó đã bình giá Tưởng Giới Thạch như sau:Ông Tưởng dựa vào vũ lực và quân đội, đã trở thành kẻ mạnh ở trong Đảng. Lúc đó, các trọng thần nguyên lão Quốc dân đảng có rất nhiều, tả có Uông Tinh Vệ, hữu có Hồ Hán Dân, nói về danh tiếng và sự từng trải, ông Tưởng đều kém họ rất xa. Trong Chính phủ Quốc dân thời kỳ đầu, địa vị của ông Tưởng cũng không cao, thế nhưng theo đà cuộc đấu tranh ác liệt giữa Bắc phạt và trong Đảng, địa vị của ông Tưởng đã dần dần được nâng cao. Ông là tư lệnh quân đội Quốc dân đảng, là hiệu trưởng trường quân đội, trong những cục diện hỗn loạn đó, vũ lực là hậu thuẫn lớn nhất, học sinh Hoàng Phố là đồng vốn để ông đánh dẹp thiên hạ.Đó là một thời đại lớn bão to sóng cả, thời thế tạo anh hùng. Thời kỳ đầu, các nguyên lão trong Quốc dân đảng đều đánh giá thấp Tưởng Giới Thạch, cho rằng ông ta chẳng qua chỉ là một kẻ vũ phu không có học vấn cao sâu, chẳng có giáo dưỡng tốt đẹp, không có khẩu khiếu tài năng đặc biệt, chẳng có năng lực chính trị. Về sau, ông ta ngoài việc phát hiện ra sự gan dạ và hiểu biết của mình về mặt quân sự ra, trên mặt chính trị cũng đã bắt đầu biểu hiện ra năng lực về phương diện tổ chức mưu lược. Tức thì những đối thủ chính trị của ông đã phê phán ông nhiều mưu kế, thạo quyền thuật, ngấm ngầm độc tài. Bất luận như thế nào, trong dòng thác lũ lèo lá lật lọng của quân nhân và chính khách, ông Tưởng vẫn có hạt nhân riêng của mình, đặt sách lược kế hoạch mở rộng thế lực của mình. Sau sự biến Tây An nguy nan giữa sống và chết, ông Tưởng đã biến thành lãnh tụ quốc gia được triều đình và dân chúng công nhận.Cuốn sách này tuy không thiếu những ngôn từ đẹp đẽ, thế nhưng trong ngôn ngữ cũng đã ít hoặc nhiều nói ra những điểm già dơ thâm hiểm của những trò chơi quyền thuật trong đấu tranh chính trị của Tưởng Giới Thạch. Chẳng trách một số võ nhân và chính khách trong Quốc dân đảng, sau khi đấu phép với Tưởng Giới Thạch bị thất bại đã xôn xao than vãn rằng: Tưởng Giới Thạch là một kẻ thành công hoàn hảo có tất cả những thủ đoạn quyền thuật của chính khách và quân phiệt từ thời Dân quốc tới nay.Vậy thì, những thuật quyền mưu mà Tưởng Giới Thạch đánh bại kẻ thù chính trị và đối thủ của mình là những gì ? Kỳ thực, mục đích quan trọng của thuật quyền mưu chính là một trong những đặc trưng điển hình trong tính cách hành vi của Tưởng, đó là: gian ngoa xảo xá, nuốt lời lật lọng, không giữ chữ tín.Cuối năm 1926, Tưởng Giới Thạch bắc phạt tiến sâu vào biên giới tỉnh Giang Tây, đã bắt đầu dự tính xây dựng cơ đồ khác ở Trong Quốc dân đảng, lập nên chính quyền của riêng mình. Để lôi kéo Nhật Bản, thoát khỏi Liên Xô, trong tháng 11, Tưởng đã cử Đới Qúy Đào sang Nhật, tìm cầu sự ủng hộ của Nhật Bản đối với chính quyền Tưởng. Trải qua nhiều lần mật đàm, giữa Tưởng và Thiên Hoàng đã thỏa thuận một hiệp nghị bí mật : Sau khi chiếm lĩnh vùng đông nam Trung Quốc, Tưởng bắt đầu Thanh cộng ở trong Quốc dân đảng, sau đó tiếp tục Bắc phạt, thống nhất khu vực phía nam trường thành. Còn Thiên Hoàng, sẽ tiến hành ủng hộ hành động này của Tưởng Giới Thạch, với điều kiện trao đổi là : Nhật Bản được hưởng quyền khống chế đối với các vùng đất phía bắc Trường thành, Đông bắc Mông Cổ v.v. Thế nhưng, họ Tưởng sau khi xây dựng chính quyền, đã không đem Đông Bắc chắp tay trao cho Nhật Bản. Hơn thế, Trương Học Lương trẻ khỏe yêu nước, cũng không chịu nhận sự sắp đặt của Nhật, cuối cùng ngày 29 tháng 12 năm 1928 đã quy phục Chính phủ quốc dân. Sau khi Đông Bắc đổi cờ, Nhật Bản yêu cầu thực thi mật ước, Tưởng liền mời đoàn đại biểu phía Nhật đem bản mật ước tới để đàm phán. Tháng 10 năm 1929, đại sứ Nhật đem mật ước tới Hoa đàm phán, Tưởng sai người chuốc rượu cho say mèm ở trên xe sau đó lấy cắp bản mật ước tiêu hủy. Sứ Nhật bị mất mật ước không còn cách gì để bàn giao nữa, sau khi về nước đã phải tự sát, còn Thiên Hoàng Nhật Bản có miệng cũng khó nói ra lời. Sau sự biến 18-9, thiếu tướng đại đặc vụ Nhật Bản Doihara Futa đã phẫn nộ bất bình nói Tưởng là kẻ qúa vô tín nghĩa với Lý Tông Nhân. Khi Lý hỏi tường tận sự việc, Doihara lại giữ kín miệng bình, giấu kín rất chặt. Kỳ thực cái gọi là bản mật ước chẳng qua chỉ là một cái kế biến ứng của Tưởng Giới Thạch mà thôi. Hễ Tưởng ngồi được vững vàng trên giang sơn rồi thì sự việc đó còn có ý nghĩa gì nữa. Lẽ dĩ nhiên, người viết cuốn sách này tại đây, không đứng trên lập trường của đế quốc Nhật Bản để có ý khiển trách Tưởng không giữ đến tín nghĩa, mà chỉ lấy sự việc này để chứng minh điều lật lọng, không giữ chữ tín của Tưởng Giới Thạch mà thôi.Khảo sát đời sống chính trị thời kỳ đầu của Tưởng Giới Thạch, người ta không khó phát hiện, sự tiến vọt mau chóng về địa vị trong Quốc dân đảng của Tưởng có liên quan tới lập trường tả khuynh của ông ta. Năm 1924, Quốc dân đảng triệu tập Đại hội đại biểu trong toàn quốc lần thứ nhất, Tôn Trung Sơn thực hành ba chính sách lớn Liên Nga, Liên Cộng, phù trợ công nông, được sự giúp đỡ của những người Cộng sản, hình thế cách mạng được phát triển rất rầm rộ. Lúc này, trong tâm Tưởng Giới Thạch hiểu rõ, nếu muốn giành được sự nể trọng của các lãnh tụ Quốc dân đảng như Tôn Trung Sơn, Liêu Xung Khải v.v. thì cần phải thể hiện tả một chút. Do đó, Tưởng đã lợi dụng địa vị hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, nói rùm beng về cái gọi là bắt chước Liên xô và tán đồng với ngôn luận của Đảng Cộng Sản. Ngày 9 tháng 4 năm 1925, sau cuộc Đông chinh lần thứ nhất, Tưởng Giới Thạch đã huấn thị đối với các học viên, nói đại nào là chúng ta muốn Đảng thành công, chủ nghĩa thực hiện, nhất định phải bắt chước biện pháp của Đảng cộng sản nước Nga, mới có thể khiến cho mọi người biết được trách nhiệm và bổn phận làm đảng viên. Ngày 13 tháng 9 cùng năm, trên Đại hội bầu cử ẹy ban chấp hành khóa 3 Đảng bộ đặc biệt của trường quân sự Hoàng Phố, Tưởng nhằm thẳng vào tình hình quốc cộng hợp tác lúc đó,nói : Chúng ta cần phải hiểu rõ khẩu hiệu Chống Cộng sản này là do bọn đế quốc dùng để làm trúng thương chúng ta. Nếu chúng ta cũng đề xướng theo khẩu hiệu chống cộng sản này, điều đó chẳng phải là đã trúng phải độc kế của bọn đế quốc hay sao ? ... Thủ tướng dung nạp cộng sản gia nhập Đảng ta, là muốn đoàn kết những phần tử cách mạng. Nếu chúng ta phản đối chủ trương này, thì chính là muốn giải tán đoàn thể cách mạng, há chẳng phải là kẻ có tội với Đảng cách mạng hay sao? ... ý nghĩ của cá nhân tôi, Quốc dân đảng chúng ta, hiện tại chỉ có phái tả và phái hữu, không thể có cộng sản Đảng và phi cộng sản Đảng, càng không thể có Quốc dân đảng và Cộng sản Đảng. Nếu những đảng viên Quốc dân đảng có loại kiến giải này, điều đó chẳng khác gì tước bỏ, làm yếu nguyên khí cách mạng của mình. Từ những ngôn luận này mà xét, Tưởng Giới Thạch qủa thật có thể gọi là phái tả ở trong Quốc dân đảng. Tưởng đã khiêm tốn thận trọng lại thân Xô, thân Cộng, cộng thêm việc chỉ huy học sinh Hoàng Phố Đông chinh, quân công hiển hách, cuối cùng đã giành được tình cảm tốt đẹp của các nhân sĩ lãnh đạo Quốc dân đảng và cố vấn Bôrôtin Liên Xô. Và thế là, cánh cửa lớn của ẹy ban Trung Ương Quốc dân đảng liền được mở rộng đón Tưởng vào tháng 1 năm 1926, Quốc dân đảng triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai. Trong hội nghị này, Tưởng Giới Thạch được bầu làm ủy viên thường vụ ẹy ban chấp hành trung ương, bước sâu vào hạt nhân lãnh đạo trung ương Quốc dân đảng.Sau khi bước vào hạt nhân lãnh đạo Trung ương Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch liền bắt đầu đả kích kẻ đối địch về chính trị, bài xích người khác cánh. Muợn hung thủ truy soát vụ án Liên Xung Khải bị đâm chết và đứng ở hậu đài, Tưởng Giới Thạch đã đuổi cút nguyên lão Quốc dân đảng Hồ Hán Dân. Ngày 20 tháng 3 năm 1926, Tưởng lại một tay nã pháo tạo ra Sự kiện hạm Trung Sơn bắt giữ Lý Chi Long, người của Cộng sản bao vây nơi ở của Đoàn cố vấn Liên xô và tiến hành hạn chế đối với những người cộng sản. Ngày 16 tháng 4, trong hội nghị liên tịch giữa Đảng bộ Trung ương với chính phủ Quốc dân, Tưởng Giới Thạch đã được bầu làm Chủ tịch ủy bản quân sự chính phủ quốc dân. Ngày 16 tháng 5, trong Hội nghị lần thứ hai ẹy ban chấp hành trung ương mà Tưởng Giới Thạch làm Chủ tịch lại thông qua Dự án chỉnh lý Đảng vụ, dấn sâu thêm một bước tiến hành bài xích và hạn chế đối với những người cộng sản. Trong thời gian chưa đầy một năm. Tưởng Giới Thạch đồng thời với việc cao hô khẩu hiệu Cách mạng đã đuổi cút các nguyên lão Quốc dân đảng như Hồ Hán Dân, Uông Tinh Vệ v.v. đối với Đảng cộng sản thì từng bước o ép chặt chẽ, hạn chế ở mọi nơi, cuối cùng đã đạt được mục đích bản thân mình độc chiếm đại quyền. Đối với trò bịp nuốt lời lật lọng, sớm Tần tối Sở của Tưởng Giới Thạch, Lý Tông Nhân lão đối thủ của Tưởng đã nhìn rất rõ ràng chính xác: thủ pháp lúc tả, lúc hữu như vậy, không phải là do thay đổi quan điểm chính trị, trên thực tế, đây chỉ là quyền thuật của cá nhân ông ta, với tư thái thực thực hư hư, bài trừ kẻ khác cánh, để đạt tới mục đích độc tài của cá nhân ông ta ![1].Cuộc chính biến 12 - 4 vào tháng 4 năm 1927, chính là màn biểu diễn kiệt suất nhất loại chính trị lưu manh chống cộng này của Tưởng Giới Thạch. Hạ tuần tháng 3 năm 1927 Tưởng Giới Thạch đang ở Thượng Hải rùm beng ầm ỹ trù liệu kế hoạch Thanh cộng nhưng ngoài mặt lại viết hàng loạt văn chương thân cộng.Đối mặt với nguy cơ chưa từng thấy của Quốc Cộng hợp tác, sự tấn công nguy hiểm của phải hữu Quốc dân đảng, Tưởng đã phát biểu bài nói chuyện trên báo chí cho rằng Giữa hai phái tả hữu tuy hơi có khác biệt nhau một chút trên mặt chính kiến, nhưng vẫn làm việc vì một mục đích đều quy về phúc lợi của Đảng quốc. Khi các đại biểu công nhân Thượng Hải yêu cầu Tưởng Giới Thạch làm rõ tin tức đối với việc quân đội tịch thu súng của đội trật tự công nhân, Tưởng biểu lộ: Đội trật tự vốn nên có vũ trang, tuyệt đối không có lí tịch thu khí giới, nếu có người nào có ý muốn tước khí giới, tôi có thể bảo đảm không được tước một khẩu súng nào. (Thời báo ngày 9 tháng 4 năm 1927). Ngày mồng 6 tháng 4 Tưởng Giới Thạch còn đặc biệt cử đội quân nhạc đưa tới cho đội trật tự công nhâm một tấm biển đề Cùng chung phấn đấu, để biểu thị ý kính trọng đối với đội trật tự của công nhân Thượng Hải. Thế nhưng, năm ngày sau, Tưởng liền phát động cuộc chính biến phản cách mạng. Trong cuộc tàn sát Thanh Đảng đẫm máu, Tưởng Giới Thạch nói với cấp dưới là Dương Hổ, Trần Quân: Phàm kẻ nào có thể giết thì nhất loạt giết chết hết, thà có thể giết sai, chứ không được thả sai.Thủ đoạn úp tay thành mưa, ngửa tay thành gió này của Tưởng Giới Thạch, chẳng những dùng để đối phó với Đảng cộng sản mà còn dùng để đối phó với phái thực lực địa phương phản đối bản thân Tưởng nữa. Tháng 8 năm 1928, sau khi Tưởng Giới Thạch ra nhậm chức chủ tịch Chính phủ quốc dân Nam Kinh, để tăng cường quyền lực cá nhân Tưởng đã tước bỏ phụ thuộc cắt giảm quân số. Trong việc cắt giảm quân số, do vì thân sơ chênh lệch qúa lớn, rất không công bằng đã dẫn tới một số thực lực phái địa phương chống lại Tưởng. Tháng 3 năm 1929, bộ tướng Lý Tông Nhân thuộc Quảng Tây trước hết gọi diện chống lại Tưởng, thế là cuộc chiến tranh Tưởng Quế bùng nổ. Đối với loại chiến tranh này, Tưởng Giới Thạch quen sử dụng thủ pháp viễn giao cận công và mua chuộc. Khi chiến tranh bắt đầu, Tưởng đã lừa dối được Phùng Ngọc Tường tham gia chống lại Quế (Quảng tây), liền hứa cho Phùng các địa bàn Hồ Bắc, Sơn Đông v.v. để thúc đẩy Phùng tham chiến. Đồng thời, Tưởng lại dùng vàng bạc mua chuộc các tướng lĩnh quan trọng trong quân đội Quế hệ để phản chiến, nhanh chóng đập tan được quân đội Quế hệ. Sau sự việc, Tưởng Giới Thạch lại lấy danh nghĩa quân đội Phùng Ngọc Tường chưa tham chiến không thực hiện hiệp ước trước. Phùng bị qủa lừa vô cùng bực tức đã chửi rủa Tưởng Giới Thạch là lời nói không giữ chữ tín, rồi chiếm cứ Tây Bắc, chuẩn bị chống lại Tưởng. Giữa lúc Phùng Tưởng đang tuốt kiếm giương cung, các bộ tướng của Phùng là Hàn Phúc Củ, Thạch Hữu Tam, Mã Hồng Qùy v.v. đã bị Tưởng dùng tiền mua chuộc đã đánh điện chống Phùng ủng hộ Tưởng, làm cho Phùng Ngọc Tường không còn biết xoay sở ra sao. Sau đó, Tưởng Giới Thạch lại hạ lệnh tấn công đánh mạnh Phùng Ngọc Tường. Đồng thời với việc thực thi đả kích, Tưởng lại đem chức vụ sĩ quan tư lệnh trưởng biên phòng Tây Bắc của Phùng ủy nhiệm cho Diêm Tích Sơn, dùng nó để ly gián quan hệ giữa Phùng và Diêm. Diêm Tích Sơn thấy chức quan là trợn tròn mắt vội vàng muốn thu thập biên chế quân đội Phùng, lập tức bắt giữ Phùng Ngọc Tường trong chuyến đi thăm Tấn (Sơn tây). Tưởng Giới Thạch đã dùng thủ đoạn lối kéo và chia rẽ như vậy ở giữa các lộ quân phiệt, hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa các phe phái và tâm lý tham tiền tài, quan chức và địa bàn của chúng, dùng quan lộc dụ dỗ, cuối cùng đánh phá lẫn nhau, Tưởng đã chia ra để cai trị. Tới lúc đó bọn Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường, Lý Tông Nhân v.v...mới như bừng tỉnh cơn ác mộng. Những ngân phiếu khống mà Tưởng Giới Thạch lễ tạ cho họ cũng như vậy, chẳng đổi ra được tiền mặt, còn họ thì lại trở thành vật ở trong túi Tưởng Giới Thạch.Trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, trong thời điểm quan trọng mấu chốt giữa sự sinh tử tồn vong của dân tộc Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch thân làm Lãnh tụ quốc gia, trong việc lãnh đạo quốc dân kháng chiến, cũng không quên che đậy sai trái, chơi trò quyền thuật. Tháng 5 năm 1938, sau khi Từ Châu bị hãm, quân đội Quốc dân đảng hốt hoảng rút lui, thất bại như núi đổ, bộ thống soái quân Quốc dân đảng đã không còn cách gì tổ chức phòng ngự có hiệu quả khu vựcTrung nguyên. Đối mặt với việc quân Nhật có khả năng men theo đường Lũng Hải tiến về phía tây, bao vây Vũ Hán. Với nguy hiểm của việc quân Nhật tập hợp ở Đông Bắc, Tưởng Giới Thạch vội vàng quyết định cho nổ mìn phá vỡ đê Hoàng Hà ở cửa Hoa viên Hoa Nam, nước Hoàng Hà đổ xuống sẽ làm trở ngại tới việc Tây tiến của quân Nhật ở Từ Châu. Ngày 9 tháng 6 quân Quốc dân đảng nổ mìn phá đê ở cửa Hoa viên Hoàng Hà khiến cho nước sông cuồn cuộn phá đê mà đổ ra, nhất thời nước lụt mênh mông, ven bờ sông Hoàng bỗng chốc biến thành ngập lụt tới ngàn dặm, tạo thành cảnh mấy trăm vạn mẫu hoa mầu bị phá hủy, mấy chục vạn dân chúng sống cảnh lưu lạc không còn chỗ ở. Đối mặt với điều đại nghiệt như vậy do bản thân mình gây ra, Tưởng Giới Thạch không dám thừa nhận trách nhiệm, liền đem sự việc này đổ lên đầu quân Nhật, lu loa lên rằng vỡ đê ở cửa Hoa Viên là do giặc Nhật gây ra, thật là hoang đường quá đáng. Quân Nhật nôn nóng muốn cướp lấy Vũ Hán, vì sao lại tháo nước làm ngập đường đi của mình. Trên thực tế, lần này thủy tai mà tự tay lão Tưởng đạo diễn vẫn chưa đạt tới mục đích cản trở việc Tây Tiến của kẻ địch trên mặt chiến lược. Sau 4 tháng, Vũ Hán mới bị chiếm đóng.Sau sự kiện phóng thủy ở cửa Hoa Viên không lâu, Tưởng Giới Thạch lại tiến hành một lần biểu diễn phóng hỏa rất ác liệt. Sau khi Vũ Hán thất thủ, Tưởng thấy việc Phóng thủy không linh, liền lại tâm sinh kế hiểm, nghĩ ra một chính sách tiêu thổ kháng chiến. Ngày 12 tháng 11 Tưởng Giới Thạch hạ lệnh cho Lâm Uý chủ nhiệm phụ trách hầu cận gọi điện thoại cho Chủ tịch Chính phủ tỉnh Hồ Nam, yêu cầu nhà đương cục Hồ Nam thực hiện chính sách tiêu thổ, đốt cháy Trường Sa. Sau đó, Trường sa đã biến thành đống tro tàn trong những ngọn lửa khổng lồ cháy rừng rực. Sau khi Trường Sa bị thiêu hủy, quân Nhật vẫn chưa chiếm được thành này, còn thị dân vùng đó thì thây chết ngổn ngang, tổn thất thảm hại nặng nề. Sự việc này đã dẫn tới cả triều đình và dân chúng kinh sợ, dân oán ngút trời. Tưởng Giới Thạch lại vội vã phủ nhận việc mình hạ mệnh lệnh, rồi đem viên tư lệnh cảnh vệ Trường Sa là Phong Đễ làm con cừu thế tội đẩy ra bắn chết cho qua chuyện.Các văn thần võ tướng dưới trướng Tưởng Giới Thạch, đối với những thủ đoạn theo kiểu phản phúc vô thường, nói lời không giữ chữ tín, lật lọng tráo trở, giá hoạ cho người khác của ông ta không ai là không giật mình kinh sợ. Tạm thời không nói tới những nhân vật nhỏ bé không đáng đếm xỉa như kiểu Phong Đễ tư lệnh cảnh vệ Trường Sa thường làm những con ma chết oan uổng cho Tưởng, mà ngay cả đến những đại sứ được phong biên cương của chính phủ quốc dân, Lý Tông Nhân đã từng kết nghĩa anh em Kim Lan với Tưởng và Phùng Ngọc Tường, Trương Học Lương từng vái làm huynh đệ cũng thường bị Tưởng chơi xỏ. Họ tiếp xúc với Tưởng, cũng đều có cảm giác phải thận trọng như bước trên lớp băng mỏng, như ngồi trên thảm kim chơi với ông ta như chơi với hổ. Sau sự biến ngày 18-9 Trương Học Lương nhét ở trong bọc bức mật điện bất để kháng của Tưởng, cõng trên lưng mình một tên bị chửi là Tướng quân bất để kháng, chịu tội thay cho Tưởng, cuối cùng đã Vô sinh oanh liệt, thân trong tù tội, uổng phí cả cuộc đời. Còn Phùng Ngọc Tường được Tưởng tôn làm Đại Ca, cuối cùng đã phải đập bàn đứng dậy chửi thẳng vào cái giả dối, gian trá nói lời không giữ tín nghĩa của Tưởng Giới Thạch. Thà ta chịu phụ người trong thiên hạ, chứ không chịu để cho người trong thiên hạ phụ ta. Đây chính là bức vẽ truyền thần chân thực về tính cách lưu manh trong cuộc đấu tranh chính trị của Tưởng Giới Thạch.
    ------------------------
    [1] Lý Nhân Tông hồi ức lục quyển thượng, trang 426
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 1:05 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 8 - Chương 7: Bụng dạ hẹp hòi, nhỏ nhen tin tiện và giận dữ tất sẽ trả thù



