THẦY TĂNG MỞ NƯỚC
Tác giả: Nguyễn Quỳnh
LỜI TỰA: Đêm khuya không dám dang chân ruỗi-Vì ngại non sông xã tắc xiêu-Lý Công Uẩn.-
Cách đây hơn ba mươi năm, cũng có vài tiểu thuyết gia viết về Lý Công Uẩn. Cốt truyện tuy ly kỳ, câu văn tuy hấp dẫn thực, nhưng các tác giả thường thường đưa vào nhiều chuyện hoang đường để mô tả một nhân vật lỗi lạc với những hành động vượt quá sức tưởng tượng.
Thực ra, theo những tài liệu lịch sử xác thực thâu thập được, thì Lý Công Uẩn cũng chỉ là một người dung phàm,có cha họ Lê, và mẹ họ Phạm (mà không phải là con của thần nhân), nhưng sởdĩ sau này gây được sự nghiệp lớn lao như vậy, là do ở tấm lòng tha thiết với sự tồn vong của dân tộc, ở trí cương quyết bảo vệ đạo Phật và hoằng dương Phật Pháp, ở một hoàn cảnh thuận tiện cho người anh hùng vùng dậy đạp đổ chế độ độc tài của vua Lê Ngoạ Triều.
Hơn nữa, Lý Công Uẩn lại được dưỡng dục ở Thiền môn, một khung cảnh thích hợp cho những tâm hồn sa ngã nào muốn cải thiện, rồi hàng ngày được vị cao tăng Vạn Hạnh truyền thụ những giáo lý cao siêu của đạo Phật, và đạo Khổng, dễ khiến cho con người lúc nào cũng muốn vươn tới cõi toàn thiện, toàn mỹ, quên mình để tạo hạnh phúc cho muôn loài.
Cuốn lịch sử tiểu thuyết “Thầy Tăng Mở Nước” của Nguyễn Quỳnh không rơi vào những lỗi lầm đáng tiếc của các tiểu thuyết trước đó. Tác giả đã gạt bỏ những thuyết hoang đường về sự tích của LÝ CÔNG UẨN và chỉ đưa ra những sự trạng có thể xảy ra được ở một thời đại mà chiếc ngai vàng đang ở họ này đột nhiên chuyển sang tay họ khác (như trường hợp Lê Hoàn cướp ngôi của nhà Đinh), hoặc khi mà Chính Quyền chưa ổn định được tình hình rối ren ở các thôn quê, vì còn bận đối phó với nạn ngoại xâm (trường hợp quân nhà Tống viện cớ ủng hộ nhà Đinh, mang quân sang đánh Lê Hoàn).
Hoàn cảnh nào đã tạo nên Lý Công Uẩn, một cá nhân siêu đẳng, đã dùng “Đức” để duy hệ nhân tâm, gây được sức mạnh ở lòng tin tưởng vào phép màu nhiệm của đạo Phật để mở ra một triều đại kéo dài hơn hai trăm năm, võ công đã hiển hách, văn học lại hưng thịnh, đạo lý được duy trì, cương thường được bảo vệ.
Cuốn lịch sử tiểu thuyết “Thầy Tăng Mở Nước” đã trình bày rõ ràng hoàn cảnh và trường hợp đặc biệt đó.
“Vạn Hạnh” xuất bản cuốn lịch sử tiểu thuyết “Thầy Tăng Mở Nước” không ngoài những mục đích nói trên, mà còn hân hạnh cống hiến đến quý đọc giả một món ăn lành mạnh bổ ích cho tinh thần, đồng thời góp thêm chút ít tài liệu lịch sử để rộng đường dư luận.
