VIETHAMVUI

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


    Câu Thơ Yên Ngựa

    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:21 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Tiểu sử tác giả


    Nhà thơ, nhà văn, soạn giả Hoàng Yến (ảnh) đã qua đời lúc 19 giờ 30 ngày 23-2, sau một thời gian lâm trọng bệnh, hưởng thọ 91 tuổi. Hoàng Yến tên khai sinh là Lê Hoàng Yến, sinh năm 1922 tại Đà Nẵng.
    Ông tham gia cách mạng từ năm 1942. Sau toàn quốc kháng chiến năm 1946, ông nhập ngũ và về làm Thư ký toà soạn Báo Khu 4, sau đó ông có một thời gian chiến đấu trong đội hình đại đoàn 304 tham gia nhiều chiến dịch lớn, trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1957 ông là một trong những hội viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.


    [img]Câu Thơ Yên Ngựa Cau-tho-yen-ngua-tieu-su-tac-g-8171-1_zpse39712d0[/img]


    Dưới các bút danh Hoàng Yến, Thạch Tiên, Hoàng Lan, Hoàng Đức Anh, ông sáng tác khá nhiều, từ thơ, tiểu thuyết đến kịch bản sân khấu. Nhiều tác phẩm của ông đã ghi đậm dấu ấn trong lòng bạn đọc như tiểu thuyết lịch sử Câu thơ yên ngựa, Chân mây khép mở, tiểu thuyết Kẻ trộm nước trời… cùng nhiều kịch bản sân khấu khác. Ông đã giành được nhiều giải thưởng văn học - nghệ thuật gồm 3 huy chương vàng và 2 huy chương bạc cho các tác phẩm sân khấu.
    Cách đây 2 năm, ông phải phẫu thuật ung thư đại tràng, kể từ đó sức khoẻ ông suy giảm dần cho đến khi mất. Linh cữu của ông quàn tại chùa Vĩnh Nghiêm, TPHCM. Lễ động quan vào 6 giờ 30 ngày 27-2, sau đó an táng tại Nghĩa trang Công viên Bình Dương.
    T. VY

    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:25 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    PHẦN I - Chương 1


    Khi hạt sương đầu hạ chưa tan trước tia nắng sớm còn trằn trọc trên bóng vương thành, Thái Úy Lý Thường Kiệt đã lặng lẽ lên đường đi châu Lạng.
    Trái với lệ thường, Thái Úy từ khước mọi nghi lễ tiễn đưa. Có lẽ chỉ có quan Đô Tri Lưu Khánh Đàm, vị quan chấp chưởng mọi việc ở cấm đình, là người duy nhất có mặt lúc Thái Úy qua sông. Thân hình ông ta như nhô ra từ trong bóng sáng chập choạng đẫm hơi sương của điện Hàm Quang.
    Nhờ một ngọn gió lạc từ mé sông vào, đoàn tùy tùng đi sau, tình cờ nghe được một câu cuối cùng của quan Đô Tri nói với Thái Úy: “Mọi việc ở nhà, xin lệnh công cứ yên tâm”. Rồi bóng ông ta lùi dần âm thầm lặn mất giữa bóng hòe trên con đường dẫn vào cửa Diệu Đức.
    Chuyến đi của Thái Úy Lý Thường Kiệt càng thầm lặng thì những lời xì xào, bàn tán càng xôn xao trong đám đình thần. Người kinh thành cũng linh cảm có điều gì bất thường trong chuyến tuần du đột ngột này của quan Thái Úy. Mọi người cố suy đoán để tìm ra điều bí ẩn.
    Những kẻ muốn tỏ ra mình có đi lại mật thiết với người nhà Thái Úy, nghiêm nghị lên giọng: “- Phải biết Thái Úy là con người chí hiếu. Cách đây ngót bốn mươi năm, lúc phụ thân của Thái Úy là quan Lang Tướng An Ngữ bị bệnh từ trần trong châu Ái, Người đã khóc ròng ba ngày liền không một ai dỗ nổi. Đầu năm nay Đức Thánh Tông đột ngột băng hà – ngoài nghĩa vua tôi đối với Tiên Đế, Thái Úy còn mang nặng một thâm tình ruột thịt. Có dễ gì trong chốc lát, vết thương sâu này có thể liền da. Vì vậy mới có việc phò mã Thân Cảnh Phúc khẩn khoản mời người đi châu Lạng. Chắc phò mã muốn mượn cảnh đẹp của dòng sông Đào Hoa để làm Người khuây vợi nỗi buồn thương”.
    Lại có người mỉm cười, bình thản bảo:
    “- Có gì đâu, Thái Úy vừa ốm dậy. Mà mùa hè năm nay đến rất hỗn. Mới đầu tháng hai, nó đã vội vã đem sắc đỏ gay gắt của hoa gạo chặn đứng mùa xuân lại. Chắc chắn chuyến đi này của Thái Úy lên phương Bắc chỉ là một cuộc nhàn du tránh cái nóng oi nồng đang thiêu đốt kinh thành.
    - “Tránh nắng ư? – Một kẻ khác thầm thì – Đúng hơn là tránh mặt đấy quan huynh ạ!
    Huynh đài nên biết quan Thái sư phụ chính Lý Đạo Thành không ưa gì quan Thái Úy đâu – Giữa hai vị tể thần đầu triều ấy có điều đểnh đoảng với nhau như cơm nhạt canh loãng ấy mà”. Vị kia bỗng ghé mồm vào tai bạn nói khẽ: - “Huynh đài nhầm rồi, người mà Thái Úy không muốn chạm mặt chính là Hoàng Thái Hậu Thượng Dương kia. Thái Úy không muốn tham dự vào những việc làm chướng tai gai mắt của bà Hoàng Hậu đa nghi vừa mới lên nắm quyền nhiếp chính”.
    Một võ quan ngồi im bỗng buột miệng nói to những điều đang suy nghĩ trong đầu: “– Sai toét! Cứ lấy đấu lấy bát mà so với vực với sông. Thái Úy đâu phải con người như thế. Biết đâu không phải vì Bắc thùy sắp sinh đại biến mà Người phải ra đi!”.
    - “Ông bạn ơi! Ông mơ ngủ hay sao mà nói thế? Làm gì có chuyện ấy – Một người bạn đồng liêu cãi lại – Tháng 3 vừa rồi, nhà Tống đã chẳng sai quan Chuyển vận sứ Quảng Tây là Khang Vệ sang điếu ai là gì? Hai nhà Tống – Lý vẫn giao hảo thuận hòa đấy chứ”.
    Riêng có gã thư nhi phụ việc cho quan Chiêm tinh là ở cách bức, xa mọi lời bình phẩm. Gã vẫn ngồi lì ở một góc trên Vọng tình đài, trịnh trọng lật quyển sổ bìa vàng, chậm rãi ghi:
    “Năm Nhâm Tí, Thần Vũ thứ tư, mùa hạ bỗng đến đột ngột lấn mất của mùa xuân 28 ngày trời”. Rồi như không tự chủ được ngòi bút, gã để cho mạch suy nghĩ lôi cuốn, bất giác tay gã viết tiếp:
    “- Tháng giêng Nhâm Tí, vào ngày Canh Dần, vua Lý Thánh Tông băng hà cũng đột ngột. Thượng tuần tháng tư, chuyến đi của quan Đôn quốc Thái Úy Lý Thường Kiệt lên châu Lạng cũng đột ngột”.
    Hình như Thái Úy Lý Thường Kiệt không hay biết gì về những điều dị nghị về mình. Ông vẫn thanh thản lên yên, bỏ lại đằng sau những nghi hoặc bâng khuâng của kinh thành như đám bụi mù la đà bốc lên sau vó ngựa. Và mỗi bận thấy vị nguyên nhung của mình lên ngựa, viên tì tướng cận vệ trẻ tuổi lại ngẩn người trố mắt ra nhìn, không hết ngạc nhiên.