    Những người đã lật mở xem qua những ghi chép hồi ức do một số nhân vật cao cấp vốn ở trong chính quyền Quốc dân đảng viết ra, đều không khó phát hiện một đặc điểm chung trong số sách này, đó là: Đối với tính cách trắng trợn đa nghi, bụng dạ hẹp hòi, giận dữ tất sẽ trả thù của Tưởng Giới Thạch có cảm thán khá sâu sắc. Chẳng riêng gì Tưởng Giới Thạch như vậy, mà mọi tên độc tài khác đều có bệnh chung như vậy cả, chỉ có điều là mức độ không giống nhau mà thôi.Nhìn từ trên mặt lý luận, các nhà tâm lý học coi những đặc điểm hành vi có khuynh hướng mang tính chất nhất trí trong những tình cảnh khác nhau của con người gọi là nhân cách, tức là tổng cộng những đặc trưng tính cách, năng lực và khí chất v.v..của một người. Nó do rất nhiều đặc điểm tâm lý cá biệt của con người tức là đặc chất tổ thành. Những đặc chất này ở vào những tổ hợp khác nhau trong nhân cách cá thể đã cấu thành những cá tính khác biệt giữa người và người. Đặc chất có sự phân biệt ra đặc chất bề ngoài và đặc chất căn nguyên. Đặc chất căn nguyên là nguồn gốc cuối cùng dẫn tới hành vi của con người. Nó được bao quát ở rất nhiều mặt, tâm dạ hẹp hòi và tính hoài nghi là một trong số đó. Những biệt loại khác nhau của đặc chất căn nguyên mà mỗi người đều có, thế nhưng mức độ lớn nhỏ mạnh yếu có khác nhau. Nếu dùng tính điểm cao thấp để so sánh thì đặc chất căn nguyên của tính hoài nghi được giá trị điểm càng thấp, thì tính tình của con người càng hiền lành dễ gần, biểu hiện ra đặc trưng dễ hòa thuận gần gũi với mọi người. Người được giá trị điểm cao thì ngược lại, luôn luôn có tâm dạ hẹp hòi, đố kỵ đa nghi, ngang ngạnh bướng bỉnh, khó tin tưởng được bất kỳ ai. Trên mặt tâm lý học thống kê, thì Tưởng Giới Thạch thuộc vào loại người có giá trị điểm tương đối cao.Trong đời sống chính trị suốt đời Tưởng Giới Thạch, những đặc trưng tính cách hẹp hòi, đa nghi, trước tiên được biểu hiện ở trên vấn đề dùng người. Ngay từ thời kỳ ở Hoàng Phố, loại bẩm tính này của Tưởng đã lộ ra đầu mối. Năm 1943, trong bài viết Quan hệ đối với Quốc dân đảng từ năm 1924 đến năm 1926, đối với phương pháp dùng người của Tưởng, Chu Ân Lai đã có sự tổng kết quan trọng. Chu Ân Lai đã chỉ ra: Lúc đó trường quân sự Hoàng Phố có gần 600 học sinh, đại bộ phận là thanh niên tả khuynh tới từ những hoạt động bí mật trong tổ chức Đảng các tỉnh.Trong số đó đảng viên, đoàn viên chiếm tới năm sáu chục người, chiếm một phần mười số học sinh. Đối với số người này Tưởng Giới Thạch rất đề phòng và hạn chế. Tưởng đã để cho Vương Bá Linh, một con người rất vô liêm sỉ phụ trách huấn luyện, giáo dục, năng lực chính của một con người để Tưởng sử dụng đó là nô tài. Đối với Đặng Diễn Đạt có tính ương bướng lại không muốn làm nô tài, thì Tưởng không dùng. Đối với Hà ứng Khâm, con người này là nô tài thứ hai, đã được Vương Bá Linh giới thiệu thì Tưởng vô cùng tin tưởng. Các đội trưởng trong trường quân sự Hoàng Phố đều là người thân tín của Tưởng. Có một lần tôi cử mấy người phái tả làm đội trưởng, Tưởng tỏ ra không bằng lòng đã hủy bỏ sự ủy nhiệm đó. Phương pháp dùng người của Tưởng là tạo ra mâu thuẫn, lợi dụng mâu thuẫn, thao túng mâu thuẫn; dùng một tên phản động quản lý một người tiến bộ, cử một tên chống phái tả kiềm chế một người phái tả, dùng một tên chống cộng kiềm chế những người tin tưởng Đảng Cộng Sản.Mọi người có thể sẽ cảm thấy, đó là thời kỳ đặc biệt Quốc Cộng hợp tác, trên những cơ sở khác nhau về đảng phái và tín ngưỡng chủ nghĩa, phải dùng tới hạ sách này cũng là điều khả dĩ. Kỳ thực, cách nghĩ như thế này là sai lầm lớn trên vấn đề dùng người, những trò láu cá này mà Tưởng Giới Thạch làm, vô luận là cộng sản Đảng hay Quốc dân đảng đều không có gì khác biệt. Ngày 11 tháng 1 năm 1938, Tưởng Giới Thạch triệu tập hội nghị các tướng lĩnh phương Bắc tại Khai Phong Hà Nam, rồi trong hội nghị đã lừa bắt Hàn Phúc Củ, chủ tịch chính phủ Sơn Đông của Quốc dân đảng, phó tư lệnh chiến khu 5 kiêm tổng tư lệnh tập đoàn quân thứ 3. Sau nửa tháng, Hàn Phúc Củ đã bị giết ở Hán Khẩu. Lý do công khai xử quyết Hàn Phúc Củ là: Hàn là Trưởng quan hành chính tối cao địa phương và là tướng lĩnh cao cấp trong quân đội, đứng trước sự tấn công của quân Nhật, không suy nghĩ cách kháng chiến giữ đất, chỉ chăm chú bảo tồn thực lực, tự tiện rút lui. Lẽ dĩ nhiên, Hàn là chủ tịch một tỉnh và tư lệnh tập đoàn quân, không lo lắng tới sự an nguy của dân tộc, vì để bảo tồn thực lực, đã dâng cả đất nước rộng lớn cho giặc Nhật, theo lý nên phải trừng trị. Thế nhưng, lúc đó đứng trước quân Nhật, các tướng lĩnh cao cấp Quốc dân đảng chưa đánh đã tan đâu chỉ có một mình Hàn Phúc Củ. Lưu Ký, Thang Ân Bá v.v..đều là những tay cừ về chạy trốn cả. Chính là đồng thời với lúc Tưởng Giới Thạch bắt giam Hàn Phúc Củ, Lưu Kỳ cũng vừa bỏ mất Bảo Định, Thạch Gia Trang, bỏ chạy xuống phía nam, giống như chim sợ cung nỏ vậy. Thế mà những tướng lĩnh đích hệ của Tưởng lại không bị xử quyết, trái lại còn được phúc tinh cao chiếu, liên tục thăng quan. Kỳ thực, nguyên nhân chủ yếu nhất để Tưởng quyết tâm xử tử Hàn Phúc Củ chính là: Con người này không phải là đích hệ của Tưởng, suốt thời gian dài ngang tàng không thuần phục, từng nhiều lần liên hợp với các phe phái thực lực địa phương khác dự mưu lật đổ Tưởng. Do đó, Tưởng Giới Thạch công khai trả thù riêng đem Hàn ra khai đao xử quyết.Tưởng Giới Thạch đối với võ tướng như vậy, đối với văn thần cũng chẳng lệ ngoại. Ngày 30 tháng 10 năm 1952 là sinh nhật Tưởng Giới Thạch 65 tuổi. Ngày hôm đó, vợ chồng Tưởng Giới Thạch rời Đài Bắc tới biệt thự Thảo Sơn ở ngoại ô tị thọ, đặc biệt mời vợ chồng Chủ tịch tỉnh Đài Loan là Ngô Quốc Chinh lên núi ăn bữa cơm tối, còn thân thiết lưu giữ Ngô qua đêm ở trên núi. Ngày hôm sau, vợ chồng Ngô Quốc Chinh cáo từ ra về. Ngồi xe trên đường trở về, do một nguyên nhân ngẫu nhiên, người lái xe đột nhiên phát hiện trong 4 chiếc bánh xe thì có tới 3 chiếc bị tháo hết đinh ốc, bỗng hoảng sợ mặt tái mét. Nếu không phát hiện ra sớm, khẳng định những người ngồi xe khó tránh khỏi chết oan. Lúc này, Ngô Quốc Chinh mới sực tỉnh giấc mộng, hiểu ra rẳng Tưởng Giới Thạch muốn đòi mạng mình! Từ trước đến nay, Ngô Quốc Chinh được Tưởng trọng dụng, là một trọng thần tâm phúc, từng làm phó bộ trưởng bộ Trung tuyền Quốc dân đảng, thị trưởng Hán Khẩu, Trùng Khánh và Thượng Hải. Sau khi Quốc dân đảng chạy ra Đài Loan, Lão Tưởng lại đem quyền quản lý một tỉnh duy nhất còn lại của chính phủ quốc dân trao cho Ngô Quốc Chinh, có thể nhìn thấy mức độ trung thành của Ngô đối với Tưởng và sự tín nhiệm của Tưởng đối với Ngô như thế nào. Thế nhưng, những biểu hiện của Ngô Quốc Chinh không phải là Ngu Trung - trung thành ngu xuẩn theo kiểu vâng dạ, mà là sự trung thành kiểm thảo thất bại, khuyên can thẳng thắn, những mong đền đáp. Đặc biệt là sau khi nhận chức chủ tịch tỉnh Đài Loan, Ngô cậy mình được sủng ái nên đã kiêu ngạo, đánh giá cao tín nhiệm của Tưởng đối với mình, nhiều lần phê phán nền chính trị của Quốc dân đảng, chủ trương thực thi nền chính trị dân chủ cận đại, thậm chí ngay cả đến sự việc của đại thái tử cũng đưa lời phê bình tới Tưởng Giới Thạch. Đợi đến Ngô Quốc Chinh tỉnh lại, giác ngộ được Trái tim yêu quyền hơn yêu nước, yêu con hơn yêu dân của Tưởng Giới Thạch, thì họng súng đã nhằm trúng sau gáy của mình rồi. Tức thì, ông ta có phúc đã phát hiện ra trong 4 bánh xe đã có tới 3 bánh bị tháo hết đinh ốc ra rồi. Thế nhưng, Ngô cũng không phải là loại người bình thường, vị cao thủ chính trị này được bồi dưỡng từ trường đại học Princeton ra đã không hé ră g nói nửa lời, mà chỉ kiên quyết từ chức Chủ tịch tỉnh rồi ngầm hoạt động với phía Mỹ để mời ông ta sang Mỹ dạy học. Cuối cùng, qua bao trắc trở, Ngô phải đem cha già và con trai ra làm con tin, Ngô mới được phê chuẩn sang Mỹ. Mãi tới tháng năm 1954, Ngô Quốc Chinh mới đem lửa hận trong lồng ngực giận dữ bộc lộ ra ngoài.Trên vấn đề dùng binh, Tưởng Giới Thạch cũng đã luôn luôn đề phòng đối với quân đội không phải là đích hệ, từng bước làm suy yếu quân đội đó đi. Trong cuộc chiến tranh chống cộng trường kỳ, Tưởng đã đưa những đạo quân táp nham trong quân đội Quốc dân đảng đẩy ra tác chiến ngoài mặt trận, mượn tay cộng sản Đảng tiêu diệt những đạo quân không phải là đích hệ này đi. Cuối cùng trong tình hình cả hai cùng bại cùng bị thương, Tưởng ngồi giữa thu lợi. Tháng 9 năm 1935, Trương Học Lương chấp hành chính sách Trước yên trong rồi sau mới cướp ngoài, đã tích cực tiến công Hồng quân công nông Trung Quốc, đã Trường chinh tới Tây Bắc. Hạ tuần tháng 11, trận đánh ở thị trấn Trực La hồng quân đã tiêu diệt sư đoàn 109 quân chủ lực của Trương, giáng cho quân Đông Bắc một đòn đả kích trầm trọng. Vì bán mình cho Tưởng mà bị tổn thất nặng nề như vậy, Trương Học Lương không những không được sự biểu dương của Tưởng mà còn bị Tưởng trừng phạt nghiêm khắc: Không cho phép quân Đông Bắc bổ sung thực lực, xây dựng lại phân hiệu, khiến cho Trương bị tiêu diệt một sư thì thiếu mất một sư, cuối cùng đã trở thành tư lệnh không có quân. Trương Học Lương đã nhìn thấu qủy kế này của Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã tỉnh ngộ, với ảnh hưởng của tư tưởng yêu nước chống Nhật, cuối cùng đã liên hợp với Dương Hổ Thành và hồng quân đạt được hiệp nghị bí mật đình chỉ nội chiến, nhất trí kháng Nhật. Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch không dễ dàng bỏ qua. Tháng 10 năm 1939, để bức bách Trương Học Lương, Dương Hổ Thành tiếp tục tác chiến với hồng quân, Tưởng Giới Thạch đã đem mấy chục vạn quân đội kéo vào Đồng Quan, sắp xếp lại hậu phương của quân Đông Bắc và quân Tây Bắc với xu thế nếu không nghe mệnh lệnh thì tước vũ khí ngay tại chỗ. Cuối cùng, đã bức Trương Học Lương, Dương Hổ Thành cùng đường hết lối, đã hợp sức với nhau phát động cuộc binh gián. Lật mở lịch sử tác chiến tiến công và dẹp yên bạo loạn của Tưởng Giới Thạch, những mánh lới quen dùng này của Tưởng khắp nơi cũng đều có cả, các tướng lĩnh quân đội không phải là đích hệ trong quân Quốc dân đảng, không ai là không căm giận đến tột độ. Trong cuộc chiến tranh cách mạng quốc nội lần thứ ba, các tướng lĩnh cao cấp quân Quốc dân đảng như Cao Thụ Huân, Tăng Trịnh Sinh, Ngô Hóa Văn v.v.. dẫn đầu cuộc khởi nghĩa chống Tưởng đều là quân đội không phải là đích hệ. Đúng là người thông minh lại bị người thông minh làm thiệt hại, tâm lý hẹp hòi và thủ đoạn không tha thứ người này của Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã rơi vào tình cảnh quần chúng phản đối, người thân xa rời, cô đơn trơ trọi.Căn cứ vào phân tích của các nhà tâm lý học, tâm lý hẹp hòi với tính cách đa nghi này của kẻ độc tài, bắt nguồn từ ý thức nguy cơ của bản thân. Tuy chúng ở vào địa vị chí tôn, nắm quyền hành chí thượng, thế nhưng không thể không đề phòng dã tâm cướp ngôi và mưu đồ phản nghịch của tầng lớp dưới. Chính là áp lực tâm lý do ý thức về nguy cơ sản sinh ra đã khiến cho bọn độc tài vì phòng ngừa đại quyền bị cướp mất nên đã bước tới cực đoan. Đối với bất kỳ ai chúng đều có ý thức đề phòng cảnh giác luôn luôn làm ra các loại hành động không thích ứng với người khác và với xã hội dưới sự thôi thúc của những nhân cách bất thường cực kỳ ghen ghét đố kỵ và tàn bạo trắng trợn. Bất kỳ những nguy hiểm tiềm tại nào đều có thể xúc động tới thần kinh mẫn cảm của chúng, Thúc giục chúng lợi dụng mọi âm mưu quyền thuật và thủ đoạn bạo lực để tiêu trừ loại nguy hiểm này.Về phương diện quyền lực duy trì bảo vê sự độc tôn của mình, loại tâm lý hẹp hòi tự tư này của Tưởng Giới Thạch rất độc ác. Suốt đời Tưởng từng đã nhiều lần từ chức, thế nhưng mỗi lần từ chức đều là một lần hành động theo sách lược dùng lùi để tiến. Bí quyết tiến thoái thành thạo của Tưởng là ở chỗ: Nắm chắc quyền hành không chịu rời bỏ.Ngày 21 tháng 1 năm 1949, trong sự khốn khó giao nhau nội ngoại, Tưởng Giới Thạch khổng thể không bắt tay vào công việc từ chức lần thứ ba. Ngày 23, Tưởng Giới Thạch về tới Khê Khẩu. Giờ phút này, nhìn về bề ngoài, Tưởng là người ở giới bình dân nhàn tản du chơi, gửi tình ở nơi núi rừng đá suối, kỳ thực, Tưởng chỉ là ở ẩn mà không phải là rút lui, dây trời điện đài ở trên nhà tây Khê Khẩu không ngừng phát sóng, bí mật thao túng thế lực tàn dư Quốc dân đảng ở một nửa Giang Nam. Dựa theo tập quán của Quốc dân đảng, mọi chính sách biện pháp của Chỉnh phủ quốc dân đều cần phải thông qua ẹy ban thường vụ trung ương, rồi mới giao cho đơn vị hành chính chấp hành. Như vậy, Tưởng Giới Thạch tuy không làm Tổng Thống nữa, thế nhưng vẫn làm Tổng tài Quốc dân đảng, chủ trì ẹy ban thường vụ Trung Ương, bao trùm lên trên Lý Tông Nhân. Tưởng chấp chính trong nhiều năm, bố trí dày đặc các môn sinh, thân tín ở trong Đảng, chính quyền, giới quân sự, cứ một Quế hệ nhỏ nhoi bắt đầu có thể khống chế toàn cục. Khi Lý Tông Nhân bước lên vũ đài, thực sự đã vui mừng hớn hở một dạo, thế nhưng không nghĩ được là mình đã bị vồ hụt, thứ mà Lý giành được chỉ là cái hàm Tổng thống hữu danh vô thực. Trước khi Tưởng Giới Thạch rời bỏ chức vụ đã nhiều lần yêu cầu Lý Tông Nhân Kế nhiệm tổng thống, thế nhưng sau khi làm xong văn bản, bên trong không hề mảy may nêu lên sự việc từ chức, rút lui, chỉ nói Lý thay quyền chức vụ tổng thống. Lý Tông Nhân lấy lý do danh bất chính thì ngôn bất thuận yêu cầu sửa đổi là kế nhiệm tổng thống, Tưởng vui vẻ bằng lòng. Thế nhưng, sau khi phát biểu văn bản, Lý Tông Nhân vẫn làm quyền tổng thống. Trong lúc bực tức, Lý hỏi tội bí thư trưởng Phủ tổng thống Ngô Trung Tín, Ngô liền bình tĩnh nói với Lý Tông Nhân:- Thưa đức ông, với tư cách người bạn cũ tôi thành thực khuyên ông, ông đã quá hiểu con người của Tưởng tiên sinh. Ông nên biết chỗ ở hiện tại của ông. ở Nam Kinh hiện tại đặc vụ hoành hành, các vệ sĩ ở bên cạnh ông đều là người của Tưởng tiên sinh. Ông còn tranh giành điều gì nữa? Trong cục diện hiện tại, bất kỳ sự việc nào cũng đều có thể phát sinh. Sự an toàn của bản thân ông, có thể là không có gì bảo đảm được! - Những điều Ngô Trung Tín nói là lời nói thực, từ hơn hai tháng trước, Tưởng Giới Thạch đã bí mật triệu tập tên trùm sỏ hệ thống quân sự Mao Nhân Phượng và Thẩm Túy, đích thân bố trí việc ám sát Lý Tông Nhân. Chỉ tại về sau cục diện biến đổi quá nhanh, Tưởng mới không thể không để cho Lý đứng ra chống đỡ cục diện nguy hiểm.Sau khi Lý Tông Nhân bước lên vũ đài hình như chỉ có tên mà không có thực, mệnh lệnh mà ông ta ký ra tựa như tờ giấy lộn. Ông ta đỏi phải thả Trương Học Lương, Dương Hổ Thành ra, bọn cấp dưới nói: Trương Học Lương đã bị áp giải tới Đài Loan, Dương Hổ Thành đã không biết cầm tù ở chỗ nào. Ông ta muốn điều động quân đội, thế nhưng quân đội đều ở trong tay Tưởng Giới Thạch, bản thân ông ta làm quyền Tổng Thống của chính phủ quốc dân, ngay cả đến việc phòng vệ Trường Giang ở ngay dưới mũi mà cũng không biết làm thế nào. Ông ta muốn chỉnh đốn tiền tệ, khống chế vật giá, thế nhưng Tưởng Giới Thạch đã đem toàn bộ tiền của, vàng bạc ở trong kho ngân hàng Trung Ương đều vận chuyển hết tới Đài Loan, làm cho vật giá tăng vọt tốc độ nhanh như bay, trăm nghề đình đốn, thị trường tiền tệ hoàn toàn đổ vỡ. Để bảo đảm quyền lực của mình, Tưởng Giới Thạch đã bỏ mặc, không quan tâm tới cục diện nguy nan của Đảng quốc, coi Hiến pháp như trò đùa của con trẻ, đối với quyền Tổng thống Lý Tông Nhân thì nơi nơi đề phòng, bước bước hạn chế, cuối cùng đã không ngần ngại dùng biện pháp rút hết củi dưới đáy nồi, làm tăng nhanh tới độ tan rã thất bại của chính quyền Quốc dân đảng ở đại lục.Tâm lý tự tư hẹp hòi này của Tưởng Giới Thạch, ngoài việc biểu hiện không dễ tha thứ cho người ra, còn biểu hiện ở chỗ đa nghi và giận dữ tất sẽ trả thù. Tháng 1 năm 1949 sau khi Tưởng Giới Thạch từ chức đi qua Hàng Châu rồi về Khê Khẩu. Để trọn vẹn tình thân của bọn địa chủ, Chủ tịch tỉnh Triết Giang Trần Nghi đã mượn khách sạn Lầu ngoại Lầu để thết tiệc tẩy trần. Trong bàn tiệc Trần Nghi nhìn thấy Tưởng bởi tâm tình phiền muộn mà không động đũa, liền khuyên mời các vị khách Cần phải nâng lên đặt xuống. Nào ngờ lời nói này đã làm tổn thương tới lòng tự tôn của Tưởng Giới Thạch rồi dẫn tới cái họa sát thân sau này. Kỳ thực, đối với quyền lực Tưởng vĩnh viễn nâng lên chứ không bao giờ chịu đặt xuống. Lời nói này đã xúc phạm tới thần kinh đa nghi dễ dàng nổi giận của Tưởng. Sau bữa ăn, Tưởng không trú ở biệt thự Trừng Lư nữa mà đến ở sân bay Kiển kiều, trên thực tế đã có sự đề phòng đối với Trần Nghi. Sau đó, Thang Ân Bá mật báo với Tưởng, nói rằng Trần Nghi đã từng lập kế hoạch khởi nghĩa đầu hàng cộng sản. Tức thì, Tưởng đã bí mật ra lệnh cho Mao Nhân Phượng bắt giữ Trần Nghi rồi giải tới Đài Loan. Tháng 6 năm 1950, Trần Nghi đã bị Tưởng Giới Thạch bắn chết. Cái chết của Trần Nghi quả thực là họa tòng khẩu xuất .Trong mấy chục năm Tưởng Giới Thạch xưng hùng trên vũ đài chính trị Quốc dân đảng, phàm những người đắc tội với Tưởng, vô luận là xuất phát từ công tâm hay là tư tâm, vô luận là đích hệ hay là phi đích hệ đều có kết cục chẳng tốt lành. Những người xuất phát từ công tâm, như Trương Học Lương, Dương Hổ Thành, vì đại nghĩa của dân tộc mà khẳng khái binh gián, kết quả là một người bị sát hại thảm hại, một người suốt đời phải cầm tù. Những người xuất phát từ tự tâm, như phái thực lực địa phương Hàn Phúc Củ, Lưu Tương v.v..hòng phất riêng một ngọn cờ đối lập với Tưởng, cuối cùng, một người bị bắn chết, một người vấp phải nguy hại ngấm ngầm. Ngô Quốc Chinh, Tôn Lập Nhân v.v..là đích hệ trong văn thần võ tướng, chỉ vì lời nói không khiêm tốn, thái độ ngạo mạn, gây trở ngại tới lợi ích của họ Tưởng, tức thì một người lưu vong ở ngoài đảo, còn một người cầm tù ở trong đảo. Lý Tông Nhân suốt đời đi lại giao hảo với Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã phải giận dữ bỏ đi, từng nhiều lần cảm khái bình luận: Tưởng tiên sinh là con người đa nghi hễ tức giận là sẽ trả thù, chỉ trong nháy mắt những người tâm phúc như chân với tay đã biến thành kẻ thù ngay !.