Thích Thanh Kiểm
NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ: Đêm khuya không dám dang chân ruỗi-Vì ngại non sông xã tắc xiêu-Lý Công Uẩn.-
Khu rừng Báng (thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh) chạy dài đến Chuôm “Địa phận” giáp giới làng Phù Lưu và ăn rộng mãi gần Phù Đổng, bao trùm một khoảng đất ước được vài chục mẫu. Rừng tuy nhỏ, nhưng từ trước đến giờ ít người dám mạo hiểm đi vào sâu, vì óc mê tín dị đoan của dân các làng chung quanh đã tạo nên những mẫu chuyện hoang đường, khủng khiếp, mà họ đã chắc chắn xảy ra ở giữa rừng xanh. Có người quả quyết đã trông thấy dáng điệu yêu kiều của một mỹ nữ nhỡn nhơ dưới gốc cây, một liệp nhân trong những lúc “trà dư tửu hậu” đã kể với bạn bè chính mình đã được mục kích một toán ma, xoả tóc, trần truồng, nhảy múa chung quanh đống lửa, giữa đêm hồm rằm. Nhưng có lẽ rùng rợn nhất là câu chuyện kể sau đây của một bộ tướng đã già, người của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp :
- Hồi ấy, - lời của viên bộ tướng nói – tôi đóng ở Tiên Du. Sứ quân tôi tính nóng như lửa và có sức khoẻ vô cùng. Những bộ hạ dưới trướng gồm một số đông quân cướp biển, và vài trăm tàn binh Nam Hán ở Đường Lâm về hàng. Tụi này tính tình hung hãn, giết người không ghê tay. Một hôm, chúng tôi sang Siêu Loại, đánh nhau với sứ quân Lý Khuê, bắt được một ít tù binh. Lúc trở về, Sứ quân tôi cho quân nghỉ ở Rừng Báng, giết lợn, mổ trâu, khao thưởng sĩ tốt. Trước khi nhổ trại kéo đi. Sứ quân sai tụi Nam Hán đem tù binh ra chặt từng khúc, lấy gan ăn, rồi cuốn bộ lòng lên trên cành cây. Từ đấy trong những đêm tối âm u, văng vẳng nghe có tiếng oan hồn rên rỉ…
Câu chuyện kể từ miệng người này sang tai người khác, rồi lan tràn khắp vùng như vết dầu loang. Những tháng lạnh buốt xương, mưa phùn lất phất bay giữa cảnh đêm khuya ủ dột, tiếng gió ngàn vi vu thổi, gieo vào óc mọi người một cảm giác hãi hùng…
Giữa rừng có một ngôi chùa cổ. Cứ theo như tin đồn thì chùa này do một nhà sư lập ra, từ đời họ Khúc.
Nguyên trong hồi Bắc thuộc lần thứ ba, đất Giao Châu luôn luôn bị quân Nam Chiếu quấy nhiễu, dân gian thật là sống dở chết dở.
Một đằng quân giặc ra sức cướp phá, đốt nhà, giết người. Một đằng binh sĩ nhà Đường kéo đi dẹp giặc thì sự tiếp tế lương thực đều trông cả vào toàn dân, thành ra một cổ hai tròng, trăm họ lầm than cơ cực. Có nơi ,quân giặc vừa kéo đi khỏi, thì quân Đường lại đến đóng, còn mớ rau, thúng thóc, thảy đều bị vơ vét sạch. Nhiều địa phương, vườn ruộng bỏ hoang, cửa nhà tiêu huỷ, suốt đêm ngày khói lửa mịt mù, tiếng ngựa hí, quân reo ầm ầm như nước thuỷ triều cuồn cuộn chảy. Dân sự, bồng con bế cái trốn tránh vào những nơi rừng rậm núi cao, lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi. Bọn vô lại rủ nhau đi cướp thóc lúa, rồi lại đón các quân Mường, Mán về hợp đảng, đánh chặn binh sĩ nhà Đường. Sau nhờ có Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ, dùng mẹo đánh đuổi quân Nam Chiếu, đem lại sự an ninh cho đất Giao Châu trong một ít lâu. Kịp đến nhà Đường đổ, nước Tàu có loạn Ngũ quý. Ở Giao Châu, họ Khúc nhân cơ hội đó nổi lên chiếm giữ binh quyền; Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên làm Tiết Độ Sứ. Một buổi sáng, khoảng năm Đinh Sửu (917), một vị sư già tìm đến làng Cổ Pháp, và nói với sở tại cho phép lập một ngôi chùa. Một cụ già trong làng ngạc nhiên hỏi :
- Nhà sư định lấy gỗ đâu mà làm chùa?
- Thưa, bần tăng lấy trong rừng.
- Thế còn gạch ngói?
Sư già chỉ tay xuống đất, đáp :
- Ở đây.
Mọi người lấy làm lạ nhưng không dám hỏi nữa.
Sư già nói tiếp :
- Mô Phật, bần tăng mạn phép xin cho gọi tất cả dân làng ra để bần tăng thưa một câu chuyện.
