Hoàng Đế Cuối Cùng
Tác giả: Nguyễn Vạn Lý
Chương 1
Các hoàng đế Trung Hoa thường sống trong Cấm Thành tại Bắc Kinh, và rất ít khi đi ra ngoài. Đây là một nơi được canh gác vô cùng nghiêm ngặt và là một cấm địa đối với đại đa số người Trung Hoa. Chính tại Cấm Thành, trong Đại Nội và Điện Thái Hoà, các hoàng đế Trung Hoa có quyền lực tuyệt đối đã cai trị trên một phần tư nhân loại. Vua Càn Long nhà Đại Thanh đã có lần nói Cấm Thành là một cái trục, một trung tâm mà toàn thể thế giới phải quay chung quanh.
Nhưng không phải hoàng đế nào cũng hùng mạnh, ngồi trong Cấm Thành ra mệnh lệnh và hàng trăm triệu người của đế quốc Trung Hoa phải tuân theo. Đã có những hoàng đế bất lực, quyền lực bị giới hạn bên trong khu Cấm Thành. Đó là trường hợp của vua Phổ Nghi, vị Hoàng Đế cuối cùng của nhà Mãn Thanh, và cũng là ông vua cuối cùng của Trung Hoa. Phổ Nghi lên ngôi chưa được bao lâu thì xảy ra cuộc cách mạng Tân Hợi của Tôn Văn. Nhà vua phải thoái vị và sống như bị giam lỏng bên trong Cấm Thành. Khi cuộc Trung Nhật chiến tranh xảy ra, Phổ Nghi được người Nhật đưa lên làm Hoàng Đế bù nhìn tại Mãn Châu. Như vậy Phổ Nghi được làm Hoàng Đế hai lần. Khi Nhật bại trận, Phổ Nghi bị quân Nga bắt, rồi giao cho tướng Mỹ McArthur. Cuối cùng Phổ Nghi trở thành một tù nhân trong tay Mao Trạnh Đông. Phổ Nghi phải làm công việc của một người làm vườn, chăm sóc cây cảnh ngay trong Cấm Thành.
Cuộc đời Phổ Nghi thực là gian nan từ lúc ba tuổi, khi được Thái Hậu Từ Hi đặt lên ngai vàng. Hai lần làm Hoàng Đế, hai lần trở thành tù nhân của Cấm Thành. Cuộc đời của Phổ Nghi là sản phẩm của Từ Hi, một người đàn bà khác thường, một người đàn bà xinh đẹp nhưng quỷ quyệt tàn ác, thông minh cương quyết, nhưng ít học và mê tín, và đặc biệt có tham vọng vô biên, muốn cai trị Trung Hoa mãi mãi. Từ Hi đã thực sự nắm vận mệnh mấy trăm triệu người Trung Hoa trong suốt 45 năm.
TRUNG HOA VÀO THẾ KỶ THỨ 19
Người Trung Hoa vốn trọng nam khinh nữ nên chỉ hoàng tử mới được lên ngôi vua và không có nữ hoàng như nhiều nước Tây phương. Một trong những nhiệm vụ của nhà vua là phải có hoàng tử để nối tiếp ngai vàng. Hoàng tử lên ngôi không nhất thiết phải là con của hoàng hậu, mà có thể là con của bất cứ một thứ phi nào. Nhà Đại Thanh đến đời các vua Đạo Quang, Hàm Phong vào khoảng giữa thế kỷ 19 đã có dấu hiệu suy đồi, vì cả hai ông vua này chỉ ham mê cung tần mỹ nữ, phung phí sức khoẻ vào tửu sắc và bỏ bê công việc triều chính. Quyền hành của thiên tử thường lọt vào tay các Thái Hậu. Chờ đợi mãi vua Hàm Phong vẫn chưa có con trai, nên bà Thái Hậu ra lệnh tuyển thêm mười bảy thiếu nữ Mãn Châu trẻ đẹp, nhu mì đạo hạnh, và khoẻ mạnh vào cung, với hy vọng các thiếu nữ này sẽ giúp vua Hàm Phong sớm có hoàng tử.
Các thiếu nữ này vào cung được khám xét cặn kẽ về các phương diện giáo dục, tư cách, dáng dấp, sắc đẹp, và khả năng sinh đẻ, và còn phải trải qua một cuộc thí nghiệm xem có còn là trinh nữ hay không. Tên của những người con gái được tuyển chọn vào cung được khắc vào một tấm thẻ bằng ngọc, và tất cả được đặt úp xấp trên một chiếc bàn trong phòng ngủ của nhà vua.
Buổi tối trước khi đi nghỉ, nhà vua thường lật một hoặc hai tấm thẻ lên và một tên thái giám có nhiệm vụ đi tới cung của người cung phi có tên trên tấm thể lật ngược để báo hỷ. Lúc đó người cung phi phải cởi hết quần áo ra, tắm rửa cho sạch sẽ thơm tho và được khám xét thân thể, trước khi người thái giám quấn một tấm khăn lớn trùm lên người cung phi, và cõng tới phòng ngủ của nhà vua. Người cung phi trần truồng được đặt ngồi dưới chân giường của nhà vua. Sáng hôm sau, tên thám giám trở lại phòng ngủ của vua, ghi tên người cung phi và giờ nhà vua hành lạc với người cung phi. Sau đó tên thái giám lại quàng một tấm khăn trùm lên người cung phi, và đưa nàng trở lại cung riêng.
Trước kia, khi người cung phi được nhà vua vời không phải trần truồng như vậy. Người cung phi phải trần truồng khi vào hầu vua bắt đầu từ thời nhà Minh. Nguyên nhân là vì có một cung phi được dẫn vào hầu vua, đã bí mật dắt theo trong người một sợi giây lụa màu vàng. Đêm đó sau khi ái ân, người cung phi dùng sợi giây màu vàng xiết cổ nhà vua, có lẽ để trả một mối thù nào đó.
Trong số mười bảy người con gái tiến cung cho vua Hàm Phong thì có một người thuộc bộ tộc Yehe Nara. Đó là Xuân Lan, một người con gái rất xinh đẹp mới mười sáu tuổi. Gia đình Xuân Lan đang hồi sa sút nghèo khó. Việc tiến cung thực là một cơ hội giải thoát cho nàng khỏi cảnh nghèo nàn tăm tối. Thoạt đầu Xuân Lan chỉ được phong làm một thứ phi. Trước khi tiến cung, Xuân Lan đã yêu một người anh họ rất đẹp trai tên là Vinh Lộc. Lúc đó Vinh Lộc làm chức Chưởng vệ trong đám ngự lâm quân bảo vệ Cấm Thành. Xuân Lan vẫn ao ước được kết duyên với Vinh Lộc, nhưng lệnh tiến cung đã xé nát những ước mơ tuổi trẻ của nàng.