    Phần 8 - Chương 8: Quái thai của nền văn hóa phong kiến và tư tưởng phátxít


    Nhìn tổng quát cuộc đời của Tưởng Giới Thạch từ thói ngang ngạnh, ương bướng, cố chấp ở thời kỳ thanh niên đến thói độc đoán chuyên quyền sau khi chấp chính, đã thực thi nền thống trị phát xít; Từ kẻ vô lại ở tuổi trẻ con đến những lời nói không giữ chữ tín trong cuộc đấu tranh chính trị, đều thể hiện bản chất gian hùng; Từ việc tiêm nhiễm thói xấu trong gia đình buôn muối tới tính bẩm sinh tích trữ hàng qúy, bề ngoài Tưởng đạo mạo nghiêm trang luôn thể hiện hình tượng lãnh tụ, thế nhưng trong xương trong tủy lại thể hiện ra tính đa nghi trắng trợn và giận giữ tất sẽ báo thù. Tưởng phất cờ gióng trống rùm beng khẩu hiệu Thiên hạ là chung của Tôn Trung Sơn, thế nhưng ngấm ngầm thì trái tim tự tư nặng hơn trái tim vì việc chung. Nói tóm lại, biểu tượng của những hành vi ngang ngạnh ương bướng, cố chấp, xảo trá, tư tự, tàn ác hung bạo, coi mình là cái rốn của vũ trụ, nói lời không giữ chữ tín, hẹp hòi đa nghi v.v..đã cấu thành những đặc trưng tính cách khác với người thường của Tưởng Giới Thạch.Lý luận khoa học tâm lý cho rằng tính cách của con người là những đặc trưng tâm lý tương đối ổn định, có tác dụng hạt nhân trong cá tính. Những đặc trưng tâm lý này quyết định phương thức thái độ và hành vi tương đối ổn định của một người đối với hiện thực hoàn cảnh xung quanh. Thế nhưng, những đặc trưng tâm lý cấu thành tính cách của con người không phải sinh ra một cách vô căn cứ, nó là kết tinh của bối cảnh văn hóa đặc định và hoàn cảnh, kinh nghiệm của cuộc sống. Đối với Tưởng Giới Thạch mà nói, nền văn hóa Trung Quốc truyền thống cổ lão với lý luận phát xít cận đại Tây Phương, đã cấu thành cơ sở tư tưởng trong hành vi tính cách của Tưởng.Trong việc hình thành đặc trưng tính cách của Tưởng Giới Thạch, nền văn hóa truyền thống Trung Quốc đối với Tưởng đã phát sinh ra những ảnh hưởng sâu sắc nhất. Còn căn cứ vào cách nói của bản thân Tưởng, nhân sinh quan của ông ta được hình thành sau khi đọc xong cuốn Đại học năm 1914, lúc đó Tưởng mới hơn hai chục tuổi. Đối với cuốn hạ Đại học chi đạo, Tưởng nói: Mãi tới khi 28 tuổi, Thủ tướng đã giảng cho tôi nghe biết đạo của đại học, mới hiểu được bộ sách này là một bộ triết học chính trị rất có giá trị... sau đó tôi đã không ngừng nghiên cứu, mới cảm thấy mỗi câu nói trong đó, đều có đạo lý sâu sắc, tức thì nhân sinh quan của tôi đã được xây dựng từ đây. Trong bộ sách này, Tưởng rút ra được đạo lý làm việc cần phải áp đảo người trước, đây chính là Hiểu biết tường tận nơi phát sinh ra sự vật ban đầu, nghiên cứu kỹ khi tâm ý mới phát sinh ra hành động. Miếng võ áp đảo người trước này đã sử dụng rất nhiều lần, vui vẻ không biết mệt mỏi. Tưởng Giới Thạch đã dùng nó để đối phó với Đảng Cộng Sản và phái phản đối Tưởng về sau này.Trên mặt chính trị, Tưởng Giới Thạch chủ trương tự cường tự lập lấy Đại học, Trung Dung làm lý luận chính trị cơ bản, thực hành nền chính trị chuyên chế phong kiến. Trong bài viết Trách nhiệm và sự tu dương tất yếu của học sinh đại học lục địa Tưởng Giới Thạch đã nói: Chương thứ nhất của Đại học chẳng qua chỉ có hơn hai trăm chữ, nói rõ ràng minh bạch đạo lý nhất quán trước sau của việc làm việc, làm người cho đến việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Thiên chức của quân nhân chúng ta tức là trị quốc, bình thiên hạ. Muốn trị quốc bình thiên hạ thì cần phải bắt đầu từ việc tu thân đức sáng. Cho nên đạo của đại học chẳng những là triết học cơ bản của nhân sinh và chính trị, cũng hoàn toàn là triết học cơ bản của quân sự.[1]. Những nguyên tắc chính trị phong kiến này cộng thêm việc hấp thụ tư tưởng của khoa học kỹ thuật tiên tiến ngoại quốc, đã khiến Tưởng Giới Thạch trở thành phái sính Tây của thời đại mới. Tưởng tôn sùng Tằng Quốc Phiên, chủ trương Cướp ngoài trước hết phải yên trong, cho rằng sự uy hiếp lớn nhất đến từ nội loạn.Tính cách ngang ngạnh ương bướng và ý chí phấn đấu cá nhân của Tưởng Giới Thạch chủ yếu bắt nguồn từ sự giáo dục nghiêm khắc của gia đình, trước hết xuất phát từ sự giáo dục của người mẹ từ thời thơ ấu và hoàn cảnh phấn đấu cô đơn gian khổ của cả hai mẹ con. Đúng như bản thân Tưởng đã nói: Lừa đảo lăng nhục, uy hiếp, áp bức, không ngày nào được yên... đã trở thành đạo lí dạy cho tôi biết khắc khổ tự lập... Mẹ tôi chỉ kiên trì một niềm tự tin, coi việc xây dựng lại gia đình là trách nhiệm duy nhất. Mẹ tôi thường nói: gian nan, khốn khổ, nguy hiểm, tai nạn... là điều thường xảy ra ở trên đời, chỉ có tự lập tự cường mới có thể khiến ta khắc phục được hết. Cho nên gia đình càng khó khăn thì lễ phép càng không thể thiếu được; phúc của gia đình càng mỏng thì chí khí càng không thể không kiên trì phấn đấu. Những người cô quả yếu đuối muốn tồn tại được, chỉ có phấn đấu tự lập khắc khổ tự cường, ngoài ra không có con đước nào khác [2] Người mẹ của Tưởng Giới Thạch là một người phụ nữ truyền thống điển hình nhẫn nhục gánh vác trách nhiệm nặng nề, bà đã dồn hết hy vọng gửi gắm cả vào trên thân con trai, dùng luân lý phong kiến để dạy dỗ con trai, đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với tư tưởng và tính cách của Tưởng.Điều rất có thể phản ánh được hương vị văn hóa truyền thống đó trong xương thịt Tưởng Giới Thạch, chính là Phong trào đời sống mới mà Tưởng thi hành rộng rãi. Tháng 2 năm 1934, Tưởng Giới Thạch đã thành lập Hội xúc tiến phong trào đời sống mới tại Nam Xương, Tưởng tự nhận chức Hội trưởng. Kỳ thực ngay từ tháng 4 năm 1932, Tưởng đã đề xuất quan điểm dùng lễ nghĩa liêm xỉ để cứu vãn nhân tâm.Tưởng cho rằng : Hiện tại ngoài việc tinh thần thành thực thân ái ra còn phải cộng thêm bỗn chữ Lễ Nghĩa Liêm Xỉ nữa. Mọi người không được cho rằng đó là tư tưởng cũ kỹ hủ bại.... Tới ngày nay chúng ta không lấy Lễ Nghĩa Liêm Xỉ cộng thêm vào, thì không thể cứu vẫn được dân đức và nhân tâm đã sa đọa lạc hậu, không thể xác định đước cơ sở cách mạng của chúng ta. Tháng 6 năm 1934, Tưởng lại để suất tám đức Trung Hiếu, Nhân ái, Tín nghĩa, Hòa bình và coi đó là cơ sở chính trị của Tam dân chủ nghĩa. Tháng 5 năm 1935, khi Tưởng Giới Thạch nói chuyện với học sinh tại Côn Minh lại đem tứ duy Lễ Nghĩa Liêm Xỉ và bát đức Trung hiếu, Nhân ái, Tín nghĩa, Hòa bình này vẽ một dấu ngang bằng với Chủ nghĩa Tam dân.Mặc dù Tưởng Giới Thạch đem phong trào đời sống mới rùm beng ba hoa khoác lác, đem phong trào đó với chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn gộp làm một, khoác lên chiếc áo ngoài hiện đại, trên thực chất, phong trào này là một phong trào phục hồi lễ giáo phong kiến, cũng là phong trào giáo dục đế chế đề sướng trung thần hiếu tử. Mục đích phổ biến rộng rãi phong trào này là giáo hóa dân chúng trong toàn quốc bỏ nhận dục, tồn thiện lí trên mặt tinh thần, sống và làm việc có quy tắc quy củ, phục tùng nền thống trị của vương triều họ Tưởng, làm một người dân thuận theo phi lễ vật động phi lễ vật thính, phi lễ vật thị, phi lễ vật hành .Những cơ sở tư tưởng trong tính cách hành vi của Tưởng Giới Thạch, ngoài tư tưởng truyền thống Trung Quốc rễ sâu thân chắc ra, lí luận phát xít Tây Phương cũng là vũ khí lí luận mà Tưởng tôn sùng. Tháng 5 năm 1931, trong hội nghị quốc dân triệu tập ở Nam kinh, Tưởng Giới Thạch nói: Quan sát tổng hợp hiện tại chính phủ thống trị các nước trên thế giới, tuy hình thức có khác nhau, còn lập trường lí luận của chúng đại khái có thể chia làm ba... thứ nhất là lý luận chính trị cuống phát xít vốn là tinh thần của chủ nghĩa siêu tượng dựa vào học thuyết cơ thể quốc gia làm căn cứ, dùng tổ chức công đoàn để vận dụng. Cho rằng quốc gia là thực thể chí cao vô thượng, quốc gia phải đòi hỏi bất kỳ sự hy sinh nào của quốc dân, để kéo dài sinh mệnh của dân tộc, không thể dùng phúc lợi trước mặt làm chuẩn tắc, quyến thống trị phải được cùng tồn tại với xã hội mà không có thứ nào trước thứ nào sau, kẻ thao túng nó chính là nền thống trị có hiệu năng nhất trong giai đoạn của hệ tiến hóa. Thứ hai là lí luận chính trị của chủ nghĩa cộng sản... Thứ ba là lí luận chính trị của chủ nghĩa tự do dân trị... Sau khi phân tích và so sánh 3 loại chủ nghĩa kể trên, Tưởng Giới Thạch đã làm lóe sáng lên quân át chủ bài của mình. Tưởng nói: Cứu vãn nguy nan của đất nước không thể chờ đợi được nữa, lãnh đạo dân tộc mà không có kinh nghiệm chính trị thì không thể thi hành quyền thống trị tương đối có hiệu năng được. Sau đó Tưởng lại làm ra vẻ tuân theo ý dân nói: Hiện tại điều yêu cầu đối với cả nước là thi hành quyền thống trị có hiệu năng, để đạt tới mục đích giải trừ sự thống khổ của dân chúng. Rất rõ ràng, Tưởng Giới Thạch chủ trương dùng chủ nghĩa phát xít thống trị có hiệu năng nhất để cai trị Trung Quốc.Khi nghiên cứu lịch sử, người ta đã đem những chủ trương Trung học là thể, tây học là dụng, gọi những người duy trì và bảo vệ vương triều phong kiến hòng dùng kỹ thuật làm thày các dân tộc man di là Phái sính Tây, còn đối với tầng lớp sau này thì không đượng tôn trọng như vậy. Kỳ thực, lấy cơ sở tư tưởng mà nói Tưởng Giới Thạch cũng có thể gọi là Phái sính Tây. Tưởng đã tiến dẫn lý luận phát xít, còn đem giống cỏ độc này cấy rễ trên cặn bã phong kiến của tư tưởng mình, khiến cho chúng kết hợp Trung quốc và Tây phương, hợp tác chặt chẽ, rồi trở thành cơ sở tư tưởng trong tính cách hành vi của Tưởng.
    ---------------------------
    [1] Tưởng Trung Chính ngôn luận tập, tập thứ ba trang 80
    [2] Tưởng Trung Chính ngôn luận tập Tập thứ nhất, trang 1-2



    Phần 9 - Chương 1: Trước và sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời


    Tưởng Giới Thạch đã chết, chết bởi già yếu hay chết bởi thất bại, hoặc chết bởi cả hai lẽ ? Tưởng Giới Thạch chết mà không có điều gì nuối tiếc hay là chết mà không nhắm được mắt ? Tại sao quan tài lại quàn tạm tại Từ Hồ ? Sau khi Tưởng Giới Thạch chết, sấm chớp giao nhau, gió mưa tầm tã, có người nói trời đất cùng buồn, lại có người nói ông là một tinh rùa. Vậy thì ai đúng, ai sai ?
    Ngày mồng 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch qua đời. Tưởng Giới Thạch chết bởi già yếu, chết bởi đau ốm, đó là điều chẳng còn gì để nghi ngờ. Thế nhưng có ai lại có thể phủ nhận rằng ông không phải đã bị chết bởi những đòn đả kích nặng nề tới tấp do những thất bại cay đắng liên tiếp nảy sinh trong những sự kiện quốc tế? Đối với Tưởng Giới Thạch, năm 70 là một năm đen tối bởi rất nhiều tai biến, bệnh họa liên tiếp xảy tới. Tai họa thậm chí không phải bắt đầu từ đầu năm này mà đã bắt đầu một cách từ tháng giêng năm 1969.
    Tháng giêng năm 1969, Ních-sơn - tổng thống đương nhiệm của nước Mỹ - lên cầm quyền lập tức tuyên bố chính sách đối với đại lục Trung Quốc, sẽ là một bộ phận chủ yếu trong chính sách ngoại giao mới của nước Mỹ. Ních-sơn lại chỉ thị Hội nghị an toàn quốc gia nghiên cứu lại chính sách đối với Trung Hoa, đề xuất lý thuyết cân bằng thế giới. Ních-sơn chuẩn bị giao hảo với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Nói rằng thế lực tàn dư của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan lúc này đã bắt đầu thời kỳ chao đảo của gió mưa vần vũ là điều không quá đáng.
    Ngày 26 tháng 12 năm 1970, Tổng thống Rumani Ceausêscu tới thăm nước Mỹ, trong cuộc nói chuyện với ông ta, Ních-sơn đã nhờ vị lãnh đạo có quan hệ hữu hảo với Trung Quốc này chuyển lời với Bắc Kinh rằng: nước Mỹ hy vọng rằng quan hệ Trung - Mỹ được bình thường hóa. Trong diễn văn chào mừng tại bữa tiệc chiêu đãi hoan nghênh tổng thống Ceausescu, lần đầu tiên Ních-sơn gọi Trung Quốc là Nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa. Đồng thời với điều này trong đại hội lần thứ 25 của hội đồng Liên hợp quốc khi biểu quyết đề án của Anbani, ủng hộ nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa khôi phục lại địa vị ở Liên hiệp quốc, lần đầu tiên số phiếu đã vượt mức quá bán, địa vị của thế lực Tưởng Giới Thạch ở Liên hiệp quốc đã vô cùng nguy nan như trứng để đầu đẳng.
    Ngày 21 tháng 6 năm 1971, tổng thống Ních-sơn tuyên bố xóa bỏ cấm vận kéo dài suốt 21 năm đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, Kít-sinh-giơ trợ lí đặc biệt của Ních-sơn lại đột nhiên từ Pakistan bí mật tới thăm Bắc Kinh từ 9 đến 11 tháng 7, bàn định với Thủ tướng Chu Ân Lai để Ních-sơn tới thăm Trung Quốc.
    Ngày 16 Ních-sơn lại phát biểu công báo tới thăm Trung quốc, công khai biểu lộ ủng hộ nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa khôi phục lại địa vị ở Liên hiệp quốc. Trước tình thế này, Tưởng Giới Thạch đã phát biểu thông cáo Trang nghiêm kính cẩn tự cường nổi tiếng. Thông cáo nói rằng: Cổ nhân thường nói: Việc trong thiên hạ, do con người làm; quyết không thể vì sóng gió nhất thời mà tự hủy diệt tráng trí của mình... Chỉ cần tất cả mọi người trang nghiêm kính cẩn tự cường, gặp tai biến không kinh sợ, thận trọng tìm mưu kế phán quyết, kiên trì giữ vững tinh thần độc lập tự cường của quốc gia và quốc dân, thế thì bất kỳ thử thách nào cũng đều vượt qua tất!. Thông cáo này của Tưởng Giới Thạch tuy đã cổ vũ mình, đồng viên người, nhưng làm sao có thế che giấu được nỗi đớn đau, khổ sở, buồn nản và bất lực ở trong lòng ông già này. Tưởng Giới Thạch biết rằng Chính phủ Mỹ bất đắc dĩ mới phải chuyển sang ủng hộ việc khôi phục địa vị ở Liên hiệp quốc của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, chiếc ghế và đại biểu ở Liên hiệp Quốc của ông sắp sửa bị quét ra khỏi cửa rồi.
    Ngày 10 tháng 10 năm này, trong Ngày Quốc khánh, Tưởng Giới Thạch lại phát biểu bài Thư gửi đồng bào trong toàn quốc. ông đau đầu buốt óc nói rằng: Ngày nay thế giới đang ở vào một thời đại đớn đau thê thảm ở trong thời đại này, sự phân biệt giữa chính nghĩa và cường quyền, thiện và ác, đen và trắng, ngày một tiêu tán đi; sự tham lam, giả dối và hỗn loạn đã bao trùm tất thảy... Tưởng Giới Thạch đã không phải là với tinh thần tuy có muôn vàn bi ai sầu khổ nhưng vẫn trấn tĩnh tự kiềm chế được như trong Thông cáo, mà do vì trong tâm can tràn đầy phẫn nộ uất hận, không thể tự nhịn được mà đã mở rộng miệng chửi ầm lên, ông đã chửi kẻ thù, chửi bè bạn, chửi thế giới, chửi thời đại, suýt nữa ông đã chửi cả mình.
    Sau nửa tháng (ngày 25-10-1971) đại hội lần thứ 26 Liên hiệp quốc đã chính thức tiếp nạp nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, đuổi cút đại biểu của Tưởng Giới Thạch. Bức thư viết gửi từ Đài Loan công khai nhục mạ chửi bới Liên Hiệp Quốc Đã trở thành một tổ chức lưu manh, để cho thế lực tà ác hỗn loạn nắm quyền, mất hết công bằng và chính nghĩa, không thể cứu vãn được! Điều này có lẽ nào chẳng phải là sự căm giận và uất nghẹn của Tưởng Giới Thạch.
    Vậy mà sự việc lại không chỉ dừng ở đây. Ngày 21-2-1972 Ních-sơn tổng thống nước Mỹ đã tới thăm Trung Quốc, ngày 28 đã phát biểu Thông cáo chung Trung - Mỹ nổi tiếng tại Thượng Hải. Ngày 25-9-1972, Thủ tướng Nhật Bản Tanaka Kakuci đã tới thăm Trung Quốc. Ngày 29, chính phủ hai nước đã tuyên bố quan hệ hai nước Trung Nhật bình thường hóa. Tiếp liền theo sau đó phần lớn các nước bè bạn liên minh ngày xưa của chính quyền Tưởng Giới Thạch đã dồn dập cắt đứt quan hệ ngoại giao với ông ta. Tháng 10 năm 1970, các quốc gia xây dựng quan hệ ngoại giao với chính quyền Quốc dân đảng Đài Loan có 68 nước, đến tháng 2 năm 1972, chỉ còn 39 nước vẫn giữ quan hệ ngoại giao với họ, hơn thế còn có 19 nước đang suy nghĩ cắt đứt quan hệ ngoại giao với họ, để lập quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa. (đến tháng 1 năm 1974, các quốc gia vẫn giữ quan hệ ngoại giao với chính quyền Quốc dân đảng Đài Loan đã giảm xuống còn 20 nước). Sấm chớp của thế giới nhấp nhô, gió mưa của Đài Loan chao đảo. Tưởng Giới Thạch vung gậy đập bàn ở Đài Bắc, chửi rủa om xòm Liên hiệp quốc và người Mỹ là bội tín bỏ nghĩa, lấy bạo lực rải đường, chửi bới người Nhật Bản là vong ân phụ nghĩa, lật mặt bỏ người, phát ra lời thề Hơn lúc nào hết càng phải tự dựa vào mình, xin thề với trời xanh sẽ làm cho Thế giới này rất nhanh chóng trở lại mảnh đất chính nghĩa, tự do và hòa bình...Nếu nói năm 1949 sự thất bại toàn diện ở đại lục là một đòn đả kích trầm trọng của nhà chính trị gia hùng tâm vững chí, thế thì năm 1970 mở đầu sự thất bại trên võ đài quốc tế là một đòn đánh chí mạng đối với một lão già đã bước vào những năm tàn như ngọn nến lét leo trước gió.
    Năm 1972, Tưởng Giới Thạch đã mang bệnh nặng trên thân. Đầu tháng 3 năm ấy ông đã phải tiến hành cuộc phẫu thuật lớn bởi bệnh phì đại tiền liệt tuyến. Thế nhưng hậu qủa không tốt, đã chuyển sang viêm tiền liệt tuyến mạn tính, rồi sức khỏe của Tưởng Giới Thạch bắt đầu suy thoái toàn diện. Trong tháng 7, Tưởng Giới Thạch mắc bệnh cảm nặng phải nằm viện, bệnh tình xấu đi nhanh chóng, phát triển thành viêm phổi, giới y học đã tổn phí biết bao công sức mới khống chế nổi bệnh trạng của ông. Thế nhưng, họa vô đơn chí, ngày 6 tháng 8, trên đường đi điều dưỡng ở bệnh viện Vinh Dân ( Đài Bắc), tại ngã tư đường dinh quan Song Khê ngoài Sĩ Lâm núi Dương Minh, ông ngồi trên xe bị xe hơi của một viên thiếu tướng phóng nhanh đụng phải, ông đã bị nạn bất ngờ. Từ đó, thân thể của Tưởng Giới Thạch không gượng dậy nổi, phải tuyên bố từ chối không tiếp khách, đã bắt đầu một lịch trình gian nan và dai dẳng giành giật với tử thần.Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch với chí khí kiên cường nổi tiếng tràn đầy niềm tự tin phấn đấu đã không cam chịu sự sắp đặt của vận mệnh. Tết Nguyên đán năm 1973, theo thường lệ ông vẫn gửi thư thăm hỏi đồng bào. Ông nói: Hơn 70 năm qua, quốc dân ta đã dốc sức làm cách mạng dân chủ và thống nhất, coi đó là mục tiêu duy nhất của cách mạng mà chưa hề có một ngày gián đoạn. Trong bức thư đó ông đề xướng làm người Trung Quốc đường đường chính chính cần phải phấn đấu tới cùng vì nền dân chủ và thống nhất.
    Ngày Quốc khánh năm 1973 ông lại phát biểu thông báo: Cho dù quyền lợi của chúng ta có phải phủ lên một bức màn bi ai đau khổ, bầu không khí của chúng ta tạm thời bị chất độc hóa học bao phủ bầu trời. Chúng ta quyết không nản chí, chúng ta không thể lạc đường mất phương hướng. Trước đó vào tháng 2 năm 1972 Hội nghị lần thứ 5 tiến hành Quốc đại cứ 6 năm triệu tập một lần tại Đài Loan, để bầu cử Tổng thống. Tưởng Giới Thạch tuy đã có đại chứng tiền liệt tuyến phì, ông vẫn tráng tâm bất khuất ông nói, ông tuổi tác đã cao, không tham gia tranh cử Tổng Thống nữa, lại nói, nếu như mọi ngừơi không chê ông già, ông vẫn tình nguyện dốc sức lực tiếp tục làm việc. Ngày 21 tháng 3, ông một lần nữa trúng cử với số phiếu 1308 trong tổng số phiếu 1316, Nghiêm Gia Cán trúng tuyển Phó tổng thống.Sau khi Trúng cử , Tưởng Giới Thạch lại phát biểu thông báo: Duy chỉ có chính phủ và nhân dân chúng ta mới có thể nghiêm chỉnh dốc sức giành lại lãnh thổ đã mất, cứu vớt lấy ngàn triệu đồng bào ở đại lục. Chúng ta mới có thể cùng đứng dưới ngọn cờ Tam dân chủ nghĩa, giành hưởng âm trạch của tự do với quyền lợi. Đặt cơ sở trên những lí do này, bản thân tôi mới có thể dốc hết lòng hăng hái và hạ quyết tâm, hơn thế chẳng quản tuổi cao và đối mặt với sứ mệnh cực kỳ to lớn, trách nhiệm vô cùng nặng nề mà đảm nhận chức vụ này... dốc hết sức chống lại bọn Mao cộng bán nước, quyết chí hoàn thành đại nghiệp, thề đem quân Bắc phạt lần thứ hai thống nhất nước Trung hoa dân quốc... Tôi xin thề... không phụ lòng mong đợi của toàn dân tộc, mang hết tinh thần trách nhiệm... chỉ cần bọn Mao cộng và bọn đồng đảng bán nước còn tồn tại một ngày, nhiệm vụ cách mạng của chúng ta không thể ngừng trệ, cho dù chúng ta có phải chịu ngàn vạn đòn đả kích và dày vò, cũng quyết không từ nan, quyết không thối chí.
    Trong đời sống chính trị của Tưởng Giới Thạch, đây là lần làm Tổng thống cuối cùng. Không may, ngày 20 tháng 5 năm 1972, khi Tưởng Giới Thạch cùng Nghiêm Gia Cán tuyên thệ nhậm chức, đã xảy ra một sự cố không lớn không nhỏ, giống hệt như trong bữa ăn nhìn thấy một con ruồi chết ở trong mâm, sự tởm lợm không nói ra được trong tâm lý cũng bùng lan ra. Buổi sáng hôm đó, sau nghi thức tuyên thệ nhậm chức, hai người bước lên lan can phủ tổng thống tiếp nhận sự hoan hô của hai mươi vạn dân chúng, đài vô tuyến truyền hình sẽ phát sóng trực tiếp tới toàn thế giới. Thế nhưng không biết làm thế nào, khi truyền những nét mặt hoan hô của dân chúng, ở góc dưới màn hình đã xuất hiện những chữ Hán không biết từ đâu tới dòng chữ là Đại ca không tốt rồi... một câu viết như vậy, có khác gì ai đó cố ý lăng mạ, chửi rủa tổng thống. Về sau do người cháu thứ hai của Tưởng Giới Thạch là Tưởng Hiếu Vũ đích thân tra xét ra, đây là do nhân viên đài truyền hình bỏ sót, chứ không phải là cố ý dụng tâm. Thế nhưng ở trong tầm mắt những người mê tín bao gồm một số nguyên lão quốc đảng, điều này quyết không phải là điều lành. Sau đó một loạt bệnh cảm mạo nặng, viêm phổi, tai nạn xe v.v... liên tiếp kéo đến đã khiến cho họ càng tin chắc rằng những hàng chữ Hán không biết từ đâu đến kia đã là một điềm ác đối với ông, cũng giống như Tuyên Thống hoàng đế khi đăng cơ còn nhỏ đã khóc ré lên, khi Nhiếp chính vương Tải Phong vỗ về hoàng đế nói: Sắp rồi! Sắp rồi! Sắp hết rồi! đã bị rất nhiều người nói đó là điều dự báo triều Thanh sắp sửa bị tiêu vong. Tưởng Giới Thạch tuy là một tín đồ đạo Cơ đốc, thế nhưng cũng có tư tưởng mê tín phong kiến rất sâu nặng, sau khi được biết tin này liền nói: Xúi quẩy! Xúi quẩy!.
    Tháng 7 năm 1972, sau khi Tưởng vì cảm mạo nặng dẫn tới viêm phổi phải nằm viện, tuyệt đối giữ bí mật với mọi người, không để cho một ai được biết. Trong tình trạng ốm lâu không được tiếp xúc với sự việc, ông vốn nên từ chức, để cho phó tổng thống thay mặt ông giữ chức, thế nhưng ông đã không làm như vậy, ông muốn để cho người kế tiếp ông là Tưởng Kinh Quốc tranh thủ được thời gian nhiều hơn. Tới tháng 7 năm 1973 trên báo chí đã công khai đăng tải ông chụp ảnh chung cùng với mọi người trong buổi lẽ kết hôn của người cháu thứ tư là Tưởng Hiếu Dũng, là lần thứ nhất lộ mặt công khai sau một năm ông bị bệnh, cũng là dịp công khai chứng tỏ với dân chúng tình trạng sức khỏe của ông và cũng kín đáo nói rằng ông đã chữa bệnh tốt. Sức khỏe của Tưởng Giới Thạch quả thật có chuyển biến tốt. Đến mùa hè năm 1974, mỗi ngày ông đã có thể tới vườn hoa đi dạo, cùng với người trong gia đình và các chính khách thảo luận những vấn đề chính trị v.v... Ngày 10 tháng 10 năm đó, theo thường lệ ông lại phát biểu Diễn văn quốc khánh vẫn vọng đàm tới việc Quang phục đại lục. Ngày 31 tháng 10, khi chúc thọ Tưởng, nhà đương cục Đài Loan đã đúc ra khối lượng lớn huy chương Tưởng Tổng thống vạn tuế, hơn thế còn dùng khí cầu cực lớn thả dù xuống đại lục 10 triệu tấm ảnh Tưởng Giới Thạch. Nghe nói chỉ riêng năm này nhà Đương cục Đài Loan đã thả dù xuống đại lục 280 triệu tấm ảnh của họ Tưởng, có ý đồ khiến cho mọi người ở đại lục đừng có quên Tưởng Giới Thạch. Thế nhưng chuyển biến tốt và sự khôi phục sức khỏe của Tưởng Giới Thạch đã không tiếp diễn được lâu, mà ngày càng suy kiệt, bệnh đã ăn sâu vào xương tủy không thể chữa được nữa.
    Tháng 12 năm 1974, Tưởng Giới Thạch lại mắc bệnh cúm một lần nữa chuyển sang viêm phổi. Do sức khỏe của ông đã cực kỳ suy yếu, cũng bởi tại sử dụng kháng sinh lâu, dẫn tới vi khuẩn chống lại thuốc tăng mạnh, có điều trị cũng phí thuốc, bệnh tình của ông không thấy có chuyển biến tốt. Kéo dài tới mồng 9 tháng giêng năm sau, trong giấc ngủ ban đêm ông đã phát sinh ra bệnh tâm cơ thiếu ôxy, tuy đã được cấp cứu chuyển nguy thành an, thế nhưng sau đó viêm phế quản vẫn chưa thể hoàn toàn chữa khỏi sốt nóng lâu không suy thoái.Ngày 29 tháng 3 năm 1975, có lẽ Tưởng Giới Thạch cảm thấy bản thân mình không thể sống lâu ở nhân gian nữa, ông đã tiện khẩu truyền di chúc, do phó bí thư trưởng ủy ban trung ương Đảng dân quốc là Tần Hiếu Nghi ghi lại. Sau khi di chúc lập xong, Tưởng Giới Thạch đã bước vào một tuần lễ cuối cùng của cuộc đời ông, sức khỏe lúc lành lúc xấu, thần trí khi tỉnh khi mê. Dần dà gắng gượng bước vào tháng 4, theo cách nói dân gian của những người già Trung Quốc - Tết thanh minh đối với những người bệnh có nguy cơ trầm trọng đã tới. Tưởng Giới Thạch với sức sống vô cùng suy yếu, cuối cùng đã gắng gượng qua được ngày tảo mộ tế tổ, điếu niệm vong linh và đã chết trong Tết thanh minh ngày 5 tháng 4 này.
    Đối với cái chết của Tưởng Giới Thạch, trong cuốn sách của mình, người Nhật Bản ông Furuya đã ghi thuật tường tận tỉ mỉ như sau:Ngày 5 tháng 4 năm 1975, trên cuốn lịch bàn vừa đúng là tết Thanh Minh - một buổi sớm trời trong vạn dặm, thích hợp với thời tiết. Ngày Tết này, ở Trung hoa dân quốc gọi là Tết dân tộc tảo mộ, được nhà nước định là ngày nghỉ, để cho tất cả mọi người đi quét dọn sửa sang phần mộ của tổ tông, an ủi những linh hồn ở trên trời. Lúc này, ở Nhật Bản vẫn đang là mùa hoa anh đào nở rộ, còn Đài Loan thì đã bước vào đầu hạ. Còn nhớ buổi sáng sau khi ngủ dậy đã phải mở máy điều hòa khí lạnh ở trong phòng. Tám giờ sáng ngày hôm đó, Tưởng Tổng thống ngủ dậy ở trong dinh thự Sĩ Lâm Đài Bắc.Đêm hôm qua, cụ Tưởng ngủ yên giấc, cho nên tinh thần sảng khoái! - Đây là lời ghi chép trong sổ theo dõi sức khỏe của một bác sĩ trong tổ phục vụ điều trị. Tưởng Công tử - ông Tưởng Kinh Quốc (Viện trưởng viện hành chính) vẫn tới dinh thự thăm cha như mọi ngày. Tưởng tổng thống đã rửa mặt đánh răng xong, ngồi ở trên ghế nằm bên cạnh giường.Lúc này, Tưởng tổng thống căn dặn Tưởng Kinh quốc lời như sau:
    - Từ nay về sau bản thân con phải nghỉ ngơi nhiều!
    Sau khi nghe lời này. Tưởng kinh Quốc cảm thấy ông đã đón nhận một niềm cảm xúc đặc biệt không nói ra được, như một đòn xâm kích, suốt ngày lởn vởn những ý nghĩ bất an... Sự bất an của ông Tưởng Kinh Quốc đã trở thành hiện thực. Buổi chiều hôm đó, Tưởng tổng thống đột nhiên cảm thấy cồn cào trong bụng. Sự trải qua sau đó, trong thư báo cáo của tổ điều trị có thuyết minh như sau:Trong bụng khó chịu, đồng thời lượng tiểu tiện giảm ít. Tổ điều trị cho rằng công năng tâm trạng của cụ Tưởng không tốt, do đó sự tuần hoàn mạch máu không thông suốt, các tổ chức trong cơ thể có khả năng có hiện tượng tích nước; tức thì đã truyền cho một ít thuốc lợi tiểu, lúc này cụ Tưởng đã thải ra được lượng nước tiểu là 500 cc. Buổi chiều đúng 4 giờ, ngủ được chút ít. Sự biến hóa của bệnh tình phát sinh vào khoảng trên dưới 8 giờ 15 phút buổi chiều. Các bác sĩ phục vụ phát hiện, Tưởng tổng thống vừa chợp mắt ngủ mạch đập lại đột nhiên chuyển sang chậm, lập tức tiến hành xoa bóp vùng tim và hô hấp nhân tạo, đồng thời tiêm thuốc cấp cứu. Sau một hai phút, tim đập và hô hấp lập tức trở lại bình thường. Thế nhưng sau bốn năm phút, tim lại ngừng đập, lập tức lại tiến hành xoa bóp tim, hô hấp nhân tạo và tiêm thuốc cấp cứu. Thế nhưng hiệu quả lần này không tốt đẹp, tim tuy lúc đập lúc ngừng, thế nhưng hô hấp không khôi phục lại được, kim trong máy đo áp huyết đã ngừng, mạch đập, áp huyết đã không thể đo được nữa.Đúng 11 giờ 30 phút, con ngươi của đôi mắt cụ Tưởng đã giãn. Công tác cấp cứu vẫn tiếp tục tiến hành, đã tiêm mấy ông thuốc kích thích tim. Sau cùng đã ứng dụng cực điện trực tiếp kích thích cơ tim, kích thích buồng tim, thế nhưng vẫn vô hiệu. Đúng 11 giờ 50 phút buổi chiều mùa hè tại Đài Bắc, Tưởng tổng thống đã vĩnh biệt thế gian, hưởng thọ 89 tuổi. Lúc này trên bầu trời thành phố Đài Bắc bỗng nhiên sấm chớp kinh người, mưa như trút nước. Vào mùa này rất ít khi có mưa có sấm như vậy, đúng như trong nhật ký ông Tưởng Kinh Quốc đã ghi Phong vân dị sắc, thiên địa đồng ai - gió mây khác tiết, đất trời buồn thương. ở Đài Loan có người truyền thuyết: Linh hồn của Tưởng tổng thống đã cưỡi gió cưỡi sấm bay lên trên trời, cụ đã ra đi theo tiếng gọi của Chúa trời. (thế nhưng Giang Nam tiên sinh phản bác nói: Điều đó cũng có khác gì nói một cách nhảm nhí xằng bậy: ông là con tinh rùa, vô căn cứ!)
    Tưởng phu nhân - nữ sĩ Tống Mỹ Linh và ông Tưởng Kinh Quốc chăm sóc chiếu cố ở bên gối cụ mãi cho tới lúc lâm chung.Mọi người được lần lượt triệu đến dinh quan...Di chúc đã có sự chuẩn bị trước, Tưởng tổng thống hình như đã dự biết được mình sắp sửa lìa khỏi thế gian, cho nên ngày 29 tháng 3, một tuần lễ trước đã truyền miệng cho phó bí thư trưởng Quốc dân đảng Tần Hiếu Nghi ghi chép lại.Trước mặt Tưởng tổng thống, mở bản di chúc ra đọc nội dung như sau:...Thực hiện tam dân chủ nghĩa, khôi phục lại toàn bộ lãnh thổ đại lục, phục hưng nền văn hóa dân tộc, kiên trì giữ gìn đội hình chiến đấu dân chủ, đó là chí nguyện suốt đời của tôi... Đầu tiên là Tưởng phu nhân, tiếp đó là phó tổng thống Nghiêm Gia Kiềm, Viện trưởng Viện hành chính Tưởng Kinh Quốc và Viện trưởng Viện lập pháp Nghê Văn á, Viện trưởng Viện tư pháp Điền Quýnh Cẩm, Viện trưởng Viện thi cử Dương Lượng Công, Viện trưởng Viện giám sát Từ Tuấn Hiền.... các ông bà đều run rẩy cầm bút lông ký tên trên tờ di chúc.
    Một đêm trôi qua. Sau khi trời sáng, trên bầu trời Đài Bắc bao phủ một tầng mây mờ dày đặc. Các tờ báo buổi sáng đều đem khuôn bản màu hồng thường ngày, nhất loạt đổi thành mặt đen, báo tin Tưởng Tổng thống qua đời. Đài vô tuyến truyền hình cũng đình chỉ phát các băng ghi hình màu sắc và các tiết mục văn nghệ vui chơi. Các công sở cơ quan quan trọng, ở những nơi trải thảm màu đỏ đều được phủ lên mảnh vải đen, biểu thị sự tưởng niệm tiếc thương. Các hiệu vải trên phố đều tự động cung cấp miễn phí những băng vải đen. Những chiếc khăn quàng màu đỏ và những bộ quần áo sặc sỡ đều không còn nhìn thấy bóng dáng nữa, ngay đến cả dầu mực dấu dùng để đóng dấu đều cải thành màu xanh. ở Trung Quốc, màu đỏ được coi là tượng trưng của sự chúc tụng vui mừng, mọi người bởi tâm tính buồn bã tiếc thương, do đó đã vứt bỏ màu đỏ đi, đến nỗi chỉ trong một đêm ở khắp các phố to ngõ nhỏ đều tiêu tan hết toàn bộ màu đỏ. Điều này đối với người nước ngoài mà nhìn, sẽ có thể cảm thấy có một phản ứng gì đó không phải là bình thường.
    Tuân theo điển lễ, việc chôn cất sẽ cử hành vào ngày 16 tháng 4. Phó tổng thống Mỹ đặc sứ của tổng thống nước Mỹ Rokefeller, thủ tướng Hàn Quốc Kim Jong Pil và các đoàn đại biểu của 23 nước đều tới Đài Loan tham dự. Nhật Bản tuy không có sự bang giao cũng có các ông như Sato Ei saku, KShinobusuke ...vài vị tới Đài Bắc. Trung hoa dân quốc đãi ngộ đoàn đại biểu Nhật Bản theo tiêu chuẩn tiếp tân quốc tế, ở trong khách sạn và trên chuyến xe riêng đều treo cờ trướng Nhật Bản. Kể từ năm 1972 tuyệt giao mối liên bang đến nay, đây lại là lần đầu tiên nhìn thấy quốc kỳ Nhật Bản ở Đài Loan.Vòng hoa viếng của ông Sato Eisaku, chỉ có tên của ông, mà không thêm bất kỳ phẩm hàm gì; Lúc đầu ông định lấy tên là Đại biểu Đảng Tự dân; thế nhưng bởi dính vào phía đại lục, nên lại đổi là Đại biểu người bạn.....
    Sau khi di hài của Tưởng Tổng thống được tiến hành ướp lạnh, tạm thời chôn cất tại bờ hồ Từ Hồ cách phía nam Đài Bắc ước khoảng 60 cây số. Nơi này chính là chỗ Tưởng tổng thống đã trú ngụ sau khi đã rút khỏi đại lục tháng 6 năm 1949, phong cảnh rất giống Khê Khẩu Trấn của Phụng Hóa, Triết Giang, nơi cố hương của tổng thống. Để tưởng nhớ Vương Thái phu nhân, Tưởng tổng thống đã đích thân đặt tên nơi đây là Từ Hồ, rồi xây dựng một dãy hành quán. Hiện tại Tưởng tổng thống mặc bộ đại lễ áo dạ cưỡi ngựa, trước ngực đeo huân chương, yên nghỉ trong quan tài nổi áo quan và quách bằng đá hoa cẩm thạch màu đen ở chính sảnh hành quán. Nếp nhà ngang tiếp liền chính sảnh giữ nguyên trạng phòng ngủ của Tưởng tổng thống, trên bàn trà ở mặt chếch còn lưu lại mấy chữ viết tay trên mảnh giấy ghi lời nhắn bằng bút chì đỏ: Năng khuất năng thân !{Có thể cong cũng có thể thẳng}ý nghĩa là: Thuận theo hoàn cảnh, cần nhẫn thì nhẫn, phải cong thì cong, để chờ thời cơ duỗi thẳng.
    Furuya là một nhà văn Nhật Bản thân Tưởng, trong các sách của ông tr
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 1:10 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 9 - Chương 2: Di chúc của Tưởng Giới Thạch viết những gì?