Nói đoạn, sư già lấy ở trong bọc một cái mõ con và một cái dùi, gõ mấy tiếng. Tiếng mõ vang dội khắp làng tưởng như rung chuyển cả nhà cửa, và có một hấp lực rất mạnh lôi cuốn hết cả nam, phụ, lão, ấu. Đến khi mọi người đã tề tựu đông đủ, sư già đứng trên thềm dỏng dạc nói :
- Mô Phật, bần tăng nhận thấy trên 10 năm loạn lạc, tinh thần của dân ta sút kém đi rất nhiều, đạo đức suy vi, luân thường đảo ngược. Trong hồi Bắc thuộc, đất Giao Châu nhờ được hai vị ân nhân Nhâm Diên, Tích Quang dùng đức mà trị dân, lấy nhân mà cảm hoá lòng người, lấy lễ nghĩa mà cải tạo phong hoá. Một trăm năm sau, Sĩ Vương mở mang việc học, kết nạp anh tài, thu dùng hào kiệt. Nhờ thế mà một số ít dân ta mới được thấm nhuần đôi chút giáo lý đạo Khổng. Nhưng tiếc thay Hán học không được phổ biến trong dân gian thì dẫu có đem từ đất Lỗ sang hàng vạn Tứ Thư, Ngũ Kinh, hỏi có ích gì cho dân Giao Châu ? Bần tăng lúc bé cũng theo đòi Hán học, nhớn lên được một vị cao tăng trong Thiền môn giác ngộ chỉ bảo cho biết cuộc đời là khổ hải, con người luôn luôn ở trong vòng luân hồi, cứ bị các nghiệp báo theo rõi mãi. Bần tăng muốn thoát khỏi bể trầm luân, nên thế phát quy y. Bần tăng định lập ngôi chùa ở rừng Báng, hàng ngày thuyết pháp giác ngộ chúng sinh, nếu các người nhất tâm thành kính tin tưởng ở đức Phật tổ, thì sau này tránh được các bệnh tật hiểm nghèo, và thoát được nạn binh đao, thuỷ, hoả.
Lời nói của vị sư già quả nhiên có mãnh lực cảm hoá được lòng người. Hai hôm sau hơn một trăm trai tráng chặt cây phạt cỏ, mở một con đường vào rừng. Sư già chọn chỗ đất cao cắm hướng. Dân làng gánh gạch, vôi cát, tấp nập suốt ngày, chưa đầy một tháng, ngôi chùa đã xây xong. Sư già tự tay nhào đất nặn một pho tượng sơn son, thiếp vàng, đặt lên Tam Bảo…
Hôm khánh thành chùa, dân chúng ở hạt Đông Ngàn kéo nhau đến vãng cảnh rất đông. Sư già đặt tên là chùa Ứng Tâm. Năm sau, sư già bị bệnh, tịch ở chùa. Lúc lâm chung, các đệ tử xúm xít quanh giường cầu xin thầy giáo hoá. Sư già nói :
- Năm mươi năm về sau, một vị chân mệnh thiên tử sẽ giáng sinh ở chùa này. Thời ấy đạo Phật chiếm địa vị toàn thịnh. Các người đều là chân tu lo gì chả được Phật Tổ phả độ.
Từ khi sư già viên tịch đi rồi, thì các đệ tử tản mát, mỗi người một nơi; người thì mai danh ẩn tích, người thì quẩy níp hái thuốc phương xa. Còn lại một cao đồ của người là sư Không Thanh ở chùa, nhưng năm sau, bỗng một hôm đi mất. Rồi từ đó cảnh chùa bỏ vắng, lối cũ cây cỏ phủ kín, mặt tường loang lỗ, rêu mọc xanh rì, rồi những chuyện khủng khiếp thêu dệt mãi ra, làm cho khu rừng biến thành một nơi bất khả xâm phạm.
GẶP GỠ: Đêm khuya không dám dang chân ruỗi-Vì ngại non sông xã tắc xiêu-Lý Công Uẩn.-
Năm Canh Ngọ (970), niên hiệu Thái Bình, nguyên niên của Đinh Tiên Hoàng Đế.