Khi vào cung Xuân Lan càng thương nhớ Vinh Lộc, một phần là vì vua Hàm phong là một người xấu xí yếu đuối. Nhưng Xuân Lan cũng cảm thấy hãnh diện khi được tuyển chọn và nàng quyết tâm phải lấy được lòng sủng ái của nhà vua. Nàng rất thông minh và tìm cách thu phục các thái giám có quyền lực trong cung như Ân Đức Hải và Lý Liên Anh. Chính các tên thái giám này đã nhắc nhở tên Xuân Lan cho vua Hàm Phong. Khi được vua Hàm Phong vời, nàng đã trổ hết tài khéo trong nghệ thuật chăn gối để vua Hàm Phong say mê sủng ái riêng nàng. Cuối cùng Xuân Lan sinh hạ được một hoàng tử. Người ta đồn đứa con trai đó là con của Vinh Lộc, chứ không phải của vua Hàm Phong bệnh hoạn ốm yếu.
Sau khi sinh được hoàng tử, Xuân Lan được phong làm hoàng hậu, lúc đó nhà vua đã có hoàng hậu rồi, đó là Hoàng Hậu Từ An. Xuân Lan được ban tước hiệu Từ Hi và ở Tây Cung, vì thế sau này người ta còn gọi bà là Tây Thái Hậu. Từ Hi được nhà vua rất tin cẩn. Nhà vua thường hỏi ý kiến Từ Hi trước những vấn đề quốc sự khó khăn và lâu dần vua Hàm Phong trở nên nể sợ nàng. Nhà vua cũng nhận thấy Từ Hi quá khôn ngoan, quá tham vọng và rất hống hách đàn áp người khác. Rồi nhà vua chợt nhớ lại một lời sấm tiên tri nhà Mãn Thanh đã có từ lúc mới dựng nghiệp, nhưng lâu dần không mấy ai nhớ nữa. Lời sấm ấy là: một người đàn bà thuộc bộ tộc Yehe Nara sẽ tiếm quyền của Hoàng Để và sẽ làm sụp đổ ngai vàng nhà Mãn Thanh.
Từ Hi quả thực là người con gái đầu tiên của bộ tộc Yehe Nara được tuyển vào cung, và đã tạo được cơ hội để một ngày sẽ kiểm soát toàn thể đế quốc Trung Hoa trong chức vụ thái hậu. Sau cả một tuổi trẻ mài miệt truy hoan với hàng trăm mỹ nữ trong cung cấm, vua Hàm Phong kiệt lực và chết lúc mới 34 tuổi.
Từ Hi đã quen với việc triều chính. Bà đã từng ngồi sau một bức mành trúc phía sau nhà vua.Tuy nhiên nếu không có các thái giám thân tín thì bà đã mất hết cả quyền lực lúc vua Hàm Phong băng hà. Trước khi chết, vua Hàm Phong đã chỉ định tám vị nhiếp chính vương để giúp ấu chúa. Hội đồng nhiếp chính do thân vương Túc Thuận lãnh đạo. Hội đồng nhiếp chính này có quyền hành xử uy quyền nhà vua cho tới lúc ấu chúa trưởng thành. Không những thế, vua Hàm Phong còn bí mật ra một đạo dụ cho phép hội đồng nhiếp chính được quyền loại trừ Từ Hi, nếu Từ Hi can gián vào quốc sự. Trong suốt cuộc đời làm vua, đây là hành động khôn ngoan sáng suốt duy nhất của vua Hàm Phong. Nhưng ý nguyện của vua Hàm Phong đã không thể thực hiện được.
Các thái giám tâm phúc đã biết được đạo dụ bí mật của nhà vua, và thông báo cho Từ Hi. Từ Hi tìm cách hủy diệt đạo dụ đó. Ngay trong lúc cử hành quốc táng cho Hàm Phong, đã có một cuộc tranh dành quyền lực gay go giữa Từ Hi và tám nhiếp chính vương. Từ Hi có được sự trợ giúp của Vinh Lộc và các cấm binh nên đã loại được tất cả các đối thủ chính trị, và ra một đạo dụ bắt giữ và chém đầu tất cả các nhiếp chính vương. Kể từ đấy quyền lực của Từ Hi ngày một thêm vững mạnh. Dù bên trong hay bên ngoài Cấm Thành, mệnh lệnh của Từ Hi đều được tất cả kính sợ và tuân hành. Người đàn bà ít học nhưng độc đoán, xảo trá, tàn nhẫn, mê tín dị đoan và tham lam đó đã làm cả một đế quốc run rợ.
Triều đại Từ Hi là một thời kỳ tủi nhục nhất trong lịch sử Trung Hoa, vì bên trong phải đương đầu với sự chống đối của người Trung Hoa, và bên ngoài thì bị các cường quốc tây phương hùng mạnh tấn công chiếm đất. Với tư cách Thái Hậu, Từ Hi đã thao túng quyền lực của của ba hoàng đế cuối cùng nhà Mãn Thanh: con trai của chính bà là vua Đồng Trị, một người cháu gọi bà bằng dì là vua Quang Tự, và một người cháu họ gọi bằng bà là vua Phổ Nghi.
Tất cả ba hoàng đế này lên ngôi đều còn rất nhỏ, nên Từ Hi được nắm quyền nhiếp chính, và do đó Từ Hi có quyền hành tuyệt đối. Những thành quả của Từ Hi thực là phi thường, đặc biệt là bà đã có thể ngự trị cả một thế giới Trung Hoa trọng nam khinh nữ. Theo một nhà học giả Trung Hoa thì đàn bà không thể cai trị Trung Hoa được, cũng giống như gà mái không thể gáy sáng như gà trống. Thế mà Trung Hoa đã tùng chứng kiến các vị thái hậu hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại là Võ Tắc Thiên và Từ Hi Thái Hậu. Từ Hi Thái Hậu đã giải thích rất nhiều luật lệ của nhà Mãn Thanh phù hợp với mục đích của bà, nhưng bà vẫn chưa dám thay đổi luật lệ cho phép đàn bà trở thành Hoàng Đế.