    Chỉ cần khẽ nhún chân, vóc người đồ sộ nhưng rất cân đối của Thái Úy đã bay lên mình ngựa, tư thế uy nghi vững chãi như thạch trụ - trong thoáng giây thảng thốt ấy, quả Thái Úy đã biến thành một con người khác. Cái tuổi 54 của Thái Úy như lùi xa lại nhường bước cho khí lực sung mãn của một chàng trai đang độ tuổi xanh cường tráng. Con ngựa chiến Xích Long của Thái Úy, hí khẽ một tiếng vui mừng, cuộn hai chân trước lên rồi nhẹ nhàng sải vó. Cây cỏ nhà cửa hai bên đường vật vờ chạy ngược lại phía sau. Thỉnh thoảng một ngôi quán ven đường khẽ khàng nâng tấm liếp nhìn với theo đoàn người ngựa rồi lặng lẽ buông xuống như mi mắt còn ngái ngủ. Riêng ngôi quán ở đầu ngã ba Cội là có vẻ náo động khác thường. Ba gã lực lưỡng ăn mặc theo lối khách thương từ trong quán đổ xô ra, cặp mắt láo liếng của chúng không nhìn vào người cưỡi mà dán chặt vào những thân ngựa bóng nhẫy. Có tên nhanh chân chạy vượt theo vài bước để kịp nhìn thấy màu lông tía mật của con Xích Long lấp lóa trong nắng sớm.
    Mải theo dõi từng cử động nhỏ của Thái Úy, viên tì tướng cận vệ không để ý đến những sự việc vụn vặt xảy ra ở hai bên đường.
    Lúc này Thái Úy đang buông lỏng dây cương, chốc chốc lại ngoảnh đầu nhìn về phía mặt trời lên, ngựa lơi nước Kiệu. Nhìn theo luồng mắt của Thái Úy, viên tì tướng bỗng chợt hiểu ra.
    Đấy là miếng đất Tiên Du, nơi an nghỉ hài cốt của các vị tiên đế dòng vua Lý. Cách đây không lâu, di thể của vua Thánh Tông cũng được đưa vào đấy. Hình như Thái Úy đang cố nén một tiếng thở dài.
    Trong ngôi điện chứa kỷ niệm riêng tư đáng ghi nhớ của Thái Úy, hình bóng vua Thánh Tông quả đã chiếm một chỗ trang trọng, thiêng liêng nhất. Chẳng phải vì vị minh quân này đã không ngừng ban cho ông những phẩm vật triều đình cao nhất và đặt ông vào hàng vương gia với tước Thiên tử Nghĩa nam. Cũng không hẳn vì tấm lòng nhân của vua Thánh Tông tỏa ra bốn cõi, một lòng nhân chân chất, không khoác áo màu tự nhiên như lòng mẹ thương con, như hạnh sen nằm giữa đài sen. Lúc vua Thánh Tông lên ngôi là lúc hoài bão kiến công lập nghiệp ấp ủ trong buổi thiếu thời của công đã chín lại trên một mục tiêu chính xác và cao cả. Ý thức giúp vua xây dựng một quốc gia tự chủ có cương giới phân minh gặp được đầu óc tự cường mạnh mẽ của ông vua mới như hạt giống tốt gặp miếng đất phì nhiêu. Hai người như hai mũi tên cùng được đặt trên một dây cung, cùng bay đến một đích. Hai gương mặt lịch sử ấy soi bóng vào nhau và cùng thấy cháy lên một chí hướng chung. Cuộc hạnh ngộ này quả là một điều may mắn cho cuộc đời ông cũng như cho vận mệnh đất nước. Giữa hai người dần dần nảy sinh mối thân tình ruột thịt thường có được do gắn bó với nhau qua nước mắt mồ hôi, qua bụi đường chinh chiến.
    Đối với ông, đức Thánh Tông không chỉ là vị quân vương tôn kính của mình mà còn là một người bạn đường tri kỷ. Viên tì tướng lặng lẽ nhìn Thái Úy. Tuy hạt sương sớm ngoài trời vừa tan biến từ bao giờ, anh vẫn cảm thấy trên khuôn mặt tuyệt đẹp của Thái Úy, đang phảng phất chưa tan làn sương mù của ký ức.
    Lúc này Thái Úy đang hồi tưởng đến nỗi đau phũ phàng, bất ngờ ập đến trong đời ông. Vua Thánh Tông bỗng dưng băng hà đột ngột không kịp di mệnh. Nhưng bằng vào những ngõ ngách sâu thẳm trong tâm tư, ông đã hiểu được ý nguyện thầm kín của tiên quân.
    Trước hơn ai hết trong đám quần thần, ông cảm thấy sâu sắc lời di mệnh không thành tiếng ấy đang đè nặng xuống vai ông và giờ đây một mình ông phải cáng đáng.
    Suốt đêm hôm ấy và qua ngày hôm sau, vua Thánh Tông vẫn cùng đi với ông trong cuộc hành trình… Hồi ức trỗi lên thành âm thanh du dương của một điệu nhạc triền miên có thêm tiếng vó ngựa lộp cộp đều đặn đệm tiết tấu. Điệu nhạc này cứ đeo đẳng theo ông mãi cho đến lúc vóc dáng cao lớn dềnh dàng của phò mã Thân Cảnh Phúc cùng thuộc hạ hiện lên bên kia bờ sông Nam Bình…

    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:28 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 2


    Thái Úy vui vẻ đặt chân lên bậc thang gác, quay đầu nhìn lại. Từ đôi mắt xếch đen nháy đến thân hình hộ pháp của phò mã toát lên một niềm hân hoan hồn nhiên gần như của trẻ thơ. Tấm thịnh tình chân thực và chất phác ấy làm Thái Úy thấy ấm lòng. Vừa lên khỏi cầu thang, phò mã đưa bàn tay to bè, vụng về nắm lấy tay Thái Úy dắt vào gian giữa. Phò mã trân trọng tự tay rót nước mời khách rồi hối hả lui vào nhà trong.
    Thân Cảnh Phúc là đời phò mã thứ ba của triều Lý. Họ Thân trước kia nguyên họ Giáp là một cự tộc có thanh thế lớn nhất ở Châu Lạng, chiếm giữ vùng đất cực kỳ quan yếu nối liền phía Bắc với kinh thành Thăng Long. Con đường thông lộ duy nhất từ đất Tống sang kinh đô Đại Việt, bị chặn đứng ngay ở địa cầu châu này với hai đèo ải hiểm ác: ải Quyết Lý và ải Giáp Khâu tức ải Chi Lăng.
    Con mắt định quốc sắc bén của vị vua đầu sáng lập nên triều Lý đã sớm nhận thấy chốn này là địa thế yết hầu của tổ quốc. Lý Thái Tổ đã đem con gái mình gả cho động chủ Giáp Thừa Quí. Chữ Giáp và chữ Thân viết gần giống nhau. Ngọn bút của Lý Thái Tổ chỉ cần nhích khẽ một nét sổ lên phía trên là lập tức họ Giáp đã đổi thành họ Thân, xóa nốt vết tích man động cho phò mã.
    Cuộc kết thân có tính chất chiến lược này được hai họ giữ gìn vun đắp từ đời này sang đời nọ. Con Thân Thừa Quí là Thân Thiệu Thái nối cha làm châu mục. Năm Kỷ Tỵ, vua Lý Thánh Tông lại gả công chúa Bình Dương cho Thân Thiệu Thái. Đến lượt con trai của Thiệu Thái và Công chúa Bình Dương là Thân Cảnh Phúc lại được vua Lý Thánh Tông kén làm phò mã. Năm Bính Ngọ, Cảnh Phúc lấy công chúa Thiên Thành.
    Riêng trong cuộc hôn nhân thứ ba này, hình như có chút gì vướng mắc không được song suốt như hai lần trước. Nghe đâu con trai lớn của quan Thái Bảo Nguyễn Châu phải lòng công chúa. Không ai biết công chúa Thiên Thành có đáp lại mối tình này ở trong gang tấc nào. Và cũng trong chừng mực nào, Thái Úy Lý Thường Kiệt có đưa bàn tay mình ra tháo gỡ sợi chỉ hồng ấy? Người ta chỉ thấy Thái Úy đích thân đưa tiễn kiệu hoa công chúa về làm dâu nhà họ Thân trước cặp mắt liếc xéo đến khó chịu của quan đại thần Nguyễn Châu. Còn phò mã Thân Cảnh Phúc thì vẫn mang bên lòng cái ân lớn của Thái Úy, người đã có công tạo dựng nên chuyện lứa đôi cho mình…
    Thái Úy nhấp từng ngụm nước lão mai ngát mùi hương mộc. Qua làn khói mờ bốc lên từ trong chiếc chén men nâu, Thái Úy ngắm năm gian nhà rộng, sàn lót ván chò bào nhẵn, nước gỗ đã sẫm màu. Ông chợt mỉm cười vì một ý nghĩ ngộ nghĩnh không đâu bỗng len qua đầu óc. Ừ nhỉ! Chắc hẳn trong đời làm dâu của mình, ba nàng Công chúa họ Lý thuộc ba thế hệ kế tiếp nhau chở về đây cái phong thái thanh lịch của nếp sống kinh thành.