    Phần trên đã nói, ngày 29 tháng 3 năm 1975, Tưởng Giới Thạch dự cảm thấy mình sắp sửa vào quan tài, không ở lâu trên thế gian được nữa, liền đọc lời di chúc cho Tần Hiếu Nghi ghi chép. Di chúc của Tưởng Giới Thạch viết những gì? Tôi tự buộc tóc đến nay, đã đeo đuổi cuộc cách mạng của Thủ tướng, không lúc nào không tự cho mình là một tín đồ của Jêsu Cơ đốc và của ngài Thủ tướng, không ngày nào là không phấn đấu gian khổ để tiêu trừ những trở ngại của Chủ nghĩa Tam dân, xây dựng một quốc gia với nền chính trị dân chủ. Hơn hai chục năm nay, những căn cứ tự do ngày càng lớn mạnh một cách tinh túy thực chất, hơn thế đã không ngừng triển khai cuộc chiến tranh chính trị với sự tàn ác của Đảng Cộng sản đại lục. Đại nghiệp chống Cộng phục Quốc, ngày càng đổi mới, ngày càng hưng thịnh, quân dân trong toàn quốc, các đồng chí trong toàn Đảng, quyết không thể vì sự ra đi của tôi mà lo âu nhụt chí khí ! Mọi người cần phải thành tâm đoàn kết nhất trí phục tùng sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ mình, phụng thời chủ nghĩa vì ngài Thủ tướng vô hình lấy việc phục quốc làm mục tiêu chung. Còn tinh thần của Trung Chính, tự tất sẽ ở bên cạnh đồng chí đồng bào mình. Thực hiện Tam dân chủ nghĩa, thu phục hết quốc thổ đại lục, phục hưng nền văn hóa dân tộc, kiên trì giữ vững đội hình chiến đấu dân chủ, đó là sự nghiệp ý chí suốt đời của tôi, thực tế cũng là ý chí cách mạng và quyết tâm chiến đấu nhất trí của quân dân đồng bào hải nội hải ngoại. Mong muốn người người ngày càng kiên trì bách nhẫn, phấn đấu tự cường, không hoàn thành được trách nhiệm của cách mạng quốc dân quyết không dừng lại: thề cần lao, thề dũng cảm, đừng lười biếng, chớ chểnh mảng.Ngày 29 tháng 3 năm Trung hoa Dân quốcthứ 4.Tưởng Trung Chính
    Sau khi bản di chúc bao gồm hơn 200 chữ này của Tưởng Giới Thạch được phát biểu, lập tức đã gây nên rất nhiều điều chê trách. Có người nói nó đã loạn dùng điển cố thành ngữ, Văn lý thiếu thông suốt, đọc lên khiến cho người ta có cảm giác khôi hài, về căn bản không giống một tờ di chúc. Có người nói nó đã loạn sắp xếp ngôi thứ, đem Jêsu xếp đặt ở trước Thủ tướng Tôn Trung Sơn, thực sự đâu có thể như vậy được. Lại có người nói Tưởng Giới Thạch thực ra chưa hề ký tên trên tờ di chúc. Các đại viên như Tống Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc v.v... cũng chỉ là ký bổ sung vào sau khi Tưởng Giới Thạch chết, căn cứ theo Pháp luật của nhà đương cục Đài Loan thì đó là bản Di chúc vô hiệu.
    Trong bài viết Cái chết của Tưởng Giới Thạch với Tưởng Kinh Quốc của một người Hương Cảng có nói: Bản di chúc của Tưởng, những văn tự vừa mở đầu đã không thông, chẳng những không phù hợp với sự thực, mà hàm ý cũng hoang đường vô lý. Câu đầu tiên của bản di chúc nói: Tôi tự buộc tóc đến nay, đã đeo đuổi cuộc cách mạng của thủ tướng, không lúc nào không tự cho mình là một tín đồ của Jêsu Cơ đốc và của ngài thủ tướng.... Theo văn pháp Trung Quốc Tôi tự buộc tóc đến nay nên viết là Từ khi tôi buộc tóc đến nay mới được gọi là thông thuận. Đối với buộc tóc tới nay đã đeo đuổi cuộc cách mạng của thủ tướng thì lại càng là chỗ không thông. Buộc tóc chính là những năm ở tuổi nhi đồng. Tưởng Giới Thạch được gặp Tôn Trung Sơn, căn cứ theo niên biểu mà Trần Bố Lôi biên soạn cho Tưởng, là khi 23 tuổi (năm 1909 sau công nguyên, trong niên biểu viết rõ Lần đầu tiên yết kiến thủ tướng, đã dốc bầu tâm sự bàn việc nước. Trong di chúc của Tưởng Giới Thạch nói Buộc tóc đến nay đã đeo đuổi cuộc cách mạng của thủ tướng, điều này chẳng phải là khoác lác hay sao? Tạm thời không bàn tới việc đem chúa Jêsu kéo ngang hàng với Tôn Trung Sơn là tầm bậy, tự cho mình là một tín đồ, những chữ này thật đủ nực cười. Hai chữ Tự cư (tự cho mình) là để chỉ vốn dĩ không phải là sự việc này, nhưng lại cứ cứng nhắc mạo xưng . Ví dụ rõ ràng là một kẻ xấu xa, nhưng lại tự cư (tự cho mình) là người tốt. Câu đầu tiên trong bản di chúc của Tưởng thừa nhận tuy bản thân mình nói là tín đồ của thủ tướng, thế nhưng trên thực tế đâu có phải như vậy, ngụy trang mà thôi, thực sự đã khiến cho người ta cười rụng cả răng.
    Lời nói sau cùng trong số 5 năm 1975 Tạp chí Trung Hoa do Hồ Thu Nguyên ủy viên ủy ban lập pháp Đài Loan chủ biên nói, tạp chí này. đã nhận được mấy bài đoản văn và thông tấn, có bình luận và phê phán đối với nghi lễ đại điển quốc tang lần này và sự mạch lạc của văn chương chính thức. Lời nói sau cùng của ban biên tập viết rằng: Sự việc xảy ra vội vàng lật đật, hơn nữa lại ở trong sự đau thương, có chỗ suy nghĩa chưa chu đáo, cũng chẳng có gì là lạ. Thế nhưng ở trong đó còn có câu Những chỗ chưa thông suốt... mong các phái hữu quan từ nay về sau hãy nên thận trọng hơn. Phàm làm việc gì hãy nên hỏi han những người thạo việc trong ngành, mới là cái đạo an toàn.
    Đường Nhân tiên sinh tác giả Kim Lăng Xuân Mộng đối với hành văn và nội dung bản di chúc của Tưởng Giới Thạch cũng không cho là như vậy. Ông viết: Buộc tóc, là từ xưng hô đối với kiểu tóc thời Cổ đại, cuối đời Thanh, Tưởng Giới Thạch đã là cái đầu văn minh, ở thế giới hỗn độn Thượng Hải, đến Nhật Bản giang hồ đây đó, càng không thể có cái gọi là buộc tóc được, vào trường quân đội cạo đầu trọc thì làm gì còn tóc để có thể buộc. Trước và sau khi chết càng chẳng có tóc để mà nói, Cấp bách bàn về kiểu tóc chăng? Tần Hiếu Nghi cầm bút làm văn hộ bản di chúc, mở đầu bản di chúc đã viết tới hai chữ buộc tóc, bàn việc thì đầu trâu mõm ngựa, luận nội dung thì cổ hủ rã rời. Tức thì ông cho rằng, bản di chúc của Tưởng thực ra không phải tự thân lời căn dặn của Tưởng Giới Thạch, mà là Tống Mỹ Linh dùng Anh ngữ khẩu thuật, sau khi ghi chép bằng bút rồi lại dịch ra Hán Ngữ, vai trò của Tần Hiếu Nghi chỉ là đem bản thảo dịch ra tiếng Hán của Tống Mỹ Linh truyền miệng, làm cái việc nhuận sắc, sang sửa mà thôi. Đại để là dưới những tiền đề mà Tống Mỹ Linh đã gật đầu, gọt bỏ đi một số quá ư Tây hóa, khiến cho nó tỏ ra một chút phong thái văn hóa Trung Hoa. Do vì bản di chúc của Tưởng Giới Thạch không phải là tự bản thân Tưởng khởi thảo, sau khi Tần Hiếu Nghi ghi chép xong, Tưởng Giới Thạch cũng không ký tên chính thức, mà là do Tần Hiếu Nghi ký thay, cho nên ngài Lý Ngạo, một học giả nổi tiếng ở Đài Loan có rất nhiều điều nghị luận. Trong bài Bản di chúc của Tưởng Giới Thạch vô hiệu đối với pháp luật ông đã viết: Căn cứ vào điều 1194 Dân pháp Đài Loan quy định: viết thay di chúc, do người di chúc chỉ định từ ba người trở lên làm chứng, do người di chúc kể miệng, di chúc những mục đích, do một trong những người làm chứng viết lại, tuyên đọc, giảng giải, sau khi được người di chúc bằng lòng, ghi rõ ngày tháng năm cùng với tên tuổi người viết thay, được toàn thể những người chứng kiến cùng với người di chúc đồng thời ký tên. Nếu người di chúc không thể ký tên được thì phải in dấu ngón tay để thay thế. Ngày tháng trên bản di chúc của Tưởng Giới Thạch đề ngày 29 tháng 3, là sự việc trước khi chết 7 ngày, lúc đó tại sao không chỉ định ba người trở lên tới chứng kiến, Cùng ký tên vào ? . Tại sao lại chờ sau khi Tưởng Giới Thạch chết rồi mới mạo xuất người chứng kiến tới ký bổ sung ? Đã vừa vi phạm luật pháp lại vừa khó thông. Còn đối với bản di chúc vô hiệu đối với pháp luật này, Quốc dân đảng đã ra lệnh cho thiên hạ Theo Tưởng mà ca tụng ông, điều này chẳng phải là quá lừa dối xỉ nhục dân chúng hay sao ?
    Đối với sự việc sau khi Tưởng Giới Thạch chết mới ký bổ sung vào bản di chúc, trong sách của ông Furuya có ghi thuật như sau: Từ trong hồi ức của ông Điền Quýnh Cảm Viện trưởng Viện tư pháp Đài Loan có thể nhìn thấy được một vết vằn. Điểm Quýnh Cẩm viết: Đúng 1 giờ sớm ngày mồng 6 tháng 4, bầu trời mưa cuồng gió giật sấm chớp đùng đoàng, bỗng nhiên ông nhận được điện thoại đánh từ dinh thự của Tưởng Giới Thạch tới, buộc ông phải lập tức đến ngay. Khi ông tới nơi, lập tức được mời lên lầu hai. Ông nhìn thấy Tưởng Giới Thạch nằm ở trên giường, đắp một tấm chăn đơn, dáng vẻ rất ung dung. Tưởng Kinh Quốc đớn đau khôn xiết chẳng nói nên lời. Khi Điền Quýnh Cẩm với Nghê Văn á, Dương Lượng Công, Dư Tuấn Hiền v.v..cúi mình vái lạy di thể của Tưởng Giới Thạch. Tưởng Kinh Quốc đã từng qùy xuống đáp lễ. Họ đã nhiều lần ngăn cản, Tưởng Kinh Quốc vẫn kiên trì không chịu. Tống Mỹ Linh thì ngồi ở trên chiếc ghế bên cạnh giường, tinh thần đau đớn xót thương, nhưng đã trấn định lạnh lùng, khuyên giải Tưởng Kinh Quốc không được quá đau đớn xúc động. Khi họ hành lễ xong, Tống Mỹ Linh gật đầu đưa ý gửi lời chào hỏi. Điền Quýnh Cẩm trong quá trình chưa nói tới việc ký tên trong văn bản, cũng không bàn tới có sự việc ký tên ngày 29 tháng 3, cho nên ngoại giới nói chung cho rằng, bản di chúc của Tưởng Giới Thạch là bản ký tên bổ xung sau khi đã chết.
    Đối với vấn đề sắp xếp thứ tự giữa Jêsu và Tôn Trung Sơn tiên sinh, các tin đồn có rất nhiều tranh luận. Nghe nói lúc đầu Tưởng Kinh Quốc đã từng phản đối phương thức viết thuật này, thế nhưng Tống Mỹ Linh đã Kiên định bất di, Tưởng Kinh Quốc cũng đành phải bãi bỏ. Đường Nhân tiên sinh căn cứ vào những tin đồn hữu quan, trong cuốn sách Thảo sơn tàn mộng của mình, đã viết:Tưởng Kinh Quốc nhìn thấy Mẫu hậu đặt Jêsu ở trên Tôn Trung Sơn đã lo sợ vội nói rằng:
    - Thưa mẹ, Jêsu là ...
    - Không sao ! Tống đáp - có rất nhiều nhân vật vĩ đại ở Tây Phương, trên di chúc đều có những câu từ cảm kích đối với thượng đế. Cha của anh là một tín đồ Cơ đốc cuồng tín, tự mình tìm người dịch lại Kinh thánh, tự mình có nhà thờ để làm lễ. Một năm bốn mùa còn mời mục sư đến dinh thự giảng đạo. Mấy năm nay chỉ cần có người tới thăm ổng, khi sắp đi là ổng lại tặng khách một bộ kinh thánh. Tình hình này, hẳn anh cũng đã biết, có phải không ?
    - Thưa mẹ, vâng ạ.
    - Tốt, nay mẹ nói để anh biết, Tôn Trung Sơn là Quốc phụ , là người sáng lập ra Đảng ta, là tác giả của cuốn sách Tam dân chủ nghĩa, thế nhưng cha anh đã mấy lần in lại Tam dân chủ nghĩa để tặng cho mỗi vị khách một quyển. Cho dù ở trong Đảng bộ các cấp lại đã có ai đọc nó, lễ bái chưa có ? Có phải không?
    - Điều này ...là, thưa mẹ.
    - Vậy thì, đặt thượng đế lên trên, có điều gì không thoả hử?
    Thái tử không nói gì. Ông quá hiểu rõ, Đài Loan từ nay về sau đều là đất trời của ông. Thế nhưng, trong quá trình Chế tạo ra bản di chúc này, ông không đủ sức tranh giành với Mẫu hậu được, tất thảy đều phải nghe theo bà. Đường Nhân tiên sinh đã đem những tin đồn viết thành câu chuyện, do đó đã có những chi tiết sinh động. Bất kể là Tống Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc có như vậy hay không, đem Jêsu viết vào và đặt lên trước Tôn Trung Sơn tiên sinh là kết quả của sự kiên trì của Tống Mỹ Linh. Điều này đã được đồn đại rất nhiều và rất rộng.
    Rõ ràng là trong di chúc của Tưởng Giới Thạch văn lý không thông, có những chỗ điên đảo vô lối, ngoài một số sai lầm và đã được phê phán ở trên vẫn còn có thể chỉ ra được nhiều chỗ nữa. Thế nhưng dựa vào ý thức tư tưởng mà xét thì cũng đã rõ cả. Một là thổi phồng rùm beng ca ngợi mình, nói bản thân mình là tín đồ trung thực của Tôn Trung Sơn, suốt đời phấn đấu để thực hiện Tam dân chủ nghĩa, thực hiện một quốc gia có nền chính trị dân chủ v.v..Hai là gào thét phản công đại lục giành lại toàn bộ đất đai đại lục, phục hưng văn hóa dân tộc, kiên trì đội hình chiến đấu dân chủ Tinh thần chống cộng đến cùng, dù chết không thay đổi của bản thân ông, còn cần ở bên cạnh đồng chí và sự nghiệp của mình. Trong dinh lũy của Tưởng Giới Thạch có một số lớn phái ngoan cố chống cộng cứng nhắc, Trần Thành đã từng đảm nhiệm qua chức phó tổng thống chính là một trong số đó. Chúng ta từng nói tới có người đã dùng sáu chữ Trung Tưởng, Phản Cộng, ái Quốc để bình giá tương đối chuẩn xác cuộc đời của ông ta, mặc dù vậy, trong bản di chúc mà trước khi Trần Thành chết cũng không thấy nhắc lại Phản công đại lục nữa, còn Tưởng Giới Thạch thì không như vậy, ông coi việc thất bại của đại lục xem như là mối hận mất nước, không phản công đại lục thì không đủ để bình phục nỗi phần hận trong trái tim ông. Chỉ có điều là Sự nghiệp vĩ đại mà trong suốt 25 năm, nửa đời người phần sau của ông vẫn chưa thể làm được, liệu còn có ai có thể thay ông thực hiện được đây ? Trên điểm này, Tưởng Giới Thạch khẳng định là di hận thiên cổ ?



    Phần 9 - Chương 3: Trong quan tài của Tưởng Giới Thạch đặt những cuốn sách nào ?