Từ Hi Thái Hậu đã bước lên tột đỉnh của quyền hành, và bên trong Cấm Thành hệ thống thái giám của nhà Mãn Thanh đã bắt đầu thay đổi giống như nhà Minh ngày trước. Chính nhờ người tình Vinh Lộc và bọn thái giám mà Từ Hi đã đoạt được quyền Thiên Tử, nên bà đã ban ân huệ rất rộng rãi cho giới thái giám. Khi con trai lên ngôi, Từ Hi phong cho Vinh Lộc làm phó vương và nắm quyền chỉ huy đạo quân miền bắc. Vinh Lộc suốt đời gần gủi Từ Hi. Để che mắt thế gian, Từ Hi cưới vợ cho Vinh Lộc, nhưng những thị phi trong triều vẫn không ngớt.
Các thái giám được giữ những chức vụ quan trọng đã làm hồi sinh sự tham nhũng trong cung cấm. Chính Từ Hi đã hoang phí ngân khố để mua sắm vàng bạc nữ trang, mở yến tiệc và xây lâu đài mới. Những món tiền lớn dùng để canh tân quân đội, đúc súng và chế tạo chiến hạm, bị chuyển sang xây Cung Điện Mùa Hạ một cách hết sức xa phí và nguy nga. Sự mục nát của xã hội Trung Hoa đã đưa tới những cuộc nổi loạn bên trong và những áp lực của ngoại bang bên ngoài. Trước hết là loạn Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn, quấy phá miền nam gây chết chóc cho hàng triệu người. Sau đó là là loạn Quyền Phỉ chủ trương đuổi người ngoại quốc ra ngoài biển, và đưa Trung Hoa về với sự huy hoàng và sống biệt lập như trước kia.
Kẻ thù bên ngoài là các nước tây phương liên tiếp xâu xé chiếm đoạt lãnh thổ Trung Hoa, khíến Trung Hoa mất hết quyền tối thượng quốc gia. Cuối cùng cả từng vùng của Trung Hoa phải cắt nhường cho các nước Âu Châu. Nhưng mối nguy hiểm chính yếu của Trung Hoa là từ phía Nga Sô và Nhật Bản.
Khi nhà Thanh chinh phục Trung Hoa thì quân Thanh hùng mạnh đã đánh bại quân Nhật tại Cao Ly, đẩy người Nhật phải trở về các hải đảo, và đuổi người Nga phải rút về phía bên kia sông Hắc Long Giang. Đến thế kỷ 19, khi thấy Trung Hoa bị Anh, Pháp bắt nạt một cách nhục nhã dễ dàng, thì người Nhật tin rằng con rồng Trung Hoa bây giờ không thể phun ra lửa được nữa, và bắt đầu tính toán xâm lăng Trung Hoa.
Người Nga khởi đầu một cuộc Nam tiến từ Tây Bá Lợi Á, tiến tới đồng bằng Mãn Châu và chiếm các hải cảng có nước ấm tại biển Thái Bình Dương. Năm 1858, trong khi Từ Hi Thái Hậu củng cố được địa vị và quyền hành bên trong Cấm Thành, thì nhà Thanh phải nhượng bộ các yêu sách của Nga Sô, nhường cho Nga Sô tất cả đất đai ở phía bắc sông Hắc Long Giang. Nga Sô còn được quyền kiểm soát vùng Ussuri, một khu vực chiến lược giáp giới với Thái Bình Dương. Hai năm sau, người Nga Sô lại trở lại đòi thêm đất đai nữa và được quyền kiểm soát các vùng phía đông cũa sông Ussuri, kể cả hải cảng Vladivostok.
Thấy người Nga làm ăn được, Nhật Bản liền tiến vào Trung Hoa dành phần ăn. Nhật Bản là một nước Á châu thức thời, đi theo kỹ thuật tây phương và trở nên hùng mạnh hơn Trung Hoa. Năm 1895, Nhật Bản tuyên chiến với Trung Hoa và đánh bại quân đội yếu kém của nhà Thanh trên biển cả và đất liền. Kết quả là Trung Hoa phải nhường cho Nhật Bãn Đài Loan và Cao Ly. Trung Hoa chiếm được Đài Loan vào lúc cực thịnh của nhà Thanh. Bây giờ nhà Thanh bắt đầu suy đồi, không còn giữ được Đài Loan nữa.
Nhưng Cao Ly và Đài Loan vẫn chưa đủ thoả mãn con hổ Nhật Bản đang đói khát tham lam. Nơi Nhật Bản nhắm vào là Mãn Châu, một vùng đất rộng mênh mông rất giầu tài nguyên cho kỹ nghệ mà dân cư lại thưa thớt. Nhật Bản đòi có ảnh hưởng tại Mãn Châu. Nhưng lúc đó Nhật Bản cũng chỉ là một cường quốc hạng nhì, mới nổi. Nga Sô, Pháp và Đức liền can thiệp và bênh vực Trung Hoa khiến Nhật Bản phải rút lui. Thực ra các nước Âu Châu chẳng thương gì Trung Hoa. Họ đẩy Nhật Bản ra để chiếm phần cho họ. Cuộc đụng độ giữa Trung Hoa và Nhật Bản đã bộc lộ sự hèn kém của Trung Hoa.
Càng ngày các nước Âu Châu càng chú ý khai thác Trung Hoa. Vì công lao bênh vực Trung Hoa chống lại Nhật Bản, Pháp đòi Trung Hoa phải để mặc Pháp chiếm Việt Nam, và Pháp liên tiếp chiếm ba nước trong bán đảo Đông Dương. Anh Quốc cũng đòi chiếm Miến Điện vốn thuộc ảnh hưởng của Trung Hoa. Nga Sô đòi được quyền thiết lập đường hoả xa chạy dọc Mãn Châu, và được quyền sử dụng đất đai chạy dọc hai bên đường xe lửa. Nga Sô cũng được thuê cửa biển Lữ Thuận và địa điểm chiến lược Liêu Đông trong một thời hạn 25 năm. Nga Sô cũng xây thêm một đường xe lửa nối liền Lữ Thuận và Mãn Châu, cả hai đường xe lửa này nhập vào đường xe lửa xuyên Tây Bá Lợi Á. Lúc đó Nga Sô đang ở thế thượng phong. Mãn Châu được coi là một điểm chiến lược quan trọng có thể chế ngự cả Trung Hoa, Cao Ly và Mông Cổ.