    Rặng đào xanh mởn với những lối đi mát rượi trong vườn cây trĩu quả kia chắc có sự nhìn đến của cả ba nàng. Còn cái khay trắc nạm vân xà cừ đựng trong lễ cưới công chúa Thiên Thành thì khỏi phải đoán. Nhưng còn những chậu hoa hồng quế đặt ngoài hiên và cả cái ô cửa tròn chạy triện phủ sa ở gian mé tả… Tiếng sột soạt của loại vải thô còn mới, cắt đứt dòng suy nghĩ miên man của Thái Úy. Công chúa Thiên Thành trong bộ áo gai đại tang đã bước ra theo sau là phò mã.
    Vừa gặp Thái Úy, những giọt nước mắt tích tụ từ bao giờ bỗng nhiên trào ra, lăn qua đôi gò má đầy đặn của công chúa rồi lã chã rơi xuống sàn gỗ. Thái Úy bối rối cố đoán trong giọt nước mắt khóc thương phụ hoàng ấy có phần nào hờn duyên chăng. Còn phò mã vội vã đưa tay – đôi bàn tay thô kệch rõ ràng chỉ để cầm côn kiếm hơn là quen vuốt nếp áo vợ - vụng về đỡ lấy lưng công chúa.
    Nhưng cơn xúc động nào mãnh liệt đến đâu cũng phải qua nhanh. Đối với công chúa Thiên Thành, phút giây này càng qua nhanh không phải vì những lời an ủi thường tình của Thái Úy mà chính vì bản tính ít đa cảm của nàng.
    Không để cho phò mã kịp chen vào được một lời, công chúa bắt đầu liến thoắng hỏi thăm Thái Úy về sức khỏe của những người thân quen rồi dần dà hỏi đến cách ăn mặc của các vị phu nhân trẻ tuổi ở kinh thành.
    Nhìn vào khuôn mặt bầu bĩnh tươi tắn mỗi lúc mỗi hồng mởn lên của người thiếu phụ, Thái Úy bỗng thấy trong người nhẹ nhõm – “Thì ra mình cũng mát tay đấy chứ” - Thái Úy vừa nghĩ thầm vừa trả lời những câu hỏi tíu tít như tiếng chim đang hót quanh nhà…
    Đột nhiên công chúa vỗ tay reo lên: “-Hay quá! Thái Úy lên đây vừa dịp ngày “Hội Tre Nước”. Cứ ba năm mới hội một lần. Vui đáo để”. Rồi nàng quay lại phía chồng, nheo mắt nhoẻn nụ cười ranh mãnh:
    - “Phò mã phải mời cho được Thái Úy đi xem hội đấy!”.
    Cuộc vấn an công chúa kết thúc sau khi Thái Úy hứa nhận lời mời sẽ cùng công chúa đi dự hội.
    Nếu ai đó tò mò theo dõi Thái Úy từ lúc rời khỏi kinh thành thì đến đây đã có thể nghĩ rằng chuyến đi thăm viếng này của Thái Úy quả là một cuộc nhàn du. Nhưng chỉ cần người ấy nghiêng tai nghe lén được vài câu giữa Thái Úy và Thân phò mã thì họ sẽ nghĩ khác ngay.
    Trong căn mật thất im ắng, Thái Úy chú tâm vào câu chuyện. Rõ ràng phò mã đã cố gắng hạ thấp giọng, nhưng tiếng nói của viên hổ tướng vẫn rền vang khắp gian phòng. Khi phò mã dứt lời, Thái Úy vẫn trầm lặng như đang lắng nghe tiếng con ong mật vo ve đập cánh vào tấm màn sa treo trước mặt. Dường như để Thái Úy thật yên lòng, phò mã nói thêm:
    - “Gã là cháu ruột một viên tướng rất tin cẩn của tiên phụ xưa”.
    Một thoáng hài lòng làm dịu gương mặt thường ngày vốn trang nghiêm của Thái Úy.
    - Tráng sĩ ấy tên gì?
    - Tên là Thiết Nỗ ạ!
    “Thiết Nỗ!” Thái Úy lặp đi lặp lại như cố gõ vào ký ức xem đã từng nghe vang lên tên tuổi này chưa. Phò mã lo lắng hỏi:
    - Thái Úy thấy thế nào ạ?
    - Khá đấy phò mã ạ! Đúng là phò mã đã tìm ra được một nhân tài.
    Niềm hoan hỉ rạng dần kéo giãn những vết nhăn trên vầng trán rộng và làm giọng Thái Úy thêm phần xởi lởi:
    - “Phò mã đã cất được cho lão phu một mối lo vì lâu nay thiếu người đảm nhiệm, Phò mã ạ! Nước ta nhỏ nhưng voi ta to. Biết dùng thì nó rất có lợi cả thế thủ lẫn thế công trong chốn trận mạc. Ta đã có bộ binh, thủy binh, kỵ binh. Bây giờ chưa có đội tượng binh mạnh trấn giữ ở hai cửa ải Quyết Lý, Chi Lăng, lão phu vẫn chưa thật yên lòng”.
    - “Nhưng thưa Thái Úy, lâu nay biên cương vẫn chưa có gì động tĩnh…” Phò mã bỏ lửng câu nói, đôi mắt xếch ngước nhìn Thái Úy, phân vân chờ đợi. Thái Úy thong thả đứng lên:
    - Phò mã còn nhớ Tiêu Chú không?
    Câu hỏi bất ngờ làm phò mã sửng sốt đứng bật dậy. Làm sao phò mã có thể quên được Tiêu Chú, một viên biên quan khét tiếng lợi hại của nhà Tống, trước đây đã từng gây ra bao sóng gió ở chốn biên thùy. Phò mã thảng thốt đáp:
    - Dạ, có nhớ!
    - Nhưng điều cần nhớ nhất là hắn am hiểu đất nước ta như lòng bàn tay của hắn.
    Hai tiếng bàn tay bỗng làm vang lên trong hồi ức những lời của thân phụ xưa… Năm Quí Tị, khi Nùng Trí Cao bị đội quân kị của tướng Địch Thanh đánh bại phải rút tàn quân chạy về đạo Đặc Ma, chính tên Tiêu Chú đã đích thân đưa quân theo vào tận sào huyệt, bắt cho được mẹ và con của Trí Cao mang về. Và từ đấy, theo như lối nói thân phụ phò mã, hắn ung dung ngồi tại Ung Châu, ngang nhiên thò bàn tay móng dài và nhọn như móng ó qua vùng biên giới, cào khoắng từ châu Quảng Nguyên đến châu Lạng Giang, với dã tâm gieo rắc bất hòa giữa hai nước. Hắn đã làm cho vua Thánh Tông nhiều phen nổi trận lôi đình, phải đem quân dàn thành hai tay thước, gõ vào trại Cổ Vạn và động Tứ Lẫm, bắt hắn phải rụt tay lại. Nhưng cái gõ đau nhất đối với Tiêu Chú là của tướng Thân Thiệu Thái, bố của phò mã. Thiệu Thái đã kéo quân tiến một mạch qua châu Tây Bình thẳng đến trại Vĩnh Bình, chém đầu viên đô giám Tống Sĩ Nghiêu bắt sống chỉ huy sứ Dương Bảo Tài làm chấn động cả một vùng Ung Châu. Trong gia phả của dòng họ Thân, đây là trang oanh liệt nhất. Chính vì việc ấy mà Tiêu Chú bị bãi chức.
    Nhưng việc cũ đã xảy ra cách đây non một giáp rồi. Vì vậy phò mã bỡ ngỡ hỏi: -“Thưa Thái Úy, Tiêu Chú đã bị đình thần nhà Tống cách chức từ lâu rồi kia mà!