    11 giờ 50 phút ngày 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch đã qua đời sau khi ốm. Nhà đương cục Đài Loan quy định Quốc tang một tháng bắt đầu từ ngày 6 tháng 4. Ngày 9 tháng 4, linh cữu của Tưởng được chuyển vào Quốc phụ kỷ niệm quán, để cho dân chúng được chiêm ngưỡng dung nhan thi hài trước sau 5 ngày. 8 giờ 5 phút ngày 16 tiến hành nghi thức truy điệu và an táng. Sau nghi thức, linh cữu của ông được chuyển đến Từ Hồ. 12 giờ 50 phút an quàn tại Hành quán chính sảnh.Khi nhập liệm cho Tưởng Giới Thạch, ông mặc áo bào dài và áo ngắn cưỡi ngựa, trên thân phủ Đảng kỳ Quốc dân đảng và Quốc kỳ. Những thứ đem theo vào trong quan tài có 3 tấm huân chương cao nhất khi sinh thời ông được nhận : Huân chương Thái Ngọc, Huân chương Thanh thiên bạch nhật và Huân chương Quốc Quang. Còn có cả mấy cuốn sách mà sinh thời ông thích đọc. Đối với việc trong quan tài đặt mấy quyển sách, là những quyển sách nào, ai đặt những quyển sách ấy, từ ấy đến nay, cách nói không giống nhau. Tưởng Kinh Quốc trong bài ký Một tháng bên linh cữu cha đã viết : Khi phương Đông bừng sáng, tại Tổng y viện Vinh Dân, theo phong tục quê hương, tôi đã mặc quần áo cho cha rồi khoác áo bào dài, áo ngắn cưỡi ngựa, rồi gắn huân chương. Đúng 10 giờ, mẹ tôi đem 4 quyến sách mà cha tôi thích đọc là Tam dân chủ nghĩa , Thánh kinh , Hoang mục cam tuyền và Đường thi, tự tay để vào trong linh cữu, ngoài ra còn có một chiếc mũ dạ pha len và một chiếc ba toong.
    Năm năm sau, tháng 4 năm 1980, trong cuốn sách Một năm khó quên, khi hồi ức lại tình hình lúc khâm liệm cho Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc viết : Đến Tổng y viện Vinh Dân mặc quần áo cho cha, đây là một lần làm việc cuối cùng của người con có thể được bên cạnh cha. Theo tục lệ quê hương, phải mặc 7 chiếc quần, 7 chiếc áo, bao gồm cả áo bào dài và áo chẽn chăn ngựa. Trên người ông có quấn vải tơ, đi bít tất đen, giày da màu đen, đeo huân chương và còn kèm theo 4 bộ sách mà sinh thời cha tôi thích đọc. Đó là các quyển Tam dân chủ nghĩa , Thánh kinh , Hoang mạc cam tuyền và Thơ Đường đặt vào trong quan tài. Ngoài ra còn có mũ dạ, mũ nỉ mỗi thứ một cái, găng tay một đôi, khăn tay một chiếc, ba toong một chiếc. Đây là những vật mà thường ngày cha tôi thường dùng. Trong Một năm khó quên của Tưởng Kinh Quốc, những quyển sách được đặt vào trong quan tài vẫn là mấy quyển sách đó, thế nhưng người đặt sách lại từ Tống Mỹ Linh biến thành bản thân Tưởng Kinh Quốc.
    Điều thú vị là, Báo cáo lễ tang chính thức của nhà đương cục Đài Loan ngày 9 tháng 4 lại hoàn toàn khác với những điều đã kể trên :Linh cữu của cụ Tưởng Tổng thống quyết định chuyển đến Quốc phụ kỷ niệm quán vào chính ngọ ngày hôm nay. 6 giờ sáng tại Tổng y viện Vinh Dân sẽ cử hành tiểu liệm. Tưởng Viện trưởng tuân theo cổ lễ đã mặc áo bào dài màu xanh và áo chăn ngựa chẽn màu đen cho Tổng thống, ngực đeo huân chương lớn Thái Ngọc, bên trái, bên phải là huân chương Quốc Quang và huân chương Thanh thiên bạch nhật. Phu nhân đích thân đem những quyển sách Kinh thánh , Tứ thư , Đường thi , Tam dân chủ nghĩa , Hoang mạc cam tuyền là những quyển sách thường nhật cụ Tưởng thích đọc, cùng với một số vật thường dùng như mũ lễ, ba toong đặt vào trong quan tài, những người trong gia quyến xếp hàng quì xuống vái lạy, khóc tế trước linh cữu. Trong báo cáo Quốc tang này, người mặc quần áo thọ là Tưởng Kinh Quốc, người đặt sách vào là Tống Mỹ Linh. Có người nói, đây là Dao thái đậu phụ - hai mặt sáng. Vấn đề là trong Báo cáo lễ tang chính thức có độ tin cậy rất cao này, 4 quyển sách đã biến thành 5 quyển sách, thêm lên một quyển Tứ thư, một trước tác tiêu biểu cho sự tinh tuý của nền văn hoá Trung hoa.Báo cáo lễ tang là sáng tác tập thể của các nhân sĩ hữu quan phía Nhà nước, đúng ra so với ghi chép cuả Tưởng Kinh Quốc lúc đó ngũ tạng suy tàn tê liệt phải có độ tin cậy cao hơn. Thế nhưng trong tường thuật của Báo cáo lễ tang ngày 16 tháng 4 lại phát sinh mâu thuẫn với tường thuật ngày 9 tháng 4, đó là : 8 giờ tiến hành lễ đại liệm, do Nghiêm Tổng thống chủ tế, các đại viên lễ tang bồi tế, những người dự tế đứng nghiêm tại chỗ, cử ai nhạc, mặc niệm (đồng bào trong toàn quốc thì đứng nghiêm tại chỗ mặc niệm một phút). Sau khi dâng hoa và kính cẩn đọc văn tế, phu nhân, Tưởng công tử Kinh Quốc, thứ công tử Vĩ Quốc và hai tôn công tử Hiếu Vũ, Hiếu Dũng trong đớn đau khổ sở đậy chặt nắp quan tài (khi đậy nắp quan tài, lại đặt thêm một bộ Tứ thư vào trong). 8 đại viên phủ cờ là Trương Quần, Hà ứng Khâm, Cốc Chính Cương, Hoàng Thiếu Cốc, Hoàng Kiệt, Tạ Đông Mẫn, Trần Lập Phu và Tiết Nhạc, cung kính đem cờ Đảng phủ lên trên quan tài. Lại do 8 đại viên phủ cờ là Nghiêm Tổng thống, Nghê Văn á, Điền Quýnh Cẩm, Dương Lượng Công, Dư Tuấn Hiền, Từ Khánh Chung, Vương Vân Ngũ và Vu Vân cung kính đem Quốc kỳ phủ lên trên Đảng kỳ. Toàn thể các nhân viên dự tế hành 3 lần cúc cung vái lễ, lại cử ai nhạc, lễ đại liệm chấm dứt.Trong đoạn tường thuật này, mấu chốt là ở chỗ Khi đậy nắp quan tài, lại đặt thêm một bộ Tứ thư vào trong. Đối chiếu với điều ghi ngày 9 tháng 4 đó, tựa hồ như vốn dĩ ở trong quan tài đã có một quyển Tứ thư rồi, mà nay đặt thêm vào một bộ nữa. Nếu quả thật như vậy thì tại sao lại đặt những 2 bộ Tứ thư vào trong quan tàI ? Là một tín đồ của Thủ tướng, Tam dân chủ nghĩa của Thủ tướng chỉ đặt có một quyển; Là một Tín đồ Cơ đốc cuồng tín, Kinh thánh của Cơ đốc cũng chỉ đặt có một quyển, thế mà Tứ thư lại phải đặt hai quyển, lúc tiểu liệm đặt một quyển, khi đại liệm lại đặt một quyển? Có người từng chỉ trích nói rằng : Có lẽ nào lại đặt thừa một bộ, để cho cụ Tưởng ăn hay sao? Tình hình thực tế có khả năng là, lúc tiểu liệm ngày 9 tháng 4, sách đặt vào chỉ có 4 quyển, không có quyển Tứ thư, đến khi đại liệm ngày 16 tháng 4 đã đặt thêm quyển Tứ thư này. Sách ở trong quan tài của Tưởng Giới Thạch tới ngày 16 tháng 4 mới biến thành 5 quyển.Thế thì tại sao khi tiểu liệm ngày 9 tháng 4 trong quan tài không có Tứ thư mà lại viết là có Tứ thư. Tại sao lúc đại liệm ngày 16 tháng 4 lại đặt thêm một quyển Tứ thư vào trong quan tài? Có người bình luận nói : Tưởng Giới Thạch luôn luôn rùm beng bản thân mình là đại biểu của nền văn hoá Trung Hoa, suốt đời dốc sức cho việc phục hưng nền văn hoá dân tộc. Nếu như trong những quyển sách mà ông thích đọc lúc sinh thời, lại không có quyển Tứ thư đại biểu cho nền văn hoá chính thống Trung quốc, hoá chẳng phải là chuyện nực cười tày trời hay sao? Cho nên đem quyển Tứ thư liệt vào một trong những quyển sách mà Tưởng Giới Thạch thích đọc nhất lúc sinh thời, vội vội vàng vàng nhét vào trong quan tài, quả thật là muốn lừa dối công chúng, cũng là muốn bổ sung thêm hình tượng cho Tưởng Giới Thạch. Giả định đúng là khi đại liệm ngày 16 tháng 4 có đặt thêm một quyển Tứ thư vào, vậy thì ai đặt ? Ai khi đậy nắp quan tài đã đem bộ trước tác quan trọng này đặt vào trong quan tài của Tưởng Giới Thạch?
    Trong cuốn Ghi chép thực về nỗi đau buồn của cụ Tưởng Tổng thống do Trung ương nhật báo Đài Loan xuất bản có điều viết về ngáy 16 tháng 4 như sau : Hôm nay là một ngày đại lễ an táng thi thể cụ Tưởng Tổng thống .Sáng sớm, hai vị công tử của cụ Tưởng, Tưởng Kinh Quốc Viện trưởng và Tưởng Vĩ Quốc Tướng quân dẫn toàn thể gia thuộc là ái tôn Hiếu Vũ, Hiếu Dũng của cụ Tưởng, đem một bộ sách Tứ thư mà sinh thời cụ Tưởng rất thích đọc, yên lặng đặt ở bên cạnh cụ Tưởng, đồng thời còn mặc áo bào màu xanh, áo chẽn màu đen và đeo huân chương lên thi hài của cụ, lại phủ thêm vải liệm màu trắng cho cụ. Sau đó họ đều quì trước linh cữu, cung kính cử hành đại lễ 3 lần quì, 9 lần vái. Sau khi đứng dậy diễu quanh quan tài 3 vòng, những dòng nước mắt nóng hổi nhỏ xuống, cuối cùng đã phát thành tiếng khóc đau khổ, nức nở. Kể từ khi cụ Tưởng tạ thế, trong 10 ngày lại đây, trước linh cữu này đã tuôn trào những dòng lệ nóng hổi của hơn 2 triệu quần chúng tới chiêm ngưỡng cụ. Hiện tại, những giây phút trước khi cử hành đại lễ , hơn 2.800 vị nhân sĩ trong và ngoài nước lần lượt tiến vào linh đường, chỉ có sự tĩnh mặc của sự trầm lắng sâu xa...Đúng 8 giờ sáng, Tưởng phu nhân do Tưởng Viện trưởng và Tưởng Vĩ Quốc tướng quân dìu, chầm chậm từ phía đông tiến lên lễ đài. Lễ đại liệm chôn cất cụ Tưởng Tổng thống đã long trọng bắt đầu.
    Đoạn tường thuật này đã chứng tỏ một cách rõ ràng, Tứ thư là do Tưởng Kinh Quốc và Tưởng Vĩ Quốc v.v...cùng bỏ vào trong quan tài. Vấn đề là ở chỗ, trong Ghi chép một tháng bên linh cữu cha và Một năm khó quên của Tưởng Kinh Quốc đều không thấy nêu ra việc đặt bộ Tứ thư vào, cho nên cuối cùng có đặtTứ thư vào hay không vẫn còn là một nghi án, một câu đố. Một vấn đề khác nữa là, trong bài báo tường thuật ở trên, người đặt sách tuy đã được ghi chép rõ ràng, thế nhưng thời gian đặt sách vào là ở buổi sớm, với thời gian đậy nắp quan tài mà Báo cáo tang lễ kể thì đã có sự thêm bớt không khớp rất lớn, bởi vì khi đậy nắp quan tài cần phải phủ đậy Đảng kỳ, phủ đậy Quốc kỳ, có rất nhiều đại viên bận rộn trước sau, có các vị tân khách trong và ngoài nước, vây trái, quây phải, Tống Mỹ Linh không thể không có mặt ở đó, mà trong bài tường thuật ở đoạn trên lại nói sáng sớm bỏ sách Tứ thư vào. Đúng 8 giờ sáng Tống Mỹ Linh mới tới trước linh cữu, có ý nói là lúc đặt sách vào, Tống Mỹ Linh thực tế đá không có mặt ở đó.
    Nói tóm lại trong quan tài của Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đặt 4 quyển sách hay là đặt 5 quyển sách? đặt vào ngày nào ? ai đặt vào ? là một mớ hồ đồ khó hiểu. Chẳng trách Hồ Thu Nguyên đã hoà nhã có lời khuyên : Mong các phía hữu quan từ nay về sau hãy nên thận trọng hơn để tránh cho ngoại giới cho rằng Trung Quốc tự do là vô nhân. Các học giả đại lục và các nhân viên nghiên cứu phần lớn đều sử dụng cách nói của Tưởng Kinh Quốc, tức là chỉ đặt vào trong quan tài có 4 quyển sách là Tam dân chủ nghĩa , 300 bài thơ Đường , Thánh kinh và Hoang mạc cam tuyền.Đối với các độc giả đại lục mà nói, trong các sách kể trên, tương đối xa lạ là Hoang mạc cam tuyền. Từ trong tên của cuốn sách có chút vị tản văn này, không ít người đã cho rằng nó là một cuốn sách kể lể như loại du ký mang tính chất khu vực, kỳ thực đó là một cuốn sách tuyên truyền giáo nghĩa đạo Cơ đốc, một cuốn sách mang tính triết lý tương đối mạnh, nó là một quyển sách được tổ thành do từng câu nói giàu tính triết lý bà ra la liệt, hành văn và cách thức đều rất giống như Luận ngữ. Nọi dung của nó phần lớn là động viên con người không ngừng phấn đấu, dũng cảm vươn lên trong mọi nghịch cảnh.Tháng 7 năm 1944 Tưởng Giới Thạch có được quyển sách Hoang mạc cam tuyền này, chuyên tâm miệt mài đọc nó, yêu thích không lúc nào rời tay. Sau khi tới Đài Loan càng đòi hỏi mình mỗi ngày đều phải đọc. Tưởng muốn dùng quyển sách này để tu dưỡng linh hồn và tính cách của mình, tận mọi khả năng để nâng cao năng động tính của con người, từ đó chiến thắng mọi cửa ải khó khăn gian khổ, trăm nghìn trắc trở cũng không sờn lòng. Ngày 3 tháng 1 năm 1945, trong lời phê và ghi chú khi đọc sách, Tưởng đã nói về ảnh hưởng của cuốn sách này đối với ông như sau : Cuối năm ngoái, chịu đựng đủ mọi nỗi gian nguy, mà vẫn kiên nhẫn không đổ ngã, vẫn bình tĩnh vượt qua, thực sự sức mạnh từ trong sách này không ít...Trong cuốn Tưởng Giới Thạch truyện, Vương Phủ Dân tiên sinh nói : Tưởng Giới Thạch không những hấp thụ được sức mạnh tinh thần từ trong Hoang mạc cam tuyền, mà năm 1965 đã đem cuốn sách này truyền cho Tưởng Kinh Quốc và còn bắt Tưởng Kinh Quốc sao chép toàn bộ tất cả những lời phê phán, bình chú của mình ở trong quyển sách này.



    Phần 9 - Chương 4: Tại sao Tưởng Giới Thạch không an táng xuống đất mà lại quàn tạm ở Từ Hồ ?


    Trong tục chôn cất truyền thống ở Trung Quốc, chôn xuống đất là an, mà đem quan tài quàn tạm ở một chỗ gọi là đặt linh cữu (quàn) đợi táng. Ngày 16 tháng 4 năm 1975,s au nghi thức đại liệm, linh cữu của Tưởng Giới Thạch được quàn tạm ở chính sảnh hành quán của Từ Hồ, mà chưa an táng xuống đất.
    ở Đài Loan, Tưởng Giới Thạch có 47 tòa hành quán, Từ Hồ là một trong những hành quán mà ông thích nhất.Từ Hồ nằm ở huyện Đào Viên cách phía nam Đài Bắc 60 cây số, ở chỗ giáp giới thị trấn Đại Khê với làng Phục Hưng. Từ Hồ trước kia gọi là Bì Vĩ, mà Bì Vĩ sở tại được dân làng gọi là Động Khẩu.
    ở Đài Loan, bờ biển phía Tây, phía Bắc, phía Nam phần lớn là những bãi cát bằng phẳng hoặc những đồi núi thấp phẳng; bờ biển phía tây phần lớn vách núi dựng đứng. Miền trung lại là tầng tầng lớp lớp dãy núi lấy dãy núi Ngọc Sơn làm chủ thể, cách trở đông tây, giao thông vô cùng bất tiện. Nhà đương cục Đài Loan, vì cải thiện việc giao thông ở khu vực miền trung, tăng cường sự liên hệ giữa hai miền đông tây, bắt đầu từ giữa năm 1950 trở di đã đại tu đường quốc lộ xuyên ngang miền trung đảo Đài Loan, trước sau tổng cộng đã tu sửa thành 8 con đường. Bì Vĩ sở dĩ được gọi là Động Khẩu (cửa hang) chính là bởi vì nó nằm ở chỗ cửa vào đường hầm đường quốc lộ xuyên ngang đoạn phía bắc. Đường hầm được đặt tên là Bách Cát, thế nhưng dân chúng lại gọi nơi đây là Động Khẩu, hơn nữa tên gọi cũ này vẫn được bảo lưu, công ty vận chuyển khách quốc lộ Đào Viên đã xây dựng một trạm nhỏ ở đây, tên trạm được gọi là Động Khẩu.Trên mặt quản lý hành chính, Bì Vĩ thuộc Phúc An Lý cuả thị trấn Đại Khê. Phúc An Lý nằm ở trong một dãy núi thấp xen kẽ thú vị, núi Thảo Lĩnh kề bên, núi Bạch Thạch ở phía đông, núi Thạch Ngưu ở phía Nam, cùng với các núi như núi Sáp Thiên, núi Giác Bản, núi Lạp Lạp v.v.. ở xa hơn một chút vây tròn bốn xung quanh. Làng Phúc An (Phúc an lý) có hơn một ngàn cư dân, chủ yếu làm nghề nông. ở trong những hẽm núi xa gần đều là tầng tầng ruộng bậc thang, trong những khoảng không của ruộng bậc thang trồng rất nhiều trúc, cây long não, nhà nông nửa ẩn nửa hiện, dưới khe núi nước chảy róc rách trong suốt nhìn thấy đáy, cảnh trí cực kỳ u nhã tĩnh mịch. Bì Vĩ vốn là cái hồ ở dưới chân núi Giác Bản làng Phúc An, Hồ trước tương đối lớn ước độ 5 héc ta, hồ sau hơi nhỏ, tương đối hẹp và dài. Giữa hai hồ trước sau vắt ngang một dãy núi xanh thẳm nhưng lại có một dòng nước nối liền. Hồ như ở trong núi, luôn luôn bao phủ một tầng sương mù, đỉnh núi xanh thắm xuyên sương mù xuất hiện ra, trên đỉnh núi thường hiện ra quang cảnh như cánh thuyền nổi trên biển mây. Sườn phía nam hồ lớn có một con đê dài, thẳng liền với quốc lộ vắt ngang. Đầu năm 1960, khi Tưởng Giới Thạch đánh xe tới thăm núi Giác Bản qua làng Phúc An, nhìn thấy một khoảnh đất linh thiêng tú lệ như vậy, vô cùng yêu thích. Đặc biệt là ở chỗ cao con đường quốc lộ giữa núi đưa mắt nhìn thấy thị trấn Đại Khê ở cạnh con suối Đại Hán, có cảm giác như từ trên vách đá cao ngàn trượng của Phụng Hóa nhìn sang thị trấn Khê Khẩu, không những có cảnh sắc cuả Thủy Hương Giang Nam, hơn thế còn lờ mờ một ảo giác chỗ ở cũ Khê Khẩu. Ông ngước mắt nhìn thắng cảnh non xanh hồi tưởng đến bà mẹ Vương Thái phu nhân của mình, do đó đã đem Bì Vĩ đổi tên thành Từ Hồ và xây dựng hành quán ở đây. Trong Một tháng coi sóc linh cữu cha Tưởng Kinh Quốc đã từng viết: Tấm thân này trú ngụ ở Từ Hồ Đài Loan, con tim này lại tưởng nhớ tới từ am của tổ mẫu ở cố hương ...cha tôi đã đặt tên công trình kiến trúc nhỏ này là Từ Hồ, ý tứ của người là để kỷ niệm tổ mẫu đó vậy.
    Từ Hồ hành quán ba mặt là núi vây quanh, trong rừng cây xanh rậm rạp có một góc Hồng Lâu. Cửa chính là hai cánh cửa lớn sơn đen, trên cửa khắc một đôi vòng đồng đầu sư tử, sắc cổ hương cổ, ở chính giữa khuôn cửa treo tấm biển gỗ Từ Hồ tự tay Tưởng Giới Thạch viết, biển hồng thẫm như vàng.Sau khi vào cửa phân ra hai đường hành lang bước lên từng bậc, hai bên là nhà ngang, phía trước sân chơi là chính sảnh, hai bên nhà sảnh đều có hai gian phòng trên. Trước và sau hành quán, mỗi bên đều có một chiêu đãi sở, là nơi cho các tân khách nghỉ ngơi, phía trước là nhà băng, phía sau là nhà lầu, lưng đều dựa vào núi giác bản mặt nhìn ra hồ nước. Sau khi hành quán của Tưởng Giới Thạch xây dựng xong, Bì Vĩ cũng được tu chỉnh, trên bờ hồ đều trồng hoa cỏ, đa cọ, liễu rủ, cong thẳng thông u, trên hồ có con thuyền gỗ hai mái chèo, cũng có ca nô chạy. Trên sân chơi hành quán của Tưởmg có một con đường núi mòn có thể chạy thẳng ra bờ hồ, những năm cuối Tưởng thường đi dạo chơi, đọc sách, thủng thẳng nhàn tản giữa cảnh nước non này. Phong cảnh Từ Hồ tú lệ, thế nhưng nguyên nhân chủ yếu khiến cho Tưởng chú tâm vào nơi này còn là cảnh đẹp núi xanh suối biếc của Từ Hồ gần giống như Khê Khẩu làng cũ của Tưởng.
    Năm 1930, khi Tưởng Giới Thạch trùng tu mộ của Mẫu vương Thái ngọc, ông đã từng nói bản thân mình phải chọn một mộ địa ở Khê Khẩu, chuẩn bị cho sau khi trăm tuổi. Được biết như vậy, có người nói sau khi Tưởng Giới Thạch chết sở dĩ còn quàn tạm tại Từ Hồ chính là vì để sau này có thể lại đem linh cữu của mình chuyển về Phụng Hóa, chôn ở bên cạnh người mẹ đã sinh ra ông. Vậy mà, trước khi lâm chung Tưởng Giới Thạch căn dặn rõ ràng Linh cữu tạm thời quàn tại Từ Hồ, đợi sau khi quang phục sẽ táng tại lăng Trung Sơn, sẽ cùng với Tôn Trung Sơn tiên sinh coi sóc lẫn nhau. Thế mà, trong quyết nghị của ủy ban thường vụ Trung ương ngày 7 tháng 4 Quốc dân đảng, lại nói chờ sau khi quang phục sẽ an táng tại đại lục, không hề nói rõ an táng cụ thể ở chỗ nào. Nên nói rằng, cả ba cách nói kể trên, đại để đều là đúng cả, bởi vì chúng đều khẳng định, sở dĩ Tưởng Giới Thạch chôn tạm quan tài ở Từ Hồ là vì trong tương lai phản công đại lục, quang phục đại lục, là quyết kế đem mình chôn ở đại lục mà không phải ở Đài Loan.Trong Tưởng Kinh Quốc truyện, Giang Nam tiên sinh nói: Phản công đại lục chỉ là một truyện thần thoại, từ đầu chí cuối, ông Tưởng không có dự định này, thế nhưng do vì những thần thoại chính trị này, những lời hứa công trái này, những con người thần thoại này, có lợi cho nền thống trị của tập đoàn Quốc dân đảng, nên ông mới hết sức lợi dụng. Lời kết luận của Giang Nam tiên sinh có từ tháng 3 năm 1984, trong lời nói chuyện của ông trong lần tới thăm Ngô Quốc Chinh tiên sinh ở châu Maiami bang Florida. Ngô Quốc Chinh nói với Giang Nam, ông ấy cho rằng đầu năm 50 Đài Loan chỉ có thể công, không thể thủ, trường kỳ đối địch cuối cùng sẽ bị thất bại; Tháng 12 năm 1950, chí nguyện quân nhân dân Trung Quốc xuất quân sang Triều Tiên, sau khi công bố tin tức này, Ngô Quốc Chinh Chủ tịch tỉnh Đài Loan đương nhiệm lập tức tới gặp Tưởng Giới Thạch, yêu cầu triển khai hành động quân sự với đại lục, phái cử quân đội tiến lên đảo Hải Nam, Tưởng Giới Thạch bằng lòng suy nghĩ kỹ rồi sẽ nói. Sau ba ngày nhắc lại chuyện cũ, Tưởng Giới Thạch nói sơ sài qua quýt với Ngô: Ông không phải là quân nhân, không hiểu được việc quân sự. Tức thì Ngô Quốc Chinh cho rằng vịệc phản công đại lục của Tưởng Giới Thạch chỉ là điều nói suông mà thôi, từ trước tới sau, ông ta không có dự định này. Kỳ thực, cách nói này rất có chỗ xoay sở để thương lượng. Năm 1950, thậm chí suốt cả năm 1950, quân đội Quốc dân đảng qua thất bại thảm hại ở đại lục mà đã mất hết nguyên khí. Công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển xã hội của đại lục đã sôi sục hàng ngày, Tưởng Giới Thạch muốn phản công đã không có điều kiện vững mạnh lại chẳng có cơ sở xã hội tương ứng. Cho nên điều Tưởng Giới Thạch phê bình Ngô Quốc Chinh không hiểu quân sự lúc đó phải nên nói là điều đã tự biết rõ mình rồi, thế nhưng điều này không thể nói rõ Tưởng Giới Thạch không dự định phản công đại lục. Di chúc của Tưởng Giới Thạch và các công việc tiến hành điều tra, thăm dò, bao vây, phá hoại mà ông chỉ đạo quân đội đối với đại lục đều nói rõ ông luôn luôn khắc cốt ghi xương muốn phản công chiếm lại đại lục, quàn tạm quan tài đợi chôn cất cũng là biểu hiện nội dung chủ yếu trong bản di chúc chính trị của ông già chính trị này. Không phản công chiếm lại đại lục, không giành lại giang san đã mất, thì Tưởng Giới Thạch có chết cũng không nhắm được mắt. Về điểm này, trong nhật ký ngày 4 tháng 5 năm 1975 của Tưởng Kinh Quốc cũng đã có thể được chứng minh.Trước buổi trưa, từ núi Giác Bản trên Từ Hồ, hai bên đường tuy cây xanh trúc thắm, núi biếc lúa non, ở đây thực sự là cảnh tự nhiên tuyệt đẹp. Thế nhưng nhìn thấy bạn nhà nông chai tay chai chân làm việc đồng áng, tôi đặc biệt cảm thấy họ vô cùng gian khổ. Ngồi lặng lẽ trên mai đài, nhìn núi non đồng ruộng trùng trùng điệp điệp, làng xóm thưa thớt, bỗng tôi hồi tưởng lại người cha năm ấy (chỉ năm 1967-người viết ghi chú) ... đã dạy con rằng: Thù riêng có thể không trả, thù lớn không thể không trả. Bởi vì thù riêng là thù của cá nhân, thù lớn là thù của đất nước, của nhân dân, của dân tộc. Đại trượng phu có thể không tính đến thù riêng, nhưng không thể không báo trả đại thù của dân tộc của đất nước được !. Điều nung nấu mộng mỵ cầu đạt trong suốt nửa cuộc đời sau của Tưởng Giới Thạch chính là chiếm lại đại lục, xây dựng lại vương triều nhà Tưởng. Thế nhưng không những khi ông qua đời, nguyện vọng này chưa thực hiện được, khi con trai ông là Tưởng Kinh Quốc qua đời cũng chưa thực hiện được, lịch sử có thể bảo cho ông biết điều sau cùng. Công việc Quang phục đại lục của ông là một giấc mộng không thể viên mãn được ! Có điều linh cữu của Tưởng Giới Thạch sẽ có một ngày có thể an táng tại đại lục được, đó chính là sau khi tổ quốc được hòa bình thống nhất.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by ThaoMy Sat Dec 07, 2013 1:15 am