Đức Quốc cũng bắt nạt triều đình Mãn Thanh và đòi chiếm hải cảng Thanh Đảo và 200 dặm vuông quanh Thanh Đảo. Đức cũng đòi được quyền khai thác mỏ tại khu nhượng địa. Anh Quốc thấy Đức làm ăn ngon lành nên cũng yêu sách nhà Thanh phải nhường cho Anh một vùng rộng 375 dặm vuông đối diện với Hồng Kông mà Anh Quốc đã chiếm được trong thập niên 1840. Pháp lập tức đòi 200 dặm vuông tại tỉnh Quảng Đông và bờ biển phía nam của Trung Hoa. Riêng Mỹ Quốc không có mặt trong cuộc xâu xé Trung Hoa một cách nhộn nhịp này.
Cho đến đầu thế kỷ 20, trong lúc quyền lực nhà Mãn Thanh tàn dần thì Trung Hoa bị phân chia thành nhiều khu vực ảnh hưởng của ngoại bang. Người thống trị Trung Hoa là Từ Hi Thái Hậu không có khả năng ngăn chận được chiều hướng bất lợi này. Đúng như lời sấm tiên tri cũ, Từ Hi Thái Hậu đang dẫn nhà Thanh vào chỗ tàn vong.
Khi vua Hàm Phong chết rồi, Đồng Trị lên ngôi thiên tử lúc còn rất ít tuổi. Từ Hi trở thành nhiếp chính cho Đồng Trị và thực sự hành sử quyền Thiên Tử. Đồng Trị chỉ nhắc lại những mệnh lệnh của Từ Hi dặn trước như một con vẹt. Khi Đồng Trị lâm triều thì Từ Hi cũng vẫn ngồi sau tấm mành trúc để phát lạc mọi công việc triều chính. Khi một ông quan quỳ gối ba lần và khấu đầu chín lần trước khi tấu trình việc nước cho vua Đồng Trị, thì từ đằng sau, Từ Hi Thái Hậu đã đọc quyết định cho Đồng Trị. Công việc của Đồng Trị chỉ nói lại những điều bà mẹ vừa nói xong.
Từ Hi rất say mê quyền hành. Bà rất sợ một ngày nào đó, con bà tới tuổi trưởng thành và lấy lại quyền Thiên Tử. Bởi vậy khi Đồng Trị vừa tới tuổi thành hôn, thì Từ Hi để tâm kén hoàng hậu và cung phi cho Đồng Trị, để Đồng Trị đam mê tửu sắc, và nhường công việc triều chính cho bà. Đồng Trị chọn Kim Cúc, một người con gái 16 tuổi nhan sắc tuyệt vời và tính tình rất cương quyết làm Hoàng Hậu. Từ Hi muốn chọn một người con gái hiền lành nhu mì làm Hoàng Hậu để dễ sai khiến, nhưng Đồng Trị rất thích Kim Cúc nên Từ Hi đành chịu, nhưng bà tuyển thêm 4 thứ phi nữa cho Đồng Trị.
Khi Đồng Trị được 17 tuổi thì chính thức nắm quyền Hoàng Đế, và Từ Hi không còn Nhiếp chính nữa. Tuy nhiên Đồng Trị là người con hiếu thảo nên vẫn nhường quyền cai trị cho mẹ, một phần vì mới lớn mà được cùng một lúc 5 cô gái thi đua lấy lòng ông vua trẻ, thì Đồng Trị còn thời giờ đâu mà lo việc nước. Đó cũng là đúng ý định của Từ Hi. Vua Đồng Trị yêu Kim Cúc, nên bất mãn Từ Hi Thái Hậu xen lấn vào việc nhân duyên của mình. Hơn nữa, một số thái giám được lệnh dụ dỗ Đồng Trị lẻn trốn ra bên ngoài Cấm Thành về ban đêm, để tìm thú chăn gối với các ca kỹ tại chốn thanh lâu kỷ viện. Cuối cùng nhà vua mắc bệnh phong tình, và chết lúc mới có 19 tuổi, sau khi ở ngôi Hoàng Đế được hai năm.
Vào lúc vua Đồng Trị chết thì hoàng hậu Kim Cúc có thai. Từ Hi rất e sợ nếu Kim Cúc sinh hoàng tử, thì hoàng tử đó sẽ làm Hoàng Đế và Kim Cúc sẽ thay thế Từ Hi làm Thái Hậu. Từ Hi nhất quyết giữ vững địa vị của mình, bằng cách bắt Kim Cúc phải chết cùng với cái bào thai kia, mặc dù thai nhi ấy là cháu nội của bà. Từ Hi gọi Kim Cúc vào và nói với Kim Cúc:
“Hoàng Đế yêu ngươi lắm, có lẽ Hoàng Đế cũng muốn ngươi đi theo đó.“
Kim Cúc biết rằng Từ Hi rất ghét mình. Nếu bà ta còn, thì mình cũng không sống được. Nàng bình tĩnh ngẩng lên nhìn vào mắt Từ Hi và trả lời “Tâu Thái Hâu, thần thiếp cũng định như thế.” Cặp mắt Kim Cúc, một người đàn bà can đảm coi thường cái chết, nhìn thẳng vào mắt Từ Hi bằng một cái nhìn lạnh lùng, u uẩn căm phẫn oán hờn khiến Từ Hi phải rùng mình kinh hãi. Đêm đó Từ Hi sai thái giám thắp đèn thật sáng, và bắt thị nữ ngồi vây chung quanh. Đến sáng thì thái giám báo cho Từ Hi biết hoàng hậu Kim Cúc đã dùng nha phiến tự tử rồi.
Lập tức Từ Hi chọn đứa con lên 4 tuổi của em gái lên ngôi vua. Từ Hi có một người em gái và đem gả cho một người em vua Hàm Phong. Triều thần nhà Mãn Thanh rất công phẫn trước âm mưu quỷ kế của Từ Hi nhưng bất lực không ngăn chận được. Đứa nhỏ 4 tuổi lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Tự. Ngay sau đó mẹ ruột của Quang Tự, tức là em gái Từ Hi, đột ngột từ trần. Người đàn bà tội nghiệp có con lên ngôi báu cần phải chết, để Từ Hi tiếp tục làm Thái Hậu.