    - “Hắn đã được ông vua mới vừa phục chức cho hắn.
    Phò mã suýt bật lên một tiếng kêu kinh ngạc:
    - “Hắn đã trở về ngồi ở Ung Châu rồi ư?
    - “Không, hắn ngồi cao hơn. Hiện hắn ở Quế Châu kiêm chức Kinh lược sứ Quảng Tây”.
    Phò mã lặng đi giây lâu không nói. Tên tuổi Tiêu Chú như một bóng ma bỗng dưng từ đâu hiện về làm quấy đảo đầu óc của phò mã. Việc dùng lại Tiêu Chú đã làm lộ rõ tâm địa của vua Tống. Nhưng câu hỏi cũ vẫn lay hoay ở trong đầu phò mã. Làm sao lâu nay biên cương vẫn chưa hề động tĩnh… Như thầm đoán được ý nghĩ của phò mã, Thái Úy nhẹ nhàng nói tiếp:
    - “Nên nhớ Tiêu Chú là một viên trí tướng rất thức thời. Hắn còn đang rình rập đợi vận hội may mắn hơn lần trước”. Hai người cùng nhìn sâu vào mắt nhau, giọng Thái Úy trầm xuống khẩn thiết:
    - “Phò mã biết đấy. Tiên hoàng sớm qua đời. Tự quân còn thơ bé. Lòng đình thần chưa yên. Mà Hoàng Thái hậu Thượng Dương nắm quyền nhiếp chính lại chỉ thấy cái chóp vương miện trên đầu mình chứ không nhìn rộng ra non sông đất nước. Phò mã ơi! Gánh nặng này biết sở cậy vào ai? Không hiểu xúc động vì nặng tâm tình trong lời nói của Thái Úy hay vì linh cảm được những việc trọng đại sắp xảy ra, phò mã bất giác phục xuống nắm tay Thái Úy, ngẩng mặt lên khảng khái:
    - “Trọng phụ ơi! Nếu có việc gì trọng phụ cần đến thì Cảnh Phúc này không dám tiếc mạng sống để đền đáp tấm lòng tiên vương và không hổ thẹn với vong linh của tiên phụ”. Thái Úy vội khom mình nâng phò mã dậy và như vừa cất được gánh nặng trên lưng, Thái Úy trút ra một hơi thở dài nhẹ nhõm.
    Đúng lúc ấy, từ bên ngoài, ba tiếng khánh vọng vào lảnh lót. Không đợi Thái Úy phải hỏi, phò mã kéo tay Thái Úy nói khẽ:
    - “Thiết Nỗ đã đến xin ra mắt trọng phụ đấy”.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:32 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 3


    Người môn khách chuyên dạy voi mà Thân phò mã gọi là Thiết Nỗ, đang đứng dưới thềm cung tay làm lễ tham kiến.
    Trái với dự đoán của Thái Úy, vóc người Thiết Nỗ không cao lớn mà tầm thước, lối ăn mặc xềnh xoàng. Chiếc áo cánh chẽn giấn chàm non hơi bạc màu, gấu áo nằm khuất trong cạp khố bằng vỏ sui, được vận ngược lên rồi bỏ xòa lá tọa ra phía trước. Ngược lại đôi hài sảo đi dưới chân còn mới nguyên, nếp cỏ bện mịn màng chưa bắt bụi. Dường như tất cả sự chú tâm của chàng trai rừng suối này đều dồn vào việc chăm sóc cho làn da, một làn da láng lì bóng nhẫy, có lẽ được xoa nắn hằng ngày, chạm vồng hình những bắp thịt nở nang quá cỡ, cuồn cuộn ánh màu đồng hun.
    Khuôn mặt anh trông đến hiền lành như trẻ thơ, nếu không có bộ râu quai tua tủa đen nhấp nhánh màu kim khí, tưởng chừng như chỉ khẽ động ngón tay vào là nó rung lên bần bật phát thành âm thanh.
    Với cặp mắt sắc sảo quen xét đoán người, Thái Úy Lý Thường Kiệt đã thấy ngay ở chàng trai trẻ sức mạnh bộc trực của một bản chất lượng nghị bẩm sinh. Thái Úy vui vẻ xua tay:
    “- Giữa chúng ta, tráng sĩ chẳng phải quá giữ lễ”.
    Thiết Nỗ vẫn cung kính đáp:
    “Thưa Thái Úy, Nỗ tôi ở chốn đồng rừng có chút nghề mọn không ngờ được Thái Úy và động chúa để mắt tới, Nỗ tôi cảm khích vô cùng”.
    Thái Úy chậm rãi nói:
    - Lâu nay lão phu nghe phò mã ca ngợi tài lạ của tráng sĩ, đến hôm nay mới được gặp mặt, như vậy cũng đủ thỏa lòng khao khát bấy lâu.
    - “Thưa Thái Úy, nghe bằng tai không bằng thấy bằng mắt. Biết đâu động chúa vì quá yêu mà vội khen chăng?”
    Nãy đến giờ phò mã vẫn đứng im, ngón tay lơ đãng gõ vào đầu cột trụ lan can chạm hình hoa dẻ thô sơ, tâm ý để hết vào ánh mắt đầy thiện cảm pha lẫn niềm tin cậy của Thái Úy đối với người môn khách của mình, nét mặt mỗi lúc mỗi hân hoan rạng rỡ. Đến lúc này, phò mã mới cất lời:
    -Thiết tướng quân nói đúng quá. Nhưng tướng quân đã có gì để Thái Úy xem bằng mắt chưa?
    - Dạ thưa động chúa, xong cả rồi ạ.
    Phò mã hớn hở nhìn Thái Úy:
    - Vậy xin mời Thái Úy…
    Thái Úy giơ tay ngăn lại:
    - Xin phò mã hãy thư thư để lão phu chuyện trò với tráng sĩ đây dăm ba câu. Vậy tráng sĩ theo thuật này đã được bao lâu rồi?
    Thấy Thiết Nỗ ấp úng, phò mã đỡ lời.
    - Thiết tướng quân đã nô giỡn với bầy voi con bên sàn nhà từ lúc tuổi lên mười.
    Thái Úy vẫn hướng vào người nghệ nhân dạy voi trẻ tuổi nói:
    - Xin tráng sĩ thứ cho cái tật tò mò, đường đột của lão phu. Tráng sĩ có thể cho lão phu hay một vài thuật nhỏ trong phép dạy voi của tráng sĩ, nếu tráng sĩ thấy không phạm vào điều bí truyền của tổ phụ.
    - “Chẳng có gì bí truyền cả Thái Úy ạ, vãn điệt dạy voi chỉ bằng cái này thôi”. Vừa nói Thiết Nỗ vừa đập đập vào cái búa đồng nhọn đầu và chiếc thiết lĩnh đen trũi đeo ở bên mình.
    - Chỉ có búa đồng và thiết lĩnh thôi ư?
    - Dạ, còn phải có những khẩu mía lùi nữa ạ!
    - Thế ra tráng sĩ dạy voi cũng cần phải có cả ân lẫn uy nữa! Hà! Hà!
    Thích chí vì câu nói đầy ý tứ, Thái Úy cười sảng khoái rồi khoác tay hai người tiến về phía hội sảnh. Ở đó tất cả mọi việc theo lệnh trên đã được xếp đặt sẵn sàng từ trước. Cả hai đoàn tùy tùng của Thái Úy và phò mã cùng lên yên.
    Nơi dạy voi của Thiết Nỗ ở về phía tây cách Động Giáp non mươi tầm tên bắn. Trước khi vào thung lũng đoàn người phải giong cương rẽ đám cỏ ống rậm rạp cao gần bụng ngựa, lội qua một con suối nhỏ, men theo một trái đồi lốm đốm trắng những tàn hoa mỡ nở xòe năm cánh.
    Mười hai gian lều cỏ bỗng dựng áp lưng vào chân đồi, dưới bóng những gốc trám sum suê đang mùa ra hoa. Ngồi trên bục cao ở giữa, đoàn người có thể phóng tầm mắt nhìn vào khoảng đất rộng bằng phẳng trải ra dưới chân mình. Một bức rèm lá cây lòa xòa treo vào chiếc đòn dài thượt, đặt trên hai trụ gỗ lim, chia đôi sân bãi. Phía bên này sân lô nhô những hình nhân cưỡi ngựa, sắc phục theo lối quân Tống, màu đen giữa cặp nẹp đỏ.