    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế

    Tác giả: nhiều tác giả

    Phần 9 - Chương 5: Gia đình họ Tưởng trước và sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời



    Để cho Tưởng Kinh Quốc bước vào trung tâm chính trị của Đài Loan là dự kiến vốn có từ lâu của Tưởng Giới Thạch. Sau khi binh bại ở đại lục trốn ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch càng tăng cường công tác bồi dưỡng và dìu dắt về phương diện này. Đầu năm 1950, Tưởng Kinh Quốc được cử giữ chức Thượng tướng chủ nhiệm Tổng bộ chính trị Bộ Quốc phòng, chủ nhiệm Đoàn thanh niên chống cộng cứu nước Trung Quốc cùng với chủ nhiệm Phòng tư liệu phủ tổng thống lãnh đạo ủy ban công tác tình báo Đài Loan. Cuối năm 1950, Tưởng Kinh Quốc là ủy viên quốc vụ viện kiêm Chủ nhiệm ủy ban phụ đạo thoái trừ binh dịch quân đội nhà nước Viện Hành chính, chính thức nhập vào nội các, là quan chức cấp bộ quan trọng. Đầu năm 1960, Tưởng Kinh Quốc làm chủ Bộ quốc phòng, trở thành nhân vật gần chính yếu. Cuối năm 1960, ông đã là Phó viện trưởng Viện hành chính, mà Viện trưởng do phó tổng thống Nghiêm Gia Cán kiêm nhiệm. Trên thực tế, lúc này Tổng thống là lão Tưởng, Viện hành chính là Tiểu Tưởng quản giữ.
    Ngày 20 tháng 2 năm 1972, sau khi Tưởng Giới Thạch một lần nữa trúng cử Tổng thống, ngày 1 tháng 6 lập tức ủy nhiệm Tưởng Kinh Quốc làm Viện trưởng viện hành chính, hoàn thành được một bước quan trọng nhất trong việc chuyển giao quyền lực. Do vậy, Tưởng Giới Thạch vừa chết, ngày 28 tháng 4, Hội nghị ủy ban Trung ương Quốc dân đảng liền suy cử Tưởng Kinh Quốc làm Chủ tịch Trung ương Quốc dân đảng, từ nhân vật gần chính yếu biến thành nhân vật trung tâm. Ba năm sau , ông thay thế Nghiêm Gia Cán lên làm Tổng thống, thực hiện được di nguyện của Tưởng Giới Thạch.
    Khi Tưởng Giới Thạch vừa bệnh ốm qua đời, Đài Bắc đã phát biểu hai cuốn trước thuật quan trọng của Tưởng Kinh Quốc, một là cuốn ông viết về Người cha của tôi năm 1956, hai là cuốn Ghi chép một tháng bên linh cữu cha viết từ ngày 5-4 đến 5-5-1975. Cuốn thứ nhất đăng tải liên tục trên Trung ương nhật báo bắt đầu từ ngày 10 tháng 4, trong đó có lời tựa nói rằng khi sinh nhật Tưởng 70 tuổi, Tưởng Kinh Quốc đã viết văn hiến dâng cha làm lễ thọ. Thế nhưng số lượng in có hạn, chưa phát hành rộng rãi được ra ngoài, rất nhiều người muốn được đọc cuốn sách này, đến nay vẫn chưa có cơ hội. Kể từ hôm nay trở đi bản báo cáo sẽ đăng lại.
    Người cha của tôi dài tới hơn tám vạn chữ chủ yếu miêu tả những phong công vĩ tích của Tưởng Giới Thạch đối với quốc gia, đối với dân tộc, thế nhưng cũng đã bộc lộ ra rất nhiều những tình tiết đáng quan tâm của các sự kiện trọng đại, như ẩn cư ở Khê Khẩu, ăn cắp vàng chuyển đi, chạy trốn khỏi Trùng Khánh Thành Đô v.v..Người cha của tôi còn tập hợp ghi chép rất nhiều bài nói chuyện và nhật ký của Tưởng Giới Thạch, Tưởng Giới Thạch thường xuyên kể mình đã học tập Ông Tằng Văn Chính như thế nào, yêu cầu Tưởng Kinh Quốc nghiên cứu học tập Tằng Quốc Phiên.
    Ghi chép một tháng coi giữ linh cữu cha là ghi chép nhật ký của 31 ngày sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời. Trong 31 ngày đó, đúng là lúc hai tập đoàn ở Đông Dương - Nguyễn văn Thiệu ở Sài Gòn và Lon Nol ở Căm pu chia, trải qua những ngày binh bại như núi lở đất sụp, tan rã tơi bời, cũng đúng là những ngày mà những người đứng đầu nước Mỹ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, Lon Nol ôm đầu lủi chạy như chuột. Sự thất bại triệt để và tháo chạy thảm hại của chúng gợi nhớ những hồi ức đau đớn thảm thương của Tưởng Kinh Quốc đối với việc vương triều nhà Tưởng bị tống cổ khỏi đại lục năm nào. Trong Ghi chép coi giữ linh cữu dài hơn vạn chữ đó, Tưởng Kinh Quốc đã ghi lại những cảm tưởng đau khổ của mình nói: Tưởng Giới Thạch sau khi qua đời, cục thế đã phát sinh đại biến, tình thế châu á xấu đi thê thảm nhanh chóng, mặt trận chống cộng ở bán đảo Trung Nam đã bị giải thể, thời cơ chiến đấu ở bán đảo Triều Tiên ngày càng xấu đi nghiêm trọng, điều này thực sự là nỗi đau môi hở răng lạnh. Ông ta lại viết: Trước hết con người ta phải cầu lấy sự sinh tồn và yên định, mới có thể có chỗ xoay xở của vận mệnh. Đông Nam á đã trở thành đại bi kịch, điều tiếp tục đến nữa có thể là còn có không ít bi kịch lớn hơn. Chính phủ Việt Nam đã đầu hàng Việt Cộng, điều này chính là 38 năm trước (năm 1949- người viết chú thích) từ khi chính phủ ta bị đuổi ra khỏi đại lục đến nay là một lần đại bi kịch của nhân loại. Hôm nay nghĩ tới Sài Gòn rơi vào tay Việt Cộng, thật quá đau lòng. Sự việc này tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến thế cục, tất nhiên ta cần phải kiểm thảo tường tận trên mặt ngoại giao và chính trị của mình. Tưởng Kinh Quốc cần phải: Nghiêm trang kính cẩn tự cường, gặp biến không kinh sợ.
    Ngày Tưởng Giới Thạch qua đời hôm ấy, Tưởng Kinh Quốc đã từng ba lần tới thăm viếng, đã từng giao đàm với cha, đại để có thể nói là coi sóc hầu hạ ở bên cạnh cha. Thế nhưng trong lúc đó Tưởng Vĩ Quốc đang bận rộn ở khu vực Đài Trung tiến hành diễn tập quân sự, bởi quân lệnh trên hết mà chưa thể trở về vĩnh biệt cha, sau đó, khi ông ta vội vàng trở về Đài Bắc thì Tưởng Giới Thạch đã qua đời từ lâu rồi, việc ký trên di chúc cũng không có phần của ông. Về sau với danh nghĩa của mình ông đã phát biểu một bài văn chương mang tính chất điếu niệm. Bất kể thân thế lai lịch Tưởng Vĩ Quốc như thế nào, thời thơ ấu ông đã từng nhận được sự yêu mến của Tưởng Giới Thạch. Sau này, khi Tưởng Giới Thạch dốc toàn lực thu vén vun trồng cho người con cả, Tưởng Vĩ Quốc là con thứ nhận được sự lạnh nhạt. Đặc biệt là sau Sự kiện binh biến Hồ Khẩu phát sinh ra ngày 21 tháng 1 năm 1964, trong giới quân sự, giới chính trị ông đều không được nắm giữ đại quyền. Bởi vì lúc đó ông là tư lệnh bộ đội thiết giáp, mà nhân vật chính trong vụ binh biến là trợ thủ của ông - phó tư lệnh Triệu Chí Hoa, ông là cấp trên trực tiếp cũng khó thoát khỏi liên lụy.
    10 giờ sáng ngày hôm đó, phó tư lệnh bộ đội thiết giáp quân Quốc dân đảng Đài Loan Triệu Chí Hoa khi lên đài phát biểu chào mừng về việc tới kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của sư đoàn Thiết giáp thuộc căn cứ Hồ Khẩu, đột nhiên phát biểu diễn thuyết bất ngờ khiến cho người ta không thể tưởng tượng được. Nội dung chủ yếu là: Tình hình quốc tế bất lợi cho nhà đương cục Đài Loan, chính sách ngoại giao của Quốc dân đảng có nguy hiểm sa vào chỗ bị cô lập. Trước mắt các tướng lĩnh quân sự cao cấp chỉ chăm lo hưởng thụ sinh hoạt của mình, không kể gì đến đời sống bộ đội. Đàn chó mà Châu Chí Nhu Tham quân trưởng phủ tổng thống đang nuôi, tiền tiêu phí mỗi tháng còn nhiều hơn mức ăn của cả một đại đội. Việc tuyển chọn các tiểu thư Đài Loan đã khuyến khích cuộc sống xa xỉ, bản thân các tiểu thư cũng trở thành đối tượng truy cầu của con em các quan chức cao cấp. Bộ đội thiết giáp là quân tinh nhuệ của đất nước, cũng đã từng là Ngự lâm quân trấn giữ Đài Bắc, lý ra nên vươn thẳng mình mà đi. Trong diễn thuyết hơn một tiếng đồng hồ, Triệu Chí Hoa đã rút súng lục ra bắn lên trời hai phát, hiệu triệu Hãy đi theo tôi! Triệu Chí Hoa đã bị bắt, thi hành theo quân pháp, Tưởng Vĩ Quốc cũng đã mất quyền chỉ huy quân sự, chuyển sang hệ thống giáo dục và nghiên cứu quân sự, trước sau đã nhậm chức Hiệu trưởng trường Đại học chỉ huy tham mưu lục quân, Hiệu trường trường Đại học tam quân và Viện trưởng học viện chiến tranh.
    Tháng 5 năm 1980, Tưởng Vĩ Quốc chuyển sang đảm nhiệm chức Tổng tư lệnh bộ tổng tư lệnh tham mưu liên hợp cần vụ, kết thúc doạn đời giáo dục quân sự trong 18 năm, thế nhưng vẫn không có quyền chỉ huy thực tế. Đối với việc bản thân mình bị đuổi khỏi vị trí chỉ huy, Tưởng Vĩ Quốc rất bất mãn, tuy không có sự đối kháng công khai, thế nhưng ấm ức oán trách thì luôn luôn có. Nghe nói có một lần Tưởng Vĩ Quốc nói với Tưởng Giới Thạch: Trong các tướng lĩnh quân sự của Trung hoa dân quốc có hai người trước sau không đựoc chuyển ngành và lên chức. Người thứ nhất là cha (Tưởng Giới Thạch là thượng tướng đặc cấp năm sao, là quân hàm cao nhất quân đội Quốc dân đảng), người thứ hai là con (từ năm 1961 Tưởng Vĩ Quốc làm trung tướng. Sau đó không hề được thăng chức). Nhìn chung có thể nói, Tưởng Vĩ Quốc ở Đài Loan đã chịu sự bài xích lâu dài của Tưởng Kinh Quốc.
    Nhưng đến tháng 6 năm 1986, Tưởng Vĩ Quốc được bổ nhiệm làm Bí thư trưởng ủy ban An toàn quốc gia thời kỳ động viên dẹp bạo loạn. Đây là một chức vụ quan trọng có sức mạnh ràng buộc nhất định đối với cả bốn hệ thống Đảng, Chính quyền, Quân sự và kinh tế. Đây là sự sắp xếp công việc chính trị về sau quan trọng của Tưởng Kinh Quốc. Bởi vì bệnh đái đường lâu năm của ông ta lúc này ngày càng có xu hướng nghiêm trọng, tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi nhanh chóng, ông ta có khả năng sẽ chết bất kỳ lúc nào bởi bệnh xuất huyết lớn trong nội tạng, do đó ông cần phải suy nghĩ đến việc sắp xếp nhân sự về sau của ông ta để ổn định cục diện chính trị Đài Loan. Tưởng Kinh Quốc cảm thấy Tưởng Vĩ Quốc lúc này đã là ngọn cờ của phái nguyên lão, lại là hiệu trưởng của rất nhiều tướng lĩnh, ông nhận thấy rằng em trai mình có thể giúp đỡ một số người mới như Lý Đăng Huy, Lý Hoảng, Du Quốc Hoa, Trần Lý An, Tống Sở Du v.v... duy trì củng cố lại chính cuộc Đài Loan. Lập tức, ông ta liền đặt Tưởng Vĩ Quốc lên trên vị trí của Giám quốc. ở thời kỳ Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc, ban an toàn quốc gia chỉ là cái thứ hữu danh vô thực, không mấy tác dụng, thế nhưng sau khi họ qua đời, ủy ban này đã có tác dụng cân bằng, chỉ đạo công tác Đảng Chính Quân Kinh của Quốc dân đảng, giúp đỡ Lý Đăng Huy nhanh chóng đứng vững trên thượng tầng Quốc dân đảng trong lúc rất nhiều thế lực đấu đá nhau, Tưởng Vĩ Quốc đã hoàn thành được sự ủy thác nặng nề Giám quốc mà anh trai mình đã giao phó.Thế nhưng việc đời như một bàn cờ, mỗi nước cờ đều mới cả. Trên thượng tầng Quốc dân đảng Đài Loan mấy năm gần đây đấu tranh kịch liệt, không ngừng tiến hành phân phối lại quyền lực từ đầu, Tưởng Vĩ Quốc đã sắp xếp lịch trình sau cùng của mình như thế nào còn là một câu đố chưa giải được.
    Kể từ khi Tưởng Giới Thạch cố ý vun trồng xây đắp cho Tưởng Kinh Quốc, khiến cho ông ta từng bước đi vào trung tâm vũ đài chính trị, thì địa vị của Tống Mỹ Linh đã bắt đầu hạ thấp. Cho dù Tống Mỹ Linh cho rằng theo Tưởng Giới Thạch dần dần bước vào cảnh già, bà so với Tưởng Giới Thạch kém hơn mười tuổi phải được làm chủ Đảng làm chủ chính quyền, đối với việc vun trồng bồi dưỡng Tưởng Kinh Quốc thì không nên như vậy. Thế nhưng bà đã không quản nổi gia đình của Tưởng Giới Thạch, bà đã không thể cải biến nổi chủ ý của ông già kiên cường, cương nghị, cố chấp, thậm chí tàn ác giảo trá, độc đoán chuyên quyền, chỉ cho mình là trung tâm này, đành giương mắt nhìn Tưởng Kinh Quốc vây cánh phát triển đầy đủ. Do đó năm tháng sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời, bà đã sang Mỹ chữa bệnh, bắt đầu phiêu bạt ở tận chân trời xa lạ.
    Ngày 17 tháng 9 năm 1975, Tống Mỹ Linh sang Mỹ điều trị bệnh, đã phát biểu một bài viết, giọng điệu bi ai thống thiết, ẩn ý giấu giếm rất nhiều, khiến cho mọi người phải dò xét phán đoán về tâm dạ của bà lúc đó cùng với mối quan hệ của bà với Tưởng Kinh Quốc. Bài phát biểu trên giấy của Tống Mỹ Linh mở đầu đã nói:Mấy năm gần đây, tôi liên tiếp gặp cảnh người thân qua đời. Đầu tiên là người anh của chú dượng (Khổng Tường Hy) qua đời, em Tử An, anh Tử Văn lần lượt cũng qua đời. Năm trước già ái Linh đốc bệnh ở Mỹ, lúc dó Tổng thống mới cảm thấy không dễ chịu, cho nên cứ chần chừ không đi được, chờ khi tới được thì bà đã hấp hối rồi, không kịp quyết biệt nữa. Tình cảm chân tay không thể bù đắp được, điều nuối tiếc sâu xa, quốc nạn nhà buồn đến cùng liên tiếp. Hai năm về trước, tôi cũng dần dần tích bệnh, thế nhưng không thể tự chạy chữa được, bởi vì sức khỏe của Tổng thống chẳng tốt lành, việc chăm sóc chỉ sợ có chút sa sẩy trong lòng chẳng lúc nào được yên. Sức khỏe của Tổng thống có quan hệ tới sự an nguy của quốc gia, sự tiếp tục thay thế của Chủ nghĩa tam dân, tiền đồ của Trung Hoa dân quốc, tất thảy đều gánh vác đè nặng trên vai của người. Tôi đêm ngày hầu hạ thuốc thang chỉ mong sao Tổng thống khôi phục sức khỏe, lãnh đạo quản lý công việc đại sự, có thể lãnh đạo được thêm một năm, thì đất nước có thể đâm chồi nảy rễ thêm được một năm. Thế nhưng vài ba năm nay, người vẫn không có ý bỏ tôi ra đi. Mà bản thân tôi vẫn trường kỳ kiên nhẫn chống đỡ đón nhận muôn vàn đau thương, tới nay tôi đã thực sự cảm thấy tâm thân mệt mỏi, cảm giác tỉnh táo đã thực sự tật bệnh rồi, rất đòi hỏi phải được chữa chạy. Đoạn trường gặp phải nỗi bất hạnh liên tục của bà trong mấy năm gần đây, nói rõ bà phải sang Mỹ để chữa bệnh. Thế nhưng tiếp sau đó bà lại nói: Phàm khẩu hiệu đoàn kết mà người dân nước ta nên kịp thời vận dụng, tận lực phát huy, kiên trì hò hét không thể hô lên suốt ngày được; thực tiễn không phải là chuyện dễ, hô khẩu hiệu quyết không phải là biện pháp. Lại nói: Lấy hoàn cảnh cụ thể của nước ta mà nói, quả thực người người nên tận dụng khả năng, cùng chia sẻ với nỗi buồn này... Đoạn nghị luận đột nhiên biến điệu này tại sao lại phát ra như thế? phát ra đối với ai? Rất cần được ngoại giới bình luận.Nói chung đều cho rằng: Sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch rút chạy trốn ra Đài Loan, để gắng gượng chống đỡ nền thống trị lung lay sắp đổ, Tưởng đã tổ chức ẹy ban cải tạo, quyết tâm cải tạo Quốc dân đảng, lôi kéo một số quan chức nguyên lão, khởi dựng một nhóm nhân sĩ trung thanh niên, thế nhưng lại không thể không cho các nguyên lão một ít việc làm, còn cần phải lợi dụng ảnh hưởng của các bậc nguyên lão để ổn định nhân tâm, quân tâm. Bởi vậy, Tưởng Giới Thạch đã xây dựng ra ẹy ban bình nghị Quốc dân đảng. Phía Đài Loan chính thức giải thích rằng, ẹy ban bình nghị tương đương với Viện nguyên lão của nước ngoài, đây là một loại giải thích lố lăng bậy bạ. Bởi vì Viện nguyên lão của nước ngoài là cơ cấu của chính giới, ẹy ban bình nghị Quốc dân đảng là tổ chức của phương diện chính đảng. Điều này không cần phải quản tới nó nữa, vấn đề chủ yếu là, Tống Mỹ Linh là ủy viên thứ nhất của ẹy ban bình nghị, rõ ràng đã thực sự bịt chặt miệng các vị nguyên lão thất sủng mất quyền: Các ngài nhìn xem, ngay cả bà cũng chỉ là một ủy viên bình nghị thôi!