Mất mẹ, Quang Tự phải sống với một bầy thái giám. Các thái giám đã nuôi nấng dậy dỗ Quang Tự, và Quang Tự nhiễm thói quen đồng tính luyến ái của đám thái giám. Rất nhiều hoàng đế Trung Hoa mắc chứng bệnh đồng tính luyến ái chỉ vì ảnh hưởng của các hoạn quan. Từ Hi áp đảo Quang Tự đến nỗi vị tiểu Hoàng Đế này mỗi khi gặp Từ Hi đều sợ đến nỗi nói cà lăm và trở thành người nói cà lăm suốt đời. Khi Quang Tự tới tuổi 17, Từ Hi lại lo tìm hoàng hậu và cung phi cho Quang Tự. Quang Tự có một hoàng hậu và hai thứ phi, nhưng Quang Tự vừa bất lực vừa không thích đàn bà cho nên không có con.
Khi Quang Tự chính thức lên ngôi Hoàng Đế năm 1888, thì chức vụ nhiếp chính của Từ Hi chính thức chấm dứt, Từ Hi lui về Cung Điện Mùa Hạ, cách Cấm Thành vài dậm. Nhưng vua Quang Tự vốn nhu nhược, thiếu quả quyết và hay đau yếu nên thường vẫn thỉnh ý kiến của Từ Hi, và do đó Từ Hi vẫn tiếp tục cai trị. Bên ngoài, các nước Âu Châu đang gây khó khăn cho Trung Hoa, nhưng Từ Hi chỉ chăm lo củng cố quyền hành cho cá nhân mình.
Trong năm năm ở ngôi Hoàng Đế, Quang Tự thường xuyên tới Cung Điện Mùa Hạ để lấy ý kiến Thái Hậu. Nhưng bảy năm sau, Trung Hoa bị một nước nhỏ là Nhật Bản đánh bại. Đây là một biến cố kinh hoàng xúc động đến nỗi Quang Tự bỗng vùng ra khỏi tinh thần thụ động và hôn mê, và hết hẳn bịnh nói cà lăm. Phản ứng của Quang Tự trước cái nhục của một Hoàng Đế khiến Từ Hi và mọi người kinh ngạc. Quang Tự một sớm một chiều trở thành một con người khác hẳn, bừng tỉnh khỏi một cơn mê dài. Con người tội nghiệp như một hình nộm bỗng nhiên biến đổi thành một nhà cai trị can trường, nhiều sáng kiến và ăn nói lưu loát. Nhà vua bước ra khỏi thế giới mơ mộng bên trong Cấm Thành để bước vào thực tại của thế giới bên ngoài, và Quang Tự nhìn thấy tương lai của Trung Hoa.
Nhà vua ra một tuyên cáo như sau: ”Xã tắc lâm nguy. Chúng ta bị bao vây tứ phía bởi những ngoại bang hùng cường đang muốn lợi dụng tình thế yếu kém của chúng ta và liên kết với nhau để khuynh loát chúng ta. Ngoại bang biết chúng ta chểnh mảng việc binh bị và hạm đội của chúng ta nhỏ yếu. Vì thế, theo ý ta, nhu cầu ngay bây giờ là chúng ta phải cải cách và chăm lo tổ chức lại công cuộc bố phòng của chúng ta.”
Những lời nói của Quang Tự đã làm xúc động toàn thể đế quốc Trung Hoa. Giống như những hoàng đế trước, Quang Tự đã thực sự trở thành một con rồng phun lửa như các bậc tiên đế trước. Nhà vua ra lệnh thiên triều phải bãi bỏ các chủ trương tồn cổ cực đoan, các phong tục cổ hủ không thiết thực. Quang Tự tuyến cáo: “Chúng ta phải lựa chọn các môn học của Tây Phương để giúp chúng ta đuổi kịp trào lưu tiến hoá, và chăm lo học tập những môn học này để có thể đưa Trung Hoa tiến ngang với các quốc gia khác.“
Quang Tự bị ảnh hưởng của các nhà cải cách miền nam Trung Hoa, nên năm 1898 nhà vua chính thức phát động cuộc cải cách một trăm ngày. Vua Quang Tự hiệu triệu thần dân: ”Hãy nghe và tuân lệnh! Nếu Trung Hoa không cải cách, không áp dụng cuộc cách mạnh kỹ nghệ, không đi theo các phương pháp mà người Nhật bắt chước người ngoại quốc, thì thiên triều một ngày nào đó sẽ tan rã và người Trung Hoa sẽ không ngẩng mặt lên được với thế giới.”
Trong nhiều thế kỷ, Trung Hoa đã từng là một quốc gia Á Châu khổng lồ, kiêu căng trịch thượng, bắt nạt những láng giềng nhỏ như Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Tây Tạng, Mông Cổ và Triều Tiên. Các nước nhỏ này phải triều cống hàng năm. Bây giờ đến lượt Trung Hoa nếm mùi vị nhục nhã bị bắt nạt. Một đại thần đã trình bày với vua Quang Tự: ”Nếu chúng ta đi đự hoà hội với các quốc gia khác mà không có sức mạnh hậu thuẫn cho lời nói của chúng ta, thì chúng ta chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Nếu các quốc gia mạnh ngang nhau thì luật lệ quốc tế mới được tôn trọng; nếu không thì mọi điều ước không thể thi hành được.” Lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm, Trung Hoa phải nhận thức rằng Trung Hoa chỉ là một hành tinh như các quốc gia khác, chứ không phải là mặt trời khiến các quốc gia khác phải quay chung quanh như trước nữa. Chính Nhật Bản và các quốc gia tây phương đã dạy cho Trung Hoa bài học về sự thực đau lòng này.
Những đạo dụ về cải cách tuôn ra như bươm bướm từ cung vua Quang Tự. “Thần dân hãy nghe và tuân hành, hãy mua đủ loại máy móc. Hãy gíáo dục quần chúng. Hãy sáng chế các đồ thực dụng. Hãy bỏ thời giờ để luyện tập làm binh lính. Hãy thiết lập những viện đại học để đưa quốc gia ngang hàng với tây phương.”
Các toà án được lệnh phải xử các vụ án cho xong để tránh tình trạng ứ đọng và hệ thống pháp luật cũng được cải cách. Về vấn đề ngân hàng, các viên chức phải theo đường lối ngân sách của tây phương. Hệ thống thư lại được cải tổ. Các viên chức Mãn Châu lười biếng bị cách chức, các chức vụ không cần thiết bị bãi bỏ.