    Mới nửa buổi mà nắng vào hạ đã xối xả đổ xuống.
    Trong bụi nắng tỏa mờ mờ, những người nộm như muốn nhảy chồm lên phóng nước đại.
    Một hồi tù và vang dậy âm u tiếp theo ba tiếng trống khẩu giòn giã. Từ phía sau đồi, một đoàn voi rầm rập nối đuôi nhau lặng lẽ tiến vào giữa khoảng trống, giẫm nát những bụi cỏ xước lá dài lả lướt họa hoằn còn sót lại. Đi đến giữa sân, đàn voi quay đầu về phía khách quị hai chân trước xuống. Từ trên mình con voi đầu đàn, Thiết Nỗ nhẹ nhàng nhảy xuống cùng bọn quản tượng bái vọng về phía Thái Úy, làm lễ ra mắt. Rồi dồn dập tiếng trống trận đổ liên hồi. Đàn voi quay mình nối thành một mũi nhọn chọc thẳng về phía trước, xung tả đột hữu, vươn những chiếc vòi dài loang loáng ra hai bên. Đột nhiên đoàn voi rẽ ra thành từng khối dày đặc tạt ngang tạt dọc, chia cắt đạo quân thù tưởng tượng bằng vô số những đường chữ chi đan chéo.
    Tiếng tán thưởng của đám tùy tùng lào xào nổi lên phía sau lưng Thái Úy, lẫn trong tiếng ong về hút mật trên những chùm hoa trám li ti tựa tiếng dào của nồi nước đang sôi.
    Một dàn trống đồng không hiểu đặt ở đâu bỗng rung lên âm vàng rền một góc núi. Chiếc đèn dài thượt từ từ được nhấc bổng lên cao kéo theo tấm rèm lá cây. Tiếng trống đồng như một hiệu lệnh quen thuộc, chỉ dẫn cho những thớt voi lúc này đã dàn hàng ngang, đột nhiên trông thấy kẻ thù.
    Đàn voi hung hãn lắc đầu, tung vòi ré lên, khí thế xung sát bừng bừng trong nắng lóa. Những khối thịt phục phịch nặng nề ấy di động nhanh nhẹn dị thường, xông xáo giữa đám người nộm, quăng vòi cuộn địch thủ quật xuống đất rồi lấy chân di nát cả thân hình.
    Thái Úy nhỏm người nheo mắt nhìn cho rõ hơn. Trong thoáng giây, khoảng đất sa trường biến thành trống trơn, lơ thơ sót lại dăm chục cột tre, la liệt xác người nộm ngổn ngang bẹp gí. Bóng nắng đứng ngọ gay gắt dội thẳng xuống các búi cỏ nâu khô lòi thòi hai bên sườn xác nộm, làm sáng rực đường nẹp vải đỏ còn dính chặt giữa bụng hình nhân trông như từ ngực đang thực sự chảy ra những dòng máu tươi lênh láng…
    Trên đường về, bóng người ngựa ngã dài làm thẫm lại trong khoảnh khắc màu trắng lóa của cánh hoa mỡ rừng rụng lác đác trên triền đồi. Thái Úy cho ngựa đi gióng một, đợi Thiết Nỗ lại gần, quay sang hỏi:
    - Theo ý tráng sĩ, voi trận thiện dụng trong thế chủ hay thế công?
    - Dạ, thế công là tốt nhất! Thiết Nỗ đáp không một chút do dự.
    -Thế giả dụ gặp trường hợp giặc dùng một đoàn quân kị thiện chiến, tiến như gió cuốn nước tràn?
    - Ta có thể dùng voi chặn đứng lại – Thiết Nỗ dè dặt tiếp – Nhưng… cũng tùy địa thế chiến trường rộng hẹp…
    Đến dưới gốc một cây bồ đề, Thái Úy dừng cương lại, nói trong một hơi thở:
    - Tướng quân ạ! Ta đã báo cho phò mã biết rồi. Chậm nhất trong tuần trăng sau là đoàn voi mới ở Đà Bắc, Phong Châu sẽ được đưa tới đây. Nếu vì việc quân cấp bách, tướng quân xem có thể rút ngắn được thời hạn luyện voi chăng?
    Một con bướm sặc sỡ từ đâu bay vụt đến, cứ chớp cánh tíu tít quanh chòm râu quai của Thiết Nỗ, tựa như có một cánh hoa bồ đề theo gió giạt vương vào đấy. Thiết Nỗ đưa tay gạt con bướm nghịch ngợm rồi thận trọng đáp:
    -Thưa Thái Úy, từ lúc voi rừng mang về luyện thành voi chiến, Nỗ tôi đã tính kỹ thời gian. Cho dù có nhanh lắm cũng chỉ sớm hơn thời hạn được dăm bữa nửa tháng là cùng. Thái Úy lại khẽ gia roi, đôi mắt trầm tư chăm chú nhìn xuống đất như đang đếm những chấm hoa bồ đề hằng hà sa số cuống quít rắc trắng trên đường ngựa đi…
    Sớm tinh mơ Thái Úy đã vào tàu ngựa thăm con Xích Long. Đó là thói quen của người võ tướng này vốn xem chiến mã như người bạn đường thân thiết mà cả cuộc đời mình gối chặt trên yên. Thấy bóng chủ, con ngựa chiến giẫm vó hí lên một tiếng đón mừng. Thái Úy vỗ nhẹ lưng ngựa vuốt qua bờm rồi quay lại lão giám mã dặn dò đôi câu. Viên giám mã lĩnh ý gật đầu, lí nhí trình chuyện đang tìm mua thóc cẩm cho ngựa ăn. Khi Thái Úy bước ra sân thì làn má ông cũng vừa đón được sự chuyển động đầu tiên của ngọn gió nam và theo hơi gió, tai ông nghe vọng về tiếng chiêng trống khua rộn rã. Đến bây giờ Thái Úy mới sực nhớ tới lời hứa đi dự hội với công chúa Thiên Thành.
    Hội tre nước năm nay linh đình hơn lần trước bởi lẽ mục đích không chỉ nhằm cầu trời mưa thuận gió hòa mà còn cầu phúc cho vua Càn Đức mới lên ngôi, cho nước Đại Việt thái hòa thịnh vượng. Vì vậy công chúa Thiên Thành tạm trút bộ áo đại tang, vận bộ y phục trang nhã của người thiếu phụ Động Giáp cùng đi dự lễ với phò mã và Thái Úy.
    Những ngày hội nô nức tưng bừng qua nhanh trong đầu Thái Úy như một giấc mơ ngắn. Trong trí nhớ chập chờn của Thái Úy chỉ còn đọng lại những hình ảnh hỗn độn mơ hồ, đứt nối. Dòng sông đình đám trôi thật chậm… thật chậm… Đám rước vòng vèo vô tận, hàng cờ xí giăng giăng, mái lá đùng đình rung tít theo nhịp bước chân, những cánh phượng vây rồng, những đuôi kỳ lân xoắn tít tết bằng trăm thứ lá không tên và vô số những hình thù quái dị do sự cấu thành ngẫu hứng của thiên nhiên để lại trên các loại rễ cây khô, lủng lẳng đong đưa quanh kiệu thờ. Tất cả đều chuyển đông, rập rình, quay cuồng, đảo lộn trong nắng tỏa rân rân, một thứ nắng trắng vãi bụi lòa vào mắt, có lúc lại vàng óng như nắng tháng thu.
    Dòng sông đình đám cuối cùng đổ vào một thung lũng ở phía nam Động Giáp và kết thúc tại đấy. Nghi lễ cuối cùng và cũng là chủ chốt của ngày hội diễn ra trên một cái hồ con nằm giữa thung lũng, cây rừng vây quanh. Nước hồ trong vắt, mặt hồ im ả tròn như mặt trăng đầy. Quanh bờ hồ, cỏ xanh mườn mượt.
    Trên dải đất ven hồ mọi khi hoang vắng, mùi vị đình đám dậy lên cùng nhịp chân người rậm rịch chiêng trống khua vang, sắc cờ phấp phới. Phò mã Thân Cảnh Phúc đang cùng các vị trưởng lão trò chuyện bên hàng đình liệu. Mọi con mắt của người dân động cùng đổ dồn về phía động chúa với cái nhìn sùng kính tin yêu của người con đối với người cha lớn trong gia đình. Ánh chiều tà vàng ửng rời chùm lá ủ dột trên cây ngái rừng cụp ngọn nhích dần lên đốt cháy chóp ngọn thông cao.