Gần 20 năm, mười hai vị Sứ quân đánh giết lẫn nhau, dân gian trộm cướp nổi lên như ong. Đức Tiên Hoàng dấy binh ở Hoa Lư dẹp yên các nơi, thống nhứt giang sơn, lập thành một nước tự chủ ở phương Nam. Dân chúng trong thời kỳ loạn lạc, phiêu bạt ở nơi rừng xanh núi đỏ, lục tục kéo nhau về quê hương mưu đường sinh kế. Làng mạc lại trở nên sầm uất, chợ búa tấp nập, kẻ bán người mua. Ở dọc sông, thuyền bè đậu như lá tre, phấp phới cánh buồm in trên nền trời xanh ngắt : cảnh tưởng hiện ra vẻ thái bình thịnh trị.
Một buổi sáng, tại làng Cổ Pháp, nhà lão Mộc đông nghịt những người. Mấy cụ già ngồi sổm trên chiếc chiếu giữa nhà, xung quanh xúm xít những trai tráng, người nào cũng cao lớn khoẻ mạnh. Cái điếu cầy chuyển từ người này sang người kia, thỉnh thoảng lại rít lên từng hồi, nghe rất ròn rã. Lão Mộc, tuy đã quá lục tuần, nhưng nom còn quắc thước lắm, và có tiếng là tay thiện xạ ở vùng này. Chỉ có một cái cung và mớ tên, mà lão quanh năm lúc nào cũng phong lưu. Suốt từ cánh rừng Trang Liệt đến dãy núi Tiên Du, rồi vòng về Ve, Húc, Phù Đổng, chỗ nào cũng có vết chân của lão. Chẳng đêm nào lão chịu về tay không. Ban ngày lão dò vết chân thú rừng, xông vào tận hang để bắt.
Thời kỳ các Sứ quân tranh bá đồ vương, lão có giúp Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du, vì có tài bách phát bách trúng, nên lão được quân sĩ gọi là tiểu Dưỡng Do Cơ. Lão thờ Nguyễn Thủ Tiệp làm minh chủ, vì lão tin rằng sau này Thủ Tiệp sẽ thành công. Lão thường nói với các thủ hạ rằng : “Nguyễn Lịnh Công (tức Thủ Tiệp) đi như rồng, bước như cọp, tính hiếu sát, nhưng biết dùng người, đúng là chân mệnh thiên tử. Chúng ta xuất thân áo vải, hết lòng phò chúa, dựng nghiệp lớn cho bỏ lúc nằm gai nếm mật. Ta dẫu chẳng có tài như Ngô Khởi, Hàn Tín, nhưng nếu sau này giang san thu về một mối, Lịnh Công khoác áo Hoàng Bào lên ngôi Cửu Ngũ, thì ta cũng được vào địa vị Khai Quốc Công Thần, liệu kém gì Khương Thái Công, khai sáng cơ nghiệp nhà Chu ?”
Kịp đến khi Nguyễn Thủ Tiệp bị chết về tay Vạn Thắng Vương, lão thấy lòng dân đã ngã về họ Đinh rồi, nhưng muốn đền ơn tri ngộ của chủ, nhất định lão không chịu về hàng Vạn Thắng Vương, trở về quê, lấy săn bắn làm kế sinh nhai. Lão không có vợ con, không người thân thích.
Hôm ấy, lão mời dân làng đến nhà là vì lão vừa có người cho biết có một con hổ đã về rừng Báng được vài hôm nay. Và lão muốn tổ chức một cuộc săn lớn để bắt mãnh thú. Giữa đám đông, lão dõng dạc chỉ tay bảo một thanh niên đứng dựa cột :
- Thế nào! Chú Tư Chiềng, chú hãy kể lại cho chúng ta nghe câu chuyện của chú gặp hổ ra sao! Cứ thực mà nói, nghe chưa!
Bấy giờ mọi người mới để ý Tư Chiềng, hắn trạc độ 19, 20 tuổi, người cao lớn, da ngăm ngăm đen, tóc búi ngược. Hắn mặc một cái áo nâu ngắn cũn cỡn, cộc tay và đóng một chiếc khố bằng vải thâm ruộm bùn. Những bắp thịt cuồn cuộn nổi lên ở cánh tay, dóng chân, trông rắn chắc như thanh sắt nguội. Trông hắn đứng vững vàng như pho tượng đá ở trước cửa chùa, dũng mãnh như con ngựa sung sức có thể một ngày đi được dăm trăm dặm mà không biết mỏi.