Thoạt đầu các nghị quyết của vua Quang Tự được các thân vương, tướng lãnh và đại thần tán thành, vì mọi người hoảng sợ trước chiến thắng quân sự của Nhật Bản và nghĩ rằng Trung Hoa cũng phải tiến bộ như Nhật Bản. Nhật Bản đã gây chấn động tại Trung Hoa hơn tất cả các nước tây phương khác vì người Trung Hoa vốn coi thường Nhật Bản; Nhật Bản từng chịu ảnh hưởng văn hoá của Trung Hoa từ hàng ngàn năm. Tất cả những gì người Nhật Bản làm được thì người Trung Hoa có thể làm hay hơn. Người Trung Hoa chỉ nể sợ người tây phương thôi, nay Nhật Bản hùng mạnh không kém các nước tây phương là điều làm người Trung Hoa kinh ngạc nhất.
Nhưng các đạo luật cải cách của vua Quang Tự dần dần gặp khó khăn, vì sự chống đối của các thân vương và các đại thần. Họ trông thấy các cải cách có thể tước bỏ rất nhiều các nguồn lợi về tài sản và quyền hành của họ. Vua Quang Tự đã tấn công ngay chính vào các định chế lâu đời của Trung Hoa. Sự thay đổi nào cũng gây bất lợi cho giai cấp đang được ưu đãi, đang được hưởng thụ. Lập tức các thân vương và quan đại thần lũ lượt kéo đến Cung Điện Mùa Hạ để than phiền với Từ Hi Thái Hậu. Họ khẩn cầu Thái Hậu hãy cứu vớt Thiên Triều trước những cải cách của vua Quang Tự mà họ coi là ”những cải cách điên rồ.“ Do đó chính giới Trung Hoa chia ra làm hai phe, một bên là vua Quang Tự và các học giả cải cách, và một bên là Từ Hi Thái Hậu cùng với phe bảo thủ.
Vua Quang Tự cũng nhận thấy mối nguy hiểm của mình, nhưng nhà vua coi thường bà dì ruột của mình là Từ Hi Thái Hậu. Nhà vua biết rằng sự thành công của công cuộc cải cách tùy thuộc và việc loại trừ Từ Hi ra khỏi chính trường vĩnh viễn. Một cuộc tranh giành quyền hành quyết liệt giữa hai dì cháu đã xảy ra trong cung cấm. Vua Quang Tự ra tay trước và bổ nhiệm Viên Thế Khải vào chức Thanh Tra Quân Đội Miền Bắc đang do Vinh Lộc chỉ huy. Vua Quang Tự rất e ngại Vinh Lộc vì Vinh Lộc là người rất trung thành với Từ Hi. Viên Thế Khải vốn vẫn ủng hộ chủ trương cải cách của vua Quang Tự.
Trong một cuộc hội kiến bí mật tại Điện Thái Hòa, vua Quang Tự chỉ thị cho Viên Thế Khải phải tới tổng hành dinh của Vinh Lộc tại Thiên Tân, và loại trừ Vinh Lộc. Nếu diệt được Vinh Lộc thì vua Quang Tự diệt được hậu thuẫn sức mạnh quân sự của Từ Hi. Đồng thời vua Quang Tự cũng cho Viên Thế Khải quyền bao vây Cung Điện Mùa Hạ và phong tỏa Từ Hi bên trong cung điện, không cho liên lạc với bên ngoài.
Kế hoạch của vua Quang Tự rất tinh vi và chu đáo, và nếu được người thân tín thi hành thì vua Quang Tự có cơ trở thành một vị Hoàng Đế danh tiếng của nhà Mãn Thanh, phục hồi được cả ngai vàng Mãn Thanh và đưa Trung Hoa ra khỏi cảnh tủi nhục. Nhưng nhà vua chọn lầm người. Viên Thế Khải là một người nham hiểm và nhiều tham vọng. Viên Thế Khải vốn là người Hán chứ không phải là người Mãn Châu. Họ Viên nhận thấy khí thế nhà Thanh đã mãn và thiên mệnh không còn thuộc về nhà Thanh nữa, và mơ ước đứng lên tạo lập một triều đại mới, như vẫn thường xảy ra trong lịch sử Trung Hoa.
Sau khi hội kiến với vua Quang Tự, Viên Thế Khải đi thẳng tới Thiên Tân, phản lại kế hoạch bí mật của nhà vua. Viên Thế Khải cho Vinh Lộc biết hắn được lệnh bao vây Cung Điện Mùa Hạ và hành thích Từ Hi Thái Hậu. Vinh Lộc cực kỳ hoảng hốt, vội tiến quân về đứng cạnh Từ Hi. Bà Thái Hậu nổi cơn thịnh nộ và lập tức ra lệnh cho Vinh Lộc tiến quân về Cấm thành. Ngay đêm đó, vào lúc ba giờ sáng, khi các thái giám canh gác trông thấy hỏa pháo nổ tại Cung Điện Mùa Hạ và báo cho vua Quang Tự, thì vua Quang Tự biết mình đã thất bại.
Quang Tự vốn sợ Từ Hi từ nhỏ nên bây giờ người run lập cập. Chí khi nam nhi mà nhà vua tạo cho mình bấy lâu nay bỗng biến mất, để trở thành một con người nhát sợ như trước. Khi cánh quân cấm vệ đầu tiên tiến vào cửa cung thì vua Quang Tự chạy ra phủ phục ngay trước kiệu của Từ Hi. Từ Hi nhìn vua Quang Tự mà không thèm nói một lời. Mãi tới lúc vào Điện Thái Hòa, Từ Hi mới tuôn ra cơn giận dữ. Bà hét lên: “Quân vong ân bội nghĩa, ta nuôi ngươi như con ta, và đây là cách ngươi đền ơn ta phải không?”
Tổng thái giám Lý Liên Anh chứng kiến cảnh nhục nhã của vua Quang Tự một cách hả hê. Vua Quang Tự chỉ biết năn nỉ: “Hài nhi quá đỗi nhu nhược. Hài nhi không xứng đáng ở ngôi vị chí tôn nữa. Xin Thái Hậu cứ trừng phạt hài nhi thật đích đáng.”
Từ Hi hét lanh lảnh: ”Hãy viết ngự chiếu thoái vị ngay bây giờ và ngay tại đây.”
Về sau vua Quang Tự kể lại: “Ta không còn biết nói gì nữa. Ta ra lệnh cho Viên Thế Khải đem quân bao vây Cung Điện Mùa Hạ cho tới khi nào các đạo dụ cải cách của ta có hiệu lực. Hành động này của ta thật đáng bị trừng phạt.”