    Tiếng pháo bỗng nổ vang. Mọi người nghếch cổ. Phò mã cung các vị trưởng lão vội vã chạy ra đón đoàn quí khách. Công chúa Thiên Thành dắt Thái Úy vào ngồi trước một cái bàn đá lớn. Một vị trưởng lão bưng đến để trước mặt Thái Úy một chậu sành đựng nước hồ sóng sánh. Theo cổ tục, trước khi dự lễ, mọi người phải dùng nước hồ rửa mặt, ý chừng để mắt sáng tai thông, dễ dàng giao cảm với từng hơi gió u hiển của đấng thần linh giáng hạ.
    - Thái Úy có thấy nước hồ thoảng vị hương sen không? Vừa nói công chúa Thiên Thành vừa đưa ngón tay trỏ đúng vào trong chậu nước.
    Thái Úy cũng cảm thấy một mùi hương ngan ngát dân lên từ vốc nước trong tay.
    - Tại sao, Thái Úy có biết không? – Công chúa đưa ngón tay trỏ còn ướt đẫm nước hồ lên không, mắt cười tinh nghịch – Tại gió đấy! Rồi công chúa giảng giải: “-Bẩm Thái Úy, theo lời truyền của dân động, hàng năm vào mùa hạ, vợ chồng công chúa Tiên Dong cưỡi ngọn gió lành bay qua các đầm sen ở bên kia đồi rồi dừng lại trên hồ này để nàng chải tóc soi gương. Chả là mặt hồ phẳng lì trong suốt như gương ấy thôi. Ngọn gió xoáy quanh mang hương sen phả vào mặt hồ, vì vậy nước hồ lúc nào cũng quyện mùi hương sen”.
    Thái Úy gật gù ngẫm nghĩ về câu chuyện huyền sử vừa đưa mắt tò mò nhìn vô số ống tre trúc đủ loại đặt ngay ngắn trên những chiếc mễ dài thườn thượt, chân mễ bằng gộc tre uốn khum. Các đoạn tre trúc này đều một chiều dài như nhau, nhưng cùng được sắp xếp theo từng loại, và từng cỡ to lớn khác nhau. Có loại thạch trúc màu ngà, loại tử trúc màu đen, những loại tre lồ ô gác bếp lâu ngày đã lên nước sẫm bóng màu cánh gián. Tất cả các ống đều có khoét nhiều lỗ tròn ở trên đầu, xa trông như những ống sáo khổng lồ.
    Khi bóng hoàng hôn từ đám mây tối sẫm sà xuống vét nốt những ánh hồi quang mong manh còn sót lại thì hàng đình liệu quanh hồ bỗng phừng phực bật hồng. Vệt khói xám từ lò trầm bốc thẳng lên rồi cuộn tỏa trên mặt bàn hương án. Một đoàn người dân động sắp hàng một tiến ra. Họ chia nhau theo lứa tuổi chọn những ống sáo khổng lồ ấy. Người già chọn cỡ lớn, trung niên chọn cỡ vừa lứa tuổi hoàng nam chọn cỡ bé hơn. Mỗi người cầm một ống trúc lặng lẽ chia nhau đến ngồi xếp bằng quanh bờ hồ mặt hướng vào làn nước ánh lửa hồng đình liệu, ống trúc dựng ngược lên trời chờ đợi. Cả tế trường im phăng phắc như đang lắng chờ một điều gì huyền diệu. Gió sợ sệt thổi khẽ bên rìa cây ven rừng. Nghe rõ tiếng thở hồi hộp của người dự lễ. Trong cái im ắng thiêng liêng ấy, phò mã Thân Cảnh Phúc kính cẩn nâng ché rượu ở trên bàn hương án, bước lại phía hồ, rồi nghiêng tay dốc thẳng miệng ché xuống nước. Tiếng rượu từ ché rót xuống mặt hồ làm cho cái im ắng càng đầy ra và trầm lặng hơn. Khi tiếng giọt rượu cuối cùng vừa dứt, như có một hiệu lệnh nào từ trên cao ban xuống, các ống tre trên tay bô lão vụt đồng một loạt đập xuống mặt hồ và nhịp nhàng hàng loạt tre khúc khác lần lượt vỗ theo.
    Những gióng tre đầu tiên đột nhiên cất tiếng hát trên mặt nước và có vô số những gióng trúc đồng thanh nối giọng. Bập bình… bập bình… âm thanh lan vòng chạy quanh mặt hồ, rập ràng nảy sinh cung bậc từ trầm đến bổng, xuống thấp lên cao rồi trở thành thánh thót.
    Bập bình… bập bình… mặt nước hồ tròn trặn phẳng lì bỗng rung lên như mặt trống, âm thanh gợn sóng dội đi xa. Và vòng cây rừng vây quanh khép kín dang tay đón lấy, đưa dòng nhạc tre nước bốc lên không trung, âm vang đến tận vòm trời cao nơi các vị thần linh đang ngao du trên những làn mây mỏng bềnh bồng.
    Ngay từ đầu, dòng nhạc tre nước đã cuốn hút tâm hồn Thái Úy vào tiếng hát sơ khai của một quá khứ rất xa xôi nhưng rất gần gũi… Dường như trong nắng trưa nồng có con chim nào mắt say lừ đừ đang nâng cần cổ trút ra một tràng tiếng hót trong như tiếng nước thoát ra từ cổ một chiếc bình ngọc. Những giọt âm thanh ấy rơi tõm xuống lòng giếng sâu nơi ấy có tiếng gàu múc va nhau và tiếng nước rơi tung tóe âm vang trong lòng đất. Bỗng chốc tất cả âm thanh đều vụt bay lên như những cánh chim hóa thành tiếng ầm ì trên một vòm trời nặng mây. Liền đó những giọt nước đầu tiên to như hạt ngô rơi xuống gõ trên mái cọ. Rồi ồ ạt những dòng thác trắng sủi sục đổ từ tầng cao và tiếng đất khô vặn mình ừng ực uống dòng nước đục ngọt lừ… Ánh trăng lại sáng hiền lành, gió chạy trong tre trúc, mây bay xào xạc trên tầng không, sóng vỗ ì ọp vào mạn bờ. Đâu đây có tiếng hoa sen mở cánh trong đầm và tiếng nước đồng ỏn ẻn cười trăng…
    Uy lực của dòng nhạc bắt tất cả mọi vật chung quanh hòa tan trong khúc tụng ca ấy, cả hàng đình liệu đang lặng lẽ nhả khói, cả con người Thái Úy cho đến giọt máu cuối cùng. Trong tâm hồn Thái Úy, vọng về tinh thần sảng khoái của quê hương, khí phách của dân tộc, một dân tộc mấp mé cái tuổi thành niên đang lần tay mở trang sách ước… Ôi! Đại Việt! Đại Việt thân yêu! Ta là giọt nước trong cái quần thể sông hồ của người. Phải chăng ta đang nghe tiếng bước chân người hăm hở, mang theo sức sống uyển chuyển của những giọt nước, không ngừng tích tụ sinh sôi, âm thầm dấn bước trong lòng đất âm u để vươn mình lên ánh sáng, lần đường ra khơi…
    Từ mặt hồ, một âm thanh sáng chói xuyên chếch qua vệt khói xám bốc lên từ lò trầm, bắn thẳng vào mắt Thái Úy để lại một cảm giác lạnh buốt tỉnh người. Mãi đến lúc này ông mới biết rằng có một giọt nước mắt trào ra tự bao giờ còn đọng trên mi.
    Qua màng nước mỏng nhập nhòa, Thái Úy trông thấy bừng lên bên cạnh ông, khuôn mặt hơn hớn của công chúa Thiên Thành.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:36 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 4

    Một con ong ngựa to tướng dị thường, khắp mình vằn những khoang vàng đen, bay vòng trên lưng con long câu còn ướt đẫm nước sòng, rồi sà xuống dưới bụng ngựa.