Tư Chiềng cất tiếng nói, giọng oang oang như lệnh vỡ :
- Canh ba đêm qua, tôi dạo vào rừng định kiếm ít củi về đun. Khi đến gò Ông Đống thì thoáng nghe tiếng sột sạt, rồi từ trong bụi chiếu ra hai ngọn đèn đỏ rực. Tôi đi rừng nhiều nên biết là mắt hổ. Tôi vội vàng giữ vững chuôi dao đứng thủ thế. Con hổ vụt nhảy qua đầu tôi rồi biến vào rừng mất.
Mọi người đều cười ồ lên. Một cụ già, giơ tay vẫy vẫy mấy cái rồi hỏi :
- Thế chưa giáp chiến à ?
- Chưa! Hổ chạy mất rồi còn đâu mà đánh?
- Chú xem nó có to không?
- Trời tối, trông không rõ, nhưng cũng phải bằng trâu mọng, vì lúc hổ nhảy, luồng gió rất mạnh.
Lão Mộc ngắt lời :
- Được rồi, thế là đủ! Vậy chúng ta bàn cách xem nên bắt sống hay đánh chết. Ai có ý kiến gì, xin cho biết ?
Một thanh niên nối lời :
- Chúng ta chia làm 4 toán, mỗi toán độ mươi người, dùng tên nỏ bắn. Đợi khi hổ yếu rồi, bỏ nỏ dùng dao sắc xông vào chém là được.
Có tiếng nói từ dưới thềm đưa lên :
- Không xong rồi. Trong rừng cây cối um tùm, dây leo chằng chịt, tên nỏ bắn không khéo chỉ cắm vào thân cây, chưa chắc đã trúng hổ.
Một thanh niên khác tiếp :
- Ta huy động hết các tráng đinh trong làng chia thành từng toán độ năm người một, dùng toàn mắc sắc, dao nhọn. Hễ toán nào gặp hổ thì xông vào đâm rồi rúc tù và báo hiệu để những toán khác vào tiếp sức.
Một cụ già ngắt lời :
- Cũng không xong nốt. Sức hổ mạnh bằng cả một đội quân, năm ba người thì thấm vào đâu mà đâm với chém. Đánh hổ, ta chỉ nên dùng mưu, chứ cậy khoẻ thì toi mạng ngay. Tôi có cách này : đào hố chông gai để bẫy không sợ nguy hiểm.
Có tiếng phản đối :
- Dùng bẫy lâu lắm, ta nên lợi dụng lúc hổ còn lạ rừng, đánh ngay thì hơn. Muốn tránh sự xung đột với hổ thì dùng tên thuốc độc.
Lão Mộc để mặc mọi người tranh luận, chỉ ngồi hút thuốc vặt. Lão đã có định kiến, nên cứ thản nhiên nghe mọi người bán tán đã chán tai rồi, lão mới cất tiếng nói :
- Các chú bàn cùng có lý cả, nhưng theo ý tôi, nếu đánh nhau với hổ trong rừng, thật vất vả lắm. Thảng hoặc có thắng lợi được, thì bên mình cũng sây sát vài nhân mạng là ít. Chỉ có cách dùng mưu cho hổ lìa khỏi rừng, rồi đánh, mới dễ. Binh pháp gọi là “điệu hổ ly sơn”.
Cả bọn gật gù tán thưởng :
- Phải đấy.
Lão Mộc đắc chí nói tiếp :
- Hổ ví như một dũng tướng, lấy sức địch thì khó bề thủ thắng, nhưng hổ tham mồi nên dễ bị khuất phục. Khi hổ đã mắc mưu, thì chỉ cần một tay khoẻ và nhanh nhẹn là trói được. Công việc này, phi Tư Chiềng, không ai kham được nổi.
Có tiếng xì xào lẫn với mấy câu văng tục. Lão làm lơ như không biết, tiếp luôn :
- Chỉ nửa tháng nữa, thế nào hổ cũng bị bắt. Hôm nay xin tạm giải tán để mặc tôi với Tư Chiềng.
Mọi người kéo nhau về, bán tín bán nghi, chưa biết già Mộc định dùng cách gì để đối phó với mãnh thú.
Hai ngày liền, sáng nào lão Mộc cũng dắt Tư Chiềng lảng vảng ở gò Ông Đống, hình như để quan sát địa thế. Có lúc hai người cúi xuống hì hục đào…
Trời đã về cuối thu, lá vàng lác đác rơi. Gió lạnh thổi, lướt qua ngọn cỏ còn đọng lại những hạt sương lóng lánh như bạc. Từng đàn nhạn cất cánh bay về phương xa như để tránh những trận mưa sắp đổ sập xuống dài rằng rặc và lạnh buốt, của một mùa thu ảm đạm.