Phản ứng đầu tiên của Từ Hi là muốn đem chặt đầu vua Quang Tự ngay tức khắc. Nhưng việc chém đầu một hoàng đế có thể đưa tới một hậu quả nguy hiểm. Vì thế bà định cho công bố ngư chiếu thoái vị của vua Quang Tự và tìm một ấu chúa khác và bà lại tiếp tục nắm quyền thiên tử trong chức vụ nhiếp chính. Nhưng Từ Hi cũng sợ rằng vị ấu chúa ấy rồi ra thì cũng đi theo con đường độc lập của vua Quang Tự. Cuối cùng Từ Hi để cho vua Quang Tự tiếp tục giữ chức Hoàng Đế, nhưng giam nhà vua vào Doanh Đài, và chỉ cung cấp cho nhà vua một đời sống vật chất kham khổ, lúc nào cũng bị canh gác nghiêm mật, và có một thái giám theo sát nhà vua ngày cũng như đêm.
Bị giam vào Doanh Đài thì chẳng khác nào là đi đầy. Doanh Đài là một hòn đảo nhân tạo trong một cái hồ nhân tạo bên trong Cấm Thành, chỉ cách ngai vàng cũ của nhà vua chừng 15 phút đi bộ. Một số nhà cải cách của vua Quang Tự phải đào tẩu. Khang Hữu Vy trốn qua Hương Cảng, Lương Khải Siêu và Tôn Văn trốn sang nhật Bản, gia nhập hàng ngũ những nhà cách mạng tại đây. Riêng Đàm Tự Đồng khẳng khái không chịu chạy trốn, nguyện đem máu mình tưới cho mầm cách mạnh và bị giết lúc 33 tuổi, cùng với năm đồng chí nữa là: Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú, và Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vy). Người thời đó gọi sáu nhà cải cách bị tử hình này là” Lục Quân Tử”.
Nhiều người khác cũng bị bắt, bị tra tấn dã man và bị chém đầu. Họ bị hành hình ngay tại pháp trường giữa Bắc Kinh. Từ những cái thây không đầu, máu đổ chảy thành sông. Gia đình các nạn nhân không được phép khâu đầu liền với thân thể trước khi đem chôn như trước kia. Cuộc Cải Cách Một Trăm Ngày của vua Quang Tự chấm dứt trong sự kinh hoàng.
Cuộc đảo chánh thất bại của vua Quang Tự và cuộc đảo chánh ngược của Từ Hi xảy ra giữa mùa hè năm 1895, sau khi Trung Hoa đã bị Nhật Bản đánh bại nhục nhã. Từ Hi giữ việc triều chính dưới danh hiệu vua Quang Tự. Ngày 21 tháng 9 năm 1895, Từ Hi tuyên cáo rằng quốc gia đang lâm nguy nên cần phải có sự lãnh đạo khôn ngoan, và vua Quang Tự đã khẩn nài Từ Hi đứng ra cầm quyền cai trị, vì Từ Hi Thái Hậu đã hai lần hành xử quyền nhiếp chính một cách hoàn hảo. Bản tuyên cáo này do chính Từ Hi thảo ra và có long ấn của vua Quang Tự với dòng chữ: “Thái Hậu đã chấp nhận lời cầu nguyện của ta.” Thế là Từ Hi Thái Hậu lại nắm quyền nhiếp chính lần thứ ba. Một lần nữa, bà lại nắm vận mệnh của cả một triều đại, một đế quốc đang hồi suy tàn.
Với phe bảo thủ hậu thuẫn chung quanh, Từ Hi bắt đầu công cuộc đưổi giống ”Bạch Quỷ” ra khỏi Trung Hoa. Kết quả đưa tới loạn Quyền Phỉ. Đây không phải là một cuộc nổi loạn chống chính quyền, mà là một cuộc nổi loạn chống lại người ngoại quốc và những người chủ trương cải cách. Khi loạn Quyền Phỉ bộc phát năm 1900 thì các nhà truyền giáo ngọai quốc tại Trung Hoa là nạn nhận chính. Khoảng 200 nhà truyền giáo và 20 ngàn người Trung Hoa theo đạo Thiên Chúa bị Quyền Phỉ giết rất dã man. Một cảnh tàn sát diễn ra tại Tuy Viễn được ghi lại như sau:
“Hôm đó cuộc hành quyết bắt đầu với mục sư Farthing thuộc dòng Baptist. Mục sư Farthing được dẫn lên trước. Bà vợ hoảng sợ nắm chặt lấy ông ta, nhưng mục sư nhẹ nhàng gỡ tay vợ và đẩy vợ lui lại, rồi bước thẳng tới trước người đao phủ thủ và quỳ xuống. Một nhát dao vung lên và đầu ông ta rụng xuống. Kế đó là các mục sư khác, tất cả đều bị chặt đầu.
“Viên quan điều khiển cuộc hành quyết thấy công việc tiến hành chậm chạp quá, nên ra lệnh các binh sĩ khác cũng phải vung kiếm tiếp tay với các đao phủ thủ, vì số nạn nhân quá đông đảo. Khi đàn ông bị chặt đầu xong thì tới lượt các bà. Bà Farthing ôm chặt hai đứa con, và binh sĩ giằng hai đứa bé đó ra, rồi một lưỡi kiếm lóe lên và đầu bà văng đi. Các đao phủ tiếp tục tới các trẻ con. Nghệ thuật chém đầu của các đao phủ thủ thật là điêu luyện. Chỉ một nhát là xong một nạn nhân. Tuy nhiên có một số đao phủ thủ hơi vụng về, phải vài nhát mới làm xong nhiệm vụ khiến nạn nhận bị đau đớn vô cùng.
“Bà mục sư Lovitt đeo kính, tay nắm chặt đứa con và nói với viên quan nhà Thanh: “Chúng tôi tới Trung Hoa để đem Tin Lành cho các ông về Chúa Cứu Thế, chúng tôi không làm điều gì hại, mà chỉ làm điều tốt, tại sao các ông đối xử với chúng tôi như thế này?” Một tên lính tiến lại, lột kính bà ra và hắn phải chém hai nhát mới chặt đứt được cổ bà Lovitt. Lúc chết rồi, tay bà Lovitt vẫn nắm chặt tay đứa con của bà.