    Người giám mã già mẫn cán vội thụp người xuống, quơ túm lá tràm trên tay xua con ong dữ. Qua khoảng trống từ bụng đến cặp chân trước của con long câu, người giám mã bỗng bắt gặp đôi mắt long lanh ti hí trên khuôn mặt choắt cheo như mặt chuột kẹp, đang trên bờ sông nhìn chõ xuống – “À ra bọn vô lại muốn dòm ngó ngựa quí của ta. Có giỏi cứ mó vào dái ngựa rồi sẽ biết thân”. Vừa lầm bầm, lão vừa nuốt những giọt nước đọng dưới bụng ngựa. Từ trên bờ, một câu nói vọng xuống: “Tội nghiệp cho con ngựa quí thế kia mà phải tắm nước sông”.
    Vẫn không nhìn lên, lão xẵng giọng: “Không tắm nước sông thì tắm nước gì?”
    - “Ngựa này thì phải tắm cho nó nước ngũ vị hương mới xứng” – Tiếng nói theo người xuống bến. Lão giám mã ngẩng đầu lên bỗng đâm ra lúng túng, thái độ nghi ngờ lúc nãy tan dần. Đứng trước mặt lão, không phải là một tên đầu trộm đuôi cướp mà một con người có tư thế đường hoàng, áo quần tề chỉnh nếu không nói là sang trọng.
    - “Thưa tôn ông, thiên hạ thường hay mê gái, còn kẻ quê mùa này lại phải cái tật mê ngựa. Hễ trông thấy ngựa tốt là cặp mắt cứ dính chặt vào không gỡ ra được. Xin tôn ông tha cho tội đường đột vừa rồi”.
    Lão giám mã định dắt ngựa đi nhưng thấy gã mặt chuột có vẻ biết người biết của, ăn nói lại lễ độ nên lão đứng lại. Gia dĩ lão lại có cái tính hễ gặp ai tán dương con Xích Long là lão có thể đứng nghe hàng giờ không biết chán.
    - Nhà bác phải cái tật mê ngựa từ bao giờ thế?
    - Dạ, mẹ cháu đẻ rơi cháu trong tàu ngựa. Nên có khi là cháu mê ngựa từ lúc mới lọt lòng. – Gã đưa tay chỉ vào con ngựa Xích Long miệng điểm một nụ cười trơn tuột:
    - “Chân cao săn bắp, bụng thon mông đầy, lông ngắn mà mượt, đúng là con ngựa nòi này lai giống Đặc Ma. Đã bôn nhanh mà còn dai sức.
    Lão giám mã cười độ lượng:
    - Kể ra nhà bác cũng sành xem ngựa đấy. Nhưng cái quí nhất của con thần mã này nằm ở đâu bác biết không? Ở đây này! Lão trỏ vào hai đốm lông trắng mọc ở cặp vó sau.
    Gã mặt chuột kêu lên một tiếng kinh ngạc:
    - Trời đất ơi! Lại thế nữa! Thời bố cháu còn sống, cháu có nghe bố cháu nói qua một lần. Ai ngờ bây giờ mới được trông thấy. Đúng! Đúng! Toàn thân là một khối lửa đỏ lại thêm hai cụm mây trắng sau chân. Đúng là dòng ngựa Vạn-lí-Vân, vượt núi băng đèo, ngày đi ngàn dặm.
    Thấy lão giám mã khoái chí cười tít mắt, gã lựa lời tiếp:
    - Quí thì quí thật. Nhưng giá ông có biếu không con ngựa này cho cháu, thì cháu cũng lạy cả tơi lẫn nón mà xin trả lại thôi”.
    Lão giám mã hơi biến sắc. – Thế con ngựa này có tật xấu gì mà nhà bác nói như vậy?
    - “Dạ cháu đâu có dám nghĩ thế. Tôn ông tính xem, bỏ hẳn cái công chăm sóc hàng ngày ra một bên, cứ nguyên cái khoản chạy thức ăn cho nó cũng đủ sạt nghiệp nhà cháu rồi. Người ta thường nói vật quí là phải trao vào tay người quí. Chứ hạng người như cháu thì quả thực không dám mơ tưởng sờ đến sợi lông chân của nó.
    Lão giám mã gật gù tán đồng câu nói thật lòng mà rất chí lý của gã.
    - Dạ, không dám giấu gì tôn ông, nhà cháu cũng có nuôi một con ngựa còm để đôi lúc nghễu nghện cho vui. Cháu đã tốn vào đấy bao nhiêu công của mà nó vẫn còm nhom như con cò hương.
    - Ấy, cái nghề vỗ ngựa là cứ phải có cỏ sữa non và thóc cẩm.
    - Dạ, tôn ông nói chí phải. Nhưng thóc cẩm ở vùng này hiếm lắm. Không đào đâu ra được một hạt. Cháu cứ phải đón bọn khách buôn qua lại trên sông may ra mới có. Hôm nay cháu ra đây cũng vì việc ấy.
    Nghe đến chuyện thóc cẩm như chạm vào chỗ ngứa, lão giám mã buột mồm nói: - Này nhà bác có tìm được khơ khớ cái món thóc cẩm ấy thì nhượng lại cho lão một ít nhé.
    - Chào, tưởng chuyện gì chứ chuyện vặt ấy, tôn ông chả cần phải nhắc. Giá nhà cháu có sâm, cháu sẵn lòng mang ra cho nó ngoạm vài củ để trông cho sướng mắt”
    Trên mặt gã biểu lộ đầy đủ nhiệt tâm của một con người mê ngựa đến quên cả mọi việc trên đời. Bỗng mắt gã sáng lên, gã trỏ tay ra phía bờ sông: -“Kìa! Có thuyền lên”. Nhìn theo tay gã, lão giám mã trông thấy một con thuyền từ dưới hạ lưu men bờ chèo ngược lên. Gã khúm tay trên miệng, gọi to: “-Có hàng gì không, hở các người anh em?”
    Một cái đầu thò ra ngoài mui thuyền, chiếc nón khum tùm hụp che lấp cả mặt mũi. – Có chục cây vải Vũ Duyên với ít muối Hải Đông thôi.
    - Này các chú lái ơi! Các chú có thùng thóc cẩm nào cho tớ vỗ con nghẻo còm của tớ không? Hay các chú đã vỗ lời hẹn phiên trước với tớ rồi.
    Giây lâu mới có tiếng đáp:
    - Dạo này, hàng họ khan hiếm lắm, chỉ mang được dăm thúng thôi.
    - Được, cứ áp thuyền vào đi. Có bao nhiêu cũng tốt.
    Gã hớn hở nói với viên giám mã:
    - Con ngựa quí của ta gặp may rồi. Cháu xin nhượng tất.
    Lão giám mã vội xua tay từ chối nhưng gã đã tiếp, nét mặt rầu rầu: - Sao tôn ông lại không hiểu cho tấm lòng của cháu…
    Lão giám mã chừng như cũng xiêu lòng:
    - Nhưng nhà bác cũng cần phải hỏi giá cả phân minh.
    Mặt gã trở nên tươi tỉnh: “Ồ, chuyện ấy xin ông cứ yên tâm. Đây toàn là bạn bè quen nhau nhẵn mặt. Mua hộ chứ buồn gì bán gì cái của này. Họ chỉ tính giá gốc thôi chứ chẳng chịu lấy lãi đâu”. Gã xăm xăm đi xuống bến. Thuyền đã cập bờ. Gã nhòm vào trong khoang: “- Thóc đâu? Người anh em cứ quẳng ra cho tớ”. Rồi gã xắn tay áo, nhanh nhẹn vác từng bao lên bờ.
    Tình cờ tìm được thóc cẩm mà lại giá hời, lão giám mã mừng rơn trong bụng. Nhưng lão cứ phải có vài lời từ chối lấy lệ rồi mới thuận để cho gã mặt chuột đặt hai bao thóc lên lưng ngựa. Lão thọc tay vào hầu bao, chợt khựng lại, mặt cứ đuỗn ra, giây sau, lão mới ấp úng: “Lão thật vô tâm… Cứ nghĩ đi tắm cho ngựa, lão chẳng đem theo mình một tí tiền nong nào cả”. Gã mặt chuột vồn vã: - Tôn ông chả nên bận tâm chuyện quái ấy làm gì. Của này có đáng là bao. Cháu xin biếu không cho con ngựa quí”.