Lão Mộc đứng tựa vào thân cây, ngón tay chỉ cái gò, hỏi Tư Chiềng :
- Hôm ấy chú gặp “hắn” ở đây phỏng ?
- Phải, ở trong bụi cây trước mặt.
- Có lẽ “hắn” thường qua lại chỗ này, nên có nhiều vết chân.
- Đúng đấy.
Lão Mộc đưa mắt nhìn chung quanh rồi ngửa mặt lên trời, lẩm bẩm :
- Trong ba ngày nữa mà không mưa thì công việc tất xong.
Lão vỗ vai Tư Chiềng, thân mật nói :
- Chú nhớ lời tôi dặn, và về nhà luyện tập lại kỹ càng. Tôi tin ở tài năng của chú.
Hai người còn đứng lại bàn tán, tay chỉ chỗ, mắt nhìn ngang nhìn ngửa, quá trưa họ mới thủng thỉnh ra về.
Qua một đêm yên tỉnh. Sáng hôm sau mây đen đùn đùn che lấp cả bầu trời, rồi suốt ngày đêm, những giọt nước, lúc lất phất bay nhẹ nhàng như tấm màn mỏng căng trên nền trời ủ dột, lúc rầm rập như giòng thác đổ dồn xuống khe núi âm thầm. Chốc chốc lại có tiếng sấm nổi lên, vang dội cả không trung, và trên màn đen sẩm của đám mây dầy đặc, những tia chớp ngoằn ngoèo sáng rực lên một chốc rồi tắt làm cho tạo vật lại chìm đắm trong khoảng không mù mịt. Gió ào ào thổi. Từ ngọn cây những chiếc lá lả tả rơi xuống bùn lầy. Thỉnh thoảng giữa luồng gió cuồn cuộn từ khu rừng bốc lên một con chim vụt phóng qua, nhanh như tên, buông tiếng kêu thê thảm.
Trong hai hôm mưa ròng rã, không ngày nào không có chuyện hổ bắt người. Ngay ở làng Cổ Pháp, đã có 3 người đàn bà bị chết về hổ. Có nhà vừa sâm sẩm tối, ác thú đã lần mò vào bắt lợn. Dân chúng kinh khủng đóng kín cửa không dám thò ra đến ngoài. Suốt dọc đường trơn như mỡ, chạy từ Cổ Pháp đến Phù Lưu không một bóng người qua lại. Đến ngày thứ 3 thì mưa ngớt hạt, và hôm sau thì tạnh hẳn. Sáng sớm ở phương đông, vầng thái dương đã le lói sau áng mây hồng. Nắng hanh đánh tan màn sương mù và rắc những bụi vàng trên màu xam xám bẩn thỉu của mái tranh. Xa xa, mặt nước chuôm trắng bạc phản chiếu những tia hào quang rực rỡ, như một tấm gương khổng lồ đặt giữa một vùng cây cỏ xanh tươi. Dưới suối giòng nước ầm ầm chảy, cuốn cả những cành cây khẳng khiu xơ xác cả lá.
Dân làng Cổ Pháp kéo nhau đến chợ để đổi chác thực phẩm. Trên con đường nhỏ hẹp, vắt qua những ngọn đồi rậm rạp, từng toán người hấp tấp đi, đàn ông cầm cao dài đi hai bên kia đường, bảo vệ bọn đàn bà gánh thóc, ngô, khoai. Tới chợ, mọi người xúm xít quanh lão Mộc để hỏi chuyện. Lão chỉ mỉm cười, không trả lời. Tay cầm vò rượu, đầu đội thúng gạo, lão rẽ đám đông người, toan rảo bước đi, thì bỗng một bàn tay đặt lên vai lão, làm lão phải quay đầu, rồi tiếp đến một giọng nói nhẹ nhàng :
- A Di Đà Phật, bần tăng kính chào lão trượng.