    Sau khi Tưởng Giới Thạch chết vài ngày, Đài Bắc liền có tin đồn: Vì sự đoàn kết trong Đảng, bà Tống Mỹ Linh có khả năng tiếp nhận chức Tổng tài Quốc dân đảng, để làm chiếc cầu nối giữa các bậc nguyên lão với phái trẻ. Mặc dù nói trên mặt lý luận ủy viên bình nghị không thể lên thẳng Tổng tài(Thủ lĩnh) được. Thế nhưng vẫn lấy đó làm luận điệu. Tưởng Kinh Quốc đột nhiên từ Hội nghị toàn thể ẹy ban thường vụ Trung ương được bầu cử làm Thủ lĩnh của Đảng, hơn thế còn nói, hai chữ Tổng tài này là để truy niêm cụ Tưởng Giới Thạch chuyên dùng, đứng đầu Đảng Quốc dân đảng từ nay gọi là Chủ tịch cũng như sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, đầu não của Đảng không gọi là Thủ tướng nữa mà gọi là Tổng tài vậy. Và như vậy, việc bà Tống Mỹ Linh ra nhậm chức Tổng tài là điều không có khả năng xảy ra, Chủ tịch của Đảng là Tưởng Kinh Quốc, điều này đã khiến cảnh ngộ của bà rất bối rối lúng túng, tức thì cho dù bà không có bệnh cứ ở lại Đài Loan cũng chẳng còn có ý nghĩa gì nữa.Báo chí Hồng Công bình luận nói, nếu như lần này bà ra đi chỉ vì chữa bệnh thì làm gì phải bôn ba vạn dặm như vậy. Với sự giầu có của Tưởng Tống, đừng nói gì đến chuyện bà có thể dùng tiền mời bất kỳ một bác sĩ nào giỏi nhất nước Mỹ tới Đài Bắc chữa khám cho bà, mà cho dù có mời vị bác sĩ đó chuyển cả toàn bộ một bệnh viện tới cũng chẳng có gì là khó khăn cả. Khi Trần Thành mắc chứng ung thư ở Đài Bắc đã từng có cả một bệnh viện và phòng dược dọn tới trong dinh thự của ông ta, ngay cả đến bác sĩ, hộ sĩ cũng đều đầy đủ cả đêm ngày luân phiên nhau túc trực. Mấy năm cuối cùng của Tưởng Giới Thạch, một số giáo sư của trường đại học Hồng Công, cũng đều bay đi bay lại ở giữa Đài Cảng. Cho nên việc bà Tống Mỹ Linh tới nước Mỹ chữa bệnh, trên cách làm là bỏ gần cầu xa, trong màn tối là sự thất bại trên vấn đề tranh quyền với Tưởng Kinh Quốc, không chịu đựng nổi sự áp bức về tinh thần ở Đài Loan, muốn trở về nhà mẹ đẻ ở nước Mỹ kia để tiêu tán tâm phiền. Trong bài nói chuyện trên giấy, bà phê bình có người kêu gào đoàn kết, quyết không phải là biện pháp, chính là biểu lộ sự bất mãn đối với Tưởng Kinh Quốc. Bài nói chuyện này của bà Tống Mỹ Linh dài hơn ba ngàn chữ, kể lể sự nhớ nhung luyến tiếc đối với Tưởng Giới Thạch, nào là đã kết hôn 48 Xuân thu với Tưởng Giới Thạch, suốt cuộc đời chăm sóc nhau động viên nhau, hiện tại trơ trọi... nhớ thương, trong phòng trần tịch, do vậy cảm thấy thân tâm đều mệt mỏi v.v... trong bài văn không nói gì đến Tưởng Kinh Quốc, Tưởng Vĩ Quốc, cũng chẳng nói gì đến vị Tân tổng thống Vương Gia Cán , cũng chẳng tán dương và chúc tụng đối với nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan, cũng chẳng nói đến trong tương lai bà sẽ nhất định lại trở về Đài Loan. Trong bài văn dài với lời lẽ cáo biệt này của Tống Mỹ Linh đã phát biểu với thân phận của Tưởng Giới Thạch phu nhân, ở Đài Bắc bà đã không còn giữ bất kỳ chức vị nào nữa. Giới bình luận ngoại giới cho rằng đây cũng là nguyên nhân quan trọng bộc lộ sự phẫn hận lúc bà sắp ra đi.
    Ngày 18 tháng 9, sau khi tới Niu Oóc, bà Tống Mỹ Linh do mắc bệnh ung thư tuyến vú phải mổ hai lần, kết quả tương đối tốt. Ngày mồng 2 tháng 4 năm 1976, để kỷ niệm một năm ngày mất của Tưởng Giới Thạch, bà Tống Mỹ Linh đã đặc biệt trở về Đài Loan, sống gần bốn tháng. Vào thời kỳ này tuy bà vẫn tranh quyền đấu thế, thế nhưng ngoài mặt vẫn rất ôn hòa khéo léo. Tống trở về Đài Loan, Tưởng Kinh Quốc và phu nhân đã đích thân ra sân bay nghênh tiếp. Tống Mỹ Linh trên thân khoác kỳ bào sắc đen, tinh thần tình cảm nghiêm túc, Tưởng Kinh Quốc đã ra tận chân thang máy bay đỡ bà bước xuống. Khi bà trở lại nước Mỹ đã ở liền trong 11 năm. Năm 1978, Tưởng Kinh Quốc đã nhậm chức Tổng thống Trung hoa dân quốc nhiệm kỳ thứ 6, các giới Đài Loan cho rằng bà Tống Mỹ Linh có thể trở về Đài Loan tham gia đại lễ nhậm chức này và luôn thể cúng giỗ Tưởng Giới Thạch. Thế nhưng bà đã không trở về, trong bức điện gửi cho Tưởng Kinh Quốc trả lời về việc mời bà về Đài Loan, bà nói:Kinh Quốc xem: Bức điện gửi tới ngày 7 và ngày 29 tháng 3 đều nhận được cả. Kỷ niệm ba năm ngày mất của cha anh đã tới.Trong ba năm này, mỗi ngày ta đều đau buồn khôn xiết. Năm ngoái trở về Sĩ Lâm, bày đặt như cũ, khiến ta có cảm giác nghẹn ngào khi bước lên lầu vắng. Những âm thanh, tiếng bước chân vọng quen thuộc trước đây đều thăm thẳm trang nghiêm, đến ngột ngạt. Ta và cha anh ngoài mấy lần mang trọng trách đi Mỹ, những thời gian còn lại sống ở bên nhau đã được một nửa thế kỷ, đặc biệt có rất nhiều vấn đề, dù to dù nhỏ đều gắn bó thương lượng bàn bạc khiến cho tinh thần hai ta có chỗ gửi gắm nương tựa. Hai người đã động viên lẫn nhau, niềm an ủi có được không bút mực nào có thể tả xiết. Tự đánh giá ta đối với cha đẻ của mình, chỉ chung sống được hơn 9 năm, ngắn ngủi, bởi vì lên 8 tuổi ta đã xa nhà sang Mỹ học, sau khi về nước người đã qua đời rồi. Ta và mẹ ta chung sống tổng cộng được 17 năm thì kết bạn lấy cha anh, có thể nói là bắt đầu từ thuở thay răng, tình bạn thân gần nhất, lâu dài nhất. Cả hai người đã suốt đời dựa vào nhau, là cha của anh đó. Tình cảm thương yêu đùm bọc chỉ có anh và vợ của anh gắn bó đã hơn bốn chục năm, mới có thể hiểu biết được. Ta từ nhỏ được gia đình dạy dỗ, phải chịu đựng đau thương lớn, tai họa lớn, lấy kiên cường trấn tĩnh làm mục đích. Ta tuy không thể nói là mọi việc đều làm được, thế nhưng luôn luôn lấy đó tự rèn rũa mình, bó buộc mình. Với tình cảm mẹ con, lại vì sự quan tâm thiết tha của anh trong bức điện ngày 29, có thể hiểu rõ được tình cảm của ta trong ba năm qua, anh hãy lắng nghe lời này.
    Trong bức điện trả lời, bà Tống Mỹ Linh nói bà không muốn nhìn lại vật cũ để làm tổn thương đến tình cảm, đó là sự thương xót nhớ nhung vì những di vật của Tưởng Giới Thạch hay là sự xót thương vì đại quyền đã rơi mất, khó có thể hiểu được ngọn nguồn gốc rễ. Thế nhưng bà không trở về tham gia cúng giỗ lần thứ ba của Tưởng Giới Thạch, lẽ đương nhiên cũng không tham gia đại lễ nhậm chức của Tưởng Kinh Quốc. Thế nhưng đến tháng 6 năm 1985, khi đoàn phỏng vấn của Thị trưởng, huyện trưởng phu nhân tới thăm nước Mỹ, trong bữa tiệc tối mà đoàn phỏng vấn tiến hành, bà đã để lộ ra bà có ý năm tới sẽ trở về Đài Loan, bởi vì năm 1986 là năm kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tưởng Giới Thạch, bà muốn trở về Đài Loan để tiến hành chủ tế. Sau khi nhà đương cục Đài Loan được biết tin này, liền chỉnh tu lại hành quán Tưởng Giới Thạch ở nông trường Vũ Lăng và dinh thự Sĩ Lâm cho mới, để đầu năm 1986 gửi thư mời bà trở về Đài Loan tham gia hoạt động kỷ niệm, tất nhiên bà sẽ sung sướng trở về.
    Ngày 25 tháng 10 năm 1986 Tống Mỹ Linh từ New York đáp máy bay của công ty hàng không Trung Hoa trở về Đài Bắc. Vợ chồng Tưởng Kinh Quốc và cả gia đình cùng với mấy chục thành viên quan trọng trong quân đội Chính phủ Đài Loan đã ra sân bay nghênh tiếp. Ngày 30 tháng 10, Tống Mỹ Linh với sự tháp tùng của vợ chồng Tưởng Kinh Quốc cùng cả nhà đã tới Từ Hồ ở Tây Nam Đài Bắc tế điện Tưởng Giới Thạch. Ngày hôm sau công khai xuất hiện lần đầu tiên trên Đại hội kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tưởng Giới Thạch cử hành tại Trung Chính kỷ niệm đường tại Đài Bắc. Có lẽ là Tống Mỹ Linh đã quen thuộc với đời sống đấu tranh để rút ra khỏi quyền lực, có lẽ là bà đã gật đầu cho phép sự tồn tại về chính trị ở Đài Loan của Tưởng Kinh Quốc, lần trở về này, họ đã hợp tác tương đối tốt đẹp. Trên Đại hội kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tưởng Giới Thạch, Tống Mỹ Linh đã kéo tay Tưởng Kinh Quốc bước vào hội trường, toàn thể hội trường đã đứng dậy và vỗ tay hồi lâu. Sau đó, Tống Mỹ Linh đã thay mặt gia đình họ Tưởng đọc diễn văn chào mừng. Bà nhấn mạnh Dân tộc Trung Hoa đời đời kiếp kiếp đều phải được hưởng thụ càng nhiều tự do và hạnh phúc, yêu cầu Quốc dân đảng phát huy thêm một bước tinh thần vô tư, quên mình. Ngoài ra, bà còn phát biểu một bài diễn văn kỷ niệm, mượn đó để khích lệ động viên đối với người đời sau, lấy đó để biểu lộ sự tưởng nhớ đối với Tưởng Giới Thạch.
    Ngày 13 tháng 1 năm 1988, Tưởng Kinh Quốc qua đời, cụ Tống Mỹ Linh tuổi cao 91 ngồi trên ghế có bánh xe lăn từ cửa bên tiến vào linh đường của Tưởng Kinh Quốc, đau buồn thương xót lộ trên nét mặt, điều này không hoàn toàn là bởi vì người tóc bạc đưa tiền người tóc xanh mà có nỗi đớn đau dứt ruột, cụ còn lo lắng âu sầu về sự trống vắng chính trị mà Tưởng Kinh Quốc để lại sau khi qua đời. Cụ không tán thành phương án mà các ủy viên thường vụ Trung ương suy cử Lý Đăng Huy đảm nhiệm chức Chủ tịch thay mặt Quốc dân đảng, thế nhưng lại không đủ sức thay đổi cục diện này. Năm 1990, Đài Loan bắt đầu mở màn cuộc tranh cử Tổng thống lần thứ tám, Lý Đăng Huy thông qua hệ thống Quốc dân đảng đã bị khống chế, khơi thông Quốc dân đại hội, rồi lôi kéo Lý Hoảng Viện trưởng Hành chính, đã giành được đại thắng mà cụ Tống Mỹ Linh không muốn nhìn thấy. Cụ Tống Mỹ Linh tâm trí và sức lực đều mệt mỏi, đành phải lại sống phiêu bạt ở phương trời khác, tới nước Mỹ để Trường kỳ hưu dưỡng.
    Ngày 21 tháng 9 năm 1991, cụ đã li biệt Đài Loan tới Manhatan New York, ra sân bay Tùng Sơn Đài Bắc tiễn biệt đã không phải là vợ chồng Tưởng Kinh Quốc, mà là vợ chồng Tưởng Vĩ Quốc. So sánh mối quan hệ với Tưởng Kinh Quốc, Tống Mỹ Linh và Tưởng Vĩ Quốc càng hòa hợp hơn nhiều. Tháng 6 năm 1986, tin Tưởng Vĩ Quốc ra nhậm chức Bí thư trưởng ẹy ban an toàn quốc gia, khi tin này truyền tới tai Tống Mỹ Linh, Tống Mỹ Linh dã đặc biệt gửi điện chúc mừng, động viên ông kiên trì giữ vững cương vị, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Chính phủ và Nhà nước đã giao phó cho. Nghe nói, đối với việc biến động nhân sự của các quan chức Đài Loan, thì đây là lần đầu tiên, Tưởng Vĩ Quốc vì ốm phải vào nằm trong bệnh viện, cụ Tống Mỹ Linh còn đánh điện vào thăm hỏi tình hình sức khỏe của ông. Sau khi Tưởng Vĩ Quốc nhận được điện, vô cùng cảm động, lập tức đánh điện trả lời. Mặc dù như vậy, mối liên hệ giữa Tống Mỹ Linh và Tưởng Vĩ Quốc càng ngày càng ít đi, ảnh hưởng của gia tộc họ Tưởng đối với cục diện chính trị và sự phát triển xã hội Đài Loan cũng càng ngày càng nhỏ đi, mà tất thảy những điều này, đều bắt đầu từ cái chết của Tưởng Giới Thạch...
    Hết



    Phần Phụ Lục: Thư mục sách tham khảo chủ yếu để viết bộ sách này


    1- Truyện Tưởng Giới Thạch - Tác giả Vương Phủ Dân - NXB Kinh tế nhật báo - tháng 8/1989
    2- Cuộc đời Tưởng Giới Thach - Tác giả Tống Bình - NXB Nhân dân Cát Lâm - tháng 8/1987.
    3- Nghiên cứu Tưởng Giới Thạch - Tác giả Lý Ngao - NXB - Tháng 2/1988
    4- Truyện Tưởng Giới Thạch - Tác giả Đương Thụ Tiêu - NXB Đoàn kết - Tháng 6/1989.
    5- Truyện Tưởng Giới Thach - Tác giả Giang Nam - Công ty xuất bản Hữu Nghị Trung Quốc - Tháng 10/1984.
    6- Tưởng Giới Thạch thế gia - ẹy ban biên soạn tư liệu văn sử chính tự hiệp thương tỉnh Triết Giang - Tháng 10/1988.
    7- Sóng gió 40 năm ở Đài Loan và Đại Lục - Cao Vân Các biên soạn - NXB Văn sử Cát Lâm - Tháng 7/1991.
    8- Tưởng Kinh Quốc ở Đài Loan - NXB Thời sự biên soạn xuất bản - Tháng 6/1988.
    9- Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh - Tác giả Giản Khiết - Mạnh Hân - NXB Văn sử Cát Lâm - tháng 12/1988.
    10- Ghi chép các thành viên quan trọng chính trị quân sự trong chính phủ quốc dân Nam Kinh. Tác giả Uông Tân - Lưu Hồng - NXB Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc.
    11- Truyện các tướng lĩnh Cao cấp Dân quốc - NXB Quân Giải Phóng - tháng 3/1988.
    12- Lời Hồi ức năm xưa của Lý Tông Nhân - NXB Nhân dân Hồ Bắc - tháng 10/1981.
    13- Giờ phút cuối cùng ở Đại lục của Tưởng Giới Thạch - tác giả Tần Đồng Đẳng - Công ty xuất bản Nam Hải - tháng 5/1992.
    14- Truyện Trần Thành - ẹy ban tư liệu văn sử chính trị hiệp thương Tỉnh Triết Giang - NXB Hoa Nghệ - tháng 9/1991
    15- Ghi chép về từng trải của bản thân ở chiến dịch Hoài Hải - NXB Tư liệu Văn sử - tháng 6/1983.
    16- Quân sự quyển - Trung Quốc đương đại - NXB Khoa học xã hội Trung Quốc - Tháng 6/1989.
    17- Lịch sử chiến tranh quân giải phóng nhân dân Trung Quốc - NXB Khoa học quân sự - tháng 7/1987
    18- Kim Lăng tàn chiếu - Tác giả Trần Thiếu Hiệu - NXB Nông thôn - tháng 4/1988.
    19- Kim Lăng Xuân Mộng - Tác giả Đường Nhân - NXB Văn hóa Thượng Hải - Tháng 4/1962.

    Sponsored content


    Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế  Tiếp Theo Empty Re: Tưởng Giới Thạch, những bí mật về cuộc đời và gia thế Tiếp Theo

    Bài gửi by Sponsored content


      Hôm nay: Sun May 19, 2024 5:41 pm