“Khi các mục sư Tin Lành tử đạo xong thì tới các linh mục công giáo. Vị giám mục được dẫn ra trước. Vị giám mục đã quá già, râu tóc bạc phơ. Ngài hỏi viên quan giám trảm tại sao ông ta hành động tàn ác như thế. Viên quan trả lời vị giám mục bằng một nhát chém chéo ngang mặt. Máu nhuộm đỏ ối bộ râu bạc của vị giám mục già và ngài gục xuống chết ngay. Sau đó là các linh mục và các nữ tu, tất cả đều chịu chung hình phạt chặt đầu.
“Ngày hôm đó tất cả 45 giáo sĩ Tây phương bị hành quyết cùng với một số đông người Trung Hoa theo đao Thiên Chúa. Xác của các nạn nhân để mặc nằm tại bãi hành quyết suốt đêm đó vì mãi đến tối cuộc hành quyết mới chấm dứt. Trong đêm đó, tất cả các xác đều bị lột hết quần áo và những gì quý giá đeo trên người. Ngày hôm sau tất cả xác được chôn tập thể, trừ một vài cái đầu được đem đóng lên cổng thành làm gương cho công chúng.”
Quan quân nhà Thanh không khỏi kinh ngạc và cảm phục e sợ trước sự can đảm của gia đình các nhà truyền giáo Tây phương. Trừ một vài sự run rẩy ở phía các bà, và các bàn tay trẻ con nắm chặt váy mẹ, không một ai khóc lóc, kêu than hoặc van xin tha chết. Tất cả các nạn nhân bình thản chấp nhận cái chết thảm khốc dưới đao kiếm của quan quân nhà Thanh. Các vụ hành quyết giáo sĩ tại Trung Hoa đã gây phẫn nộ tại Tây Phương. Sáu quốc gia phái quân đội đến trả thù, một cuộc trả thù rất đắt giá cho người Trung Hoa. Huân tước Alfred von Waldersee, chỉ huy quân đội Đức, ra lệnh cho quân sĩ dưới quyền:
“Khi các người gặp quân Trung Hoa, các người phải đánh bại chúng. Không một kẻ nào được tha, không được bắt làm tù binh mà phải giết hết. Tất cả những kẻ nào rơi vào tay các người, các người mặc tình chém giết. Cũng như người Hung Nô cách đây một ngàn năm dưới quyền Atila đã tạo được danh tiếng khủng khiếp còn lưu truyền cho tới ngày hôm nay, thì bây giờ các người có nhiệm vụ làm cho Đức quốc cũng được kinh sợ như vậy tại Trung Hoa, và từ nay người Trung Hoa sẽ không dám nhìn thẳng vào mắt người Đức.”
Sau đó là một cuộc tàn sát trả thù vô cùng khủng khiếp, và một sự tàn phá kinh hồn, biến cung điện thành những đống gạch vụn vĩ đại. Quân Nga chặt đầu tất cả đàn ông, đàn bà và con nít cả một vùng và liệng xác xuống sông Hắc Long Giang. Loạn Quyền Phỉ tan rã. Từ Hi thái hậu và vua Quang Tự phải bỏ kinh thành mà chạy. Sau đó Trung Hoa phải ký thêm rất nhiều nhượng bộ lớn cho tây Phương.
Từ Hi cũng tỏ ra là một chính khách khôn khéo. Bà lập tức nương theo khuynh hướng cải cách và tối tân hóa Trung Hoa. Từ Hi ra lệnh cấm xử tử tội bằng hình phạt tùng xẻo, nghĩa là lóc thịt nạn nhân thành hàng ngàn miếng cho đến chết. Bà cũng ra lệnh cấm hút thuốc phiện. Các nước Tây Phương cùng với Nhật Bản tận tình khai thác việc buôn bán thuốc phiện tại Trung Hoa, và người Trung Hoa dần dần mất hết mọi năng lực của ý chí. Năm 1906, luật cấm thuốc phiện của Từ Hi bắt buộc việc buôn bán và dùng thuốc phiện phải chấm dứt trong thời hạn mười năm. Nhiều người Trung Hoa đã bị chặt đầu về tội hút thuốc phiện.
Từ Hi cũng ra nhiều đạo dụ chấm dứt sự chênh lệch về quyền lợi giữa người Mãn Châu và người Hán. Trước kia người Mãn Châu được hưởng nhiều ưu đãi hơn người Hán. Bây giờ việc kết hôn giữa hai giống dân được coi là hợp pháp, tuy nhiên người Mãn Châu thuộc dòng dõi quý tộc vẫn không được lấy vợ là người Hán. Tỷ lệ viên chức người Mãn Châu cũng bị bãi bỏ. Trước kia người Mãn Châu tuy ít, chỉ là 1% dân số, nhưng được chiếm một nửa các chức vụ trong chính phủ. Mãn Châu là một vùng trước kia dành riêng cho người Mãn Châu, nay cho phép người Hán được tới định cư. Chẳng bao lâu nhờ công khai phá của người Hán, Mãn Châu trở thành một vựa lúa quan trọng của Trung Hoa.
Nhiều trường kỹ thuật theo kiểu mẫu Tây phương và Nhật Bản được mở ra dậy nghề cho thanh niên. Đàn bà Trung Hoa được khuyến khích không nên bó chân như trước, nhưng nhiều người Trung Hoa vẫn thích bó chân cho con gái, biến người con gái lành lặn thành những người tàn tật theo một tập tục lâu đời, và cũng để phân biệt đàn bà Trung Hoa với đàn bà Mãn Châu.
Vào ngày sinh nhật năm 1906 của Từ Hi, bà hứa với quần chúng sẽ đặt ra một hiến pháp và phác họa ra một Kế Họach Chín Năm để thành lập một chính phủ đại diện cho dân chúng. Đây là một dấu hiệu tiến bộ rõ rệt vì chỉ mười năn trước, kẻ nào đề nghị một điều như thế thì đã bị chém đầu rồi.
Trong lúc Từ Hi vẫn giữ quyền nhiếp chính thì con gái Vinh Lộc kết hôn với Thuần Thân Vương. Thuần Thân Vương là cháu Từ Hi và là em của vua Quang Tự. Năm 1906 vợ Thuần Thân Vương sinh được một con trai và đặt tên là Phổ Nghi. Từ Hi bây giờ cũng già rồi và không thể nắm quyền nhiếp chính mãi. Từ Hi cũng không muốn vua Quang Tự trở lại ngôi vị thiên tử. Bà cần phải tìm một ấu chúa khác để thay thế vua Quang Tự, và Phổ Nghi chính là người bà đang tìm kiếm.