Lão ngạc nhiên khi nhận ra người đứng trước mặt mình là một vị sư già, quần áo tồi tàn, một tay chống chiếc gậy trúc, một tay cầm cái bát chìa ra như cầu xin bố thí. Trong đời giang hồ của mình, lão thường giao thiệp với các tăng đồ, nên đối với hạng người này, lão rất nhiều cảm tình. Lão đã được tiếp xúc với nhiều tay cự phách trong Thiền môn, và nghề bắn của lão được tới chỗ cao siêu, là nhờ ở sự chỉ bảo của một vị sư người Tàu đi truyền đạo Phật ở đất Giao Châu. Lão đặt vò rượu xuống đường, tay bốc một nắm gạo toan đặt vào bát của vị sư, nhưng sư già đã nhanh nhẹn thu bát lại, mỉm cười, nói :
- Bần tăng có đi khất thực đâu! Bần tăng muốn gặp lão trượng để thưa một câu chuyện.
Tiếng nói êm ái như quyến rũ lòng người. Cặp mắt sáng quắc của sư già nhìn thẳng vào mặt lão, có sức thôi miên rất mạnh làm tiêu tan hết sức nghị lực của vị anh hùng gan dạ đã bao phen đùa rỡn với cái chết ở bãi chiến trường. Lão cúi đầu, lễ phép thưa :
- Xin thỉnh sư phụ quá bộ lại tệ xá.
Nét mặt của sư già phút chốc trở nên nghiêm nghị :
- Mô Phật, bần tăng không dám phiền lão trượng. Bần tăng chỉ cần lão trượng hứa cho một điều.
- Xin sư phụ chỉ giáo.
- Lão trượng để mặc bần tăng đối phó với mãnh thú.
Lão ngạc nhiên nhìn sư già, ngắt lời :
- Giống hổ hung ác lạ thường, giết hại người và vật ở vùng này rất nhiều. Chúng tôi có chút tài nghệ, không lẽ làm ngơ để ác thú hoành hành mãi được, nên phải ra tay trừ hại cho dân, không dám phiền đến sư phụ phạm vào sát giới.
- Con hổ này của bần tăng nuôi đã lâu, vì sơ ý một chút nên nó trốn về đây. Xin lão trượng nễ lời bần tăng dung tha nó một phen, bần tăng xin cảm tạ.
- Chúng tôi chót hứa với dân làng, không lẽ mỗi lúc đã thôi ngay được. Sư phụ là người từ bi mà nuôi ác thú để làm hại dân, không sợ Thiền phái dị nghị sao ?
Sư già mỉm cười, nói :
- Bần tăng tự biết mình có lỗi, nhưng sự đã rồi, không sao lấy lại được. Bốn người ở vùng này bị chết dưới vuốt hổ, cũng là số mệnh xui nên thế. Lão trượng một đời sát hại chúng sanh đã nhiều nghiệp báo theo rõi, cũng nên nới tay một phen để làm đẹp lòng thượng đế.
Lão ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi :
- Sư phụ trụ trì ở chùa nào?
- Bần tăng từ khi thế phát theo thầy được hai năm, tu ở chùa Khuất Liêu, đất Đường Lâm. Khi sư phụ của bần tăng tịch rồi thì bần tăng vân du khắp dãy núi Hoành Sơn, tiêu dao ngày tháng, bạn với cỏ cây, vui cùng trăng gió. Hơn mười năm lưu lạc giang hồ, vài quyển kinh, một bầu nước, tấm thân hạc nội mây ngàn, tưởng như gột hết được mọi sự phiền muộn.
- Sư phụ, pháp hiệu là gì ?
- Bần tăng họ Lý, tên là Khánh Vân, còn pháp hiệu thì chưa có.
- Các môn đồ của sư phụ có nhiều không mà lại nhận ác thú làm đệ tử ?
- Đó là duyên nghiệp xui nên thế. Tình thầy trò, bần tăng không nỡ để nó phải chết dưới lưỡi dao oan nghiệt, nên hết lòng cầu khẩn, xin lão trượng dung tha cho một lần.
- Sư phụ đã nói hết lời, mà chúng tôi cứ khăng khăng từ chối mãi cũng không tiện. Vậy xin đặt hai điều kiện : Nếu ngày mai mũi tên vô tình kết liễu đời ác thú thì cũng là số mệnh xui nên. Bằng bắt sống được, xin trao trả sư phụ.
- Xin lão trượng giữ lời hứa.
- Kẻ trượng phu một lời nói bốn ngựa khó đuổi, sư phụ cứ yên lòng.
Hai người từ biệt nhau, mỗi người đi một đường.