    Mặt lão giám mã bỗng nghiêm hẳn lại: - “Đời lão xưa nay chưa hề ngửa tay lấy không của ai một vật gì”.
    Gã mặt chuột vội vàng cười khỏa lấp: - Vâng, vâng! Cháu biết. Thế thì cháu xin theo gót ông về tận nơi vậy”.
    Khi hai người quay lưng đi được dăm bước thì từ trong mui thuyền, ba cái đầu ló ra nhòm theo. Một gã đẫy đà có cái mũi đỏ bầm như quả mận chín. Gã thứ hai gầy hơn, mắt lác. Mắt gã nhóng lên bờ mà tưởng chừng như gã liếc vào khoang trong. Gã thứ ba ra sau cùng. Khi gã này đứng lên mới thấy người gã cao nhõng như cây sào, đôi tay vượn dài quá khổ. Gã có một cái đầu quả dưa rất ngộ nghĩnh, hai bên thái dương hóp lại rồi phình ra ở đôi lưỡng quyền cao gồ, trông như cái eo của quả bầu nậm. Từ nơi giữa hai con mắt một mí, buông thõng xuống một sống mũi thẳng và dài thượt. Mọi cái trên con người của gã đều dài ngoẵng. Riêng cái miệng của gã lại hẹp và nhỏ nhắn, môi mọng đỏ như miệng con gái. Gã đứng nhìn theo lão giám mã và tên mặt chuột cho đến khi bóng hai người khuất sau lưng đồi. Trên đôi môi xinh xắn mọng đỏ của gã như phảng phất một nụ cười tủm tỉm. Rồi gã vẫy tay cho thuyền xuôi về mé bờ bên kia. Đến một chỗ có lau sậy mọc um tùm, thuyền dừng lại. Ba gã xách tay nải nhảy lên bờ. Con thuyền vẫn tiếp tục trôi xuôi.
    Ba gã len lỏi qua đám lau sậy, vượt qua các đám cỏ gai, hướng bóng cây đa cao trước mặt. Bọn chúng lùi lũi đi, lặng thinh như ba con vật không mồm. Đến trước cây đa, chúng đi chậm lại đảo mắt nhìn quanh. Tựa vào gốc đa, một ngôi miếu cổ nằm khuất trong đám lá cây hoang vu, rậm rạp. Dường như bọn chúng đã qua lại nơi đây một đôi lần. Cỏ ống cao ngất, mọc đầy cả sân miếu, ăn lẫn vào tận bực thềm. Sau cái gật đầu của tên đầu quả dưa, bọn chúng vạch cỏ tiến vào ngôi miếu cổ.
    Ngôi miếu nhỏ này đã bỏ hoang lâu ngày. Cửa long tường lở, nhện giăng tứ tung khắp các lỗ thủng trên mái ngói. Tượng thần trên bệ, người ta đã mang đi từ lâu. Còn trơ lại cái màu đìu hiu, vàng vọt của năm, tháng.
    Gã mắt lác bẻ một túm lá quét qua lớp bụi dày trên mặt đất, rồi cùng chia chỗ nằm với gã mũi đỏ. Còn gã đầu quả dưa thót lên ngồi trên bệ cao trong hậu tẩm. Mãi đến lúc này, gã mắt lác mới hướng vào hắn, cất mồm hỏi:
    - Anh cả này, trước khi ra đi, lão chủ nhân có căn dặn…
    Gã chợt nhìn thấy đôi mắt một mí của tên đầu quả dưa quắc lên, gã biết lỡ lời, vội nín bặt. Đi ra ngoài mà nhắc đến lão chủ nhân là một điều cấm kị. Gã vội quay sang gã mũi đỏ, lảng chuyện:
    - Anh Hai, em có mang theo cho anh lọ nước “giếng thờ” của mụ chủ quán đấy.
    Nhưng từ trong hậu tẩm, tên đầu quả dưa đã buông gọn một câu:
    - Thằng Ba đừng lèm bèm nữa. Ngủ đi còn lấy sức.
    Trong ngôi miếu cổ lại im vắng hoàn toàn. Nghe rõ tiếng con nhặng xanh đang vùng vẫy kêu cứu từng hồi trong lưới nhện bên vòm cửa… Tiếng quạ chiều quang quác trên ngọn đa đánh thức bọn chúng dậy; gã mũi đỏ ngáp dài vươn vai lấy đá đánh lửa châm bùi nhùi, vấn thuốc hút. Gã mắt lác chốc lát lại đứng lên bước ra, nhón chân nhòm qua bức bình phong xây bằng gạch đã đổ nát sạt hẳn một bên góc. Cuối cung, không chịu nổi, gã ghé vào tai tên mũi đỏ, thầm thì: “Sao đến bây giờ hắn chưa đến?” Gã mũi đỏ vẫn im lặng nhả khói. Hắn liếc vào trong hậu tẩm thấy ông anh cả vẫn bình thản lấy miếng trầu bỏ vào mồm nhai bỏm bẻm. Hắn đành tiu nghỉu ôm gối ngồi nhìn ánh hoàng hôn ủ dột đang nhạt dần trên bức tường loang lổ.
    Chợt hắn nghe tiếng động ngoài sân miếu. Vừa ngẩng đầu lên hắn đã trông thấy tên mặt chuột lần vào đến bậc thềm. Hắn nôn nóng hỏi ngay: - Thế nào rồi?
    - Ổn cả! Tên mặt chuột hổn hển đáp.
    Gã mũi đỏ bước ra: - Đã khử con ngựa chưa?
    - Khử xong rồi.
    Gã mắt lác nhảy cẫng lên: - Lần này thì tha hồ mà tiêu tiền!
    Tên mặt chuột đưa tay ra: -“Có rượu mừng trước cho tớ một hớp”. Gã mắt lác thò tay vào nải lôi ra một nậm rượu. Tên mặt chuột chụp lấy nậm, tu một hơi liền.
    Gã mũi đỏ hớn hở bảo: “- Mày khá thật! Làm sao mà công việc trơn tru, trót lọt đến thế. Hãy kể cho bọn tớ nghe với”.
    - Mọi sự trót lọt được cũng nhờ vào cái này. Tên mặt chuột vừa nói vừa lấy ngón tay xỉa vào cái mồm kẹp của hắn. Tớ cũng không ngờ lão già chăn ngựa ấy lại thích tâng bốc đến thế. Tớ làm cho lão ta mê tít cù đèn. Đến mức mình bỏ nắm thóc độc vào máng trước mũi lão mà lão chẳng hay biết gì cả. Lúc trộn thóc cho ngựa ăn, lão bóp bóp hạt thóc độc rồi bảo:
    - Thóc tốt nhưng cũng có đôi hạt lép. Hắn cười ục ục trong cổ họng. Nhưng được cái tính của lão ta rất sòng phẳng. Chẳng chịu trả thiếu một đồng kẽm nhỏ.
    Gã mắt lác nóng ruột hỏi dồn: - Vậy con ngựa ấy đã chết thật rồi chứ?
    - Chết đứ đừ rồi còn thật với giả! Ông cả quản đây đã dặn tớ là chính mắt mình thấy con ngựa chết rồi mới được lui. Vì vậy tớ vờ ra về rồi quay lại lẻn vào cái lều chất cỏ ở phía sau chuồng ngựa, nằm phục đấy, phủ cỏ lên mình, lấy ngón tay chọc thủng một lỗ ở trên bức vách để nhòm sang. Tớ thấy tận mắt con vật ấy, miệng sùi bọt mép, rùng mình mấy cái rồi khuỳnh hai chân sau, ỉa tong tong từng hồi như xối nước. Cứ thế nó khụy dần, lăn kềnh ra mặt đất, các thớ thịt giật liên hồi như kẻ động kinh. Còn lão chăn ngựa thì mặt mày xám xanh, nhìn qua con ngựa rồi bỏ chạy đi trình với lão Thái Úy.
    Gã mắt lác lại hỏi: - Thế cậu có được xem mặt lão Thái Úy không?
    - Đáng lẽ sau khi con ngựa chết là tớ phải chuồn ngay. Nhưng vì tò mò muốn biết mặt lão Thái Úy nên tớ mới nằm nán lại. Lát sau tớ mới thấy lão Thái Úy đi xuống, theo sau là gã tì tướng trẻ với lão chăn ngựa.
    - Lão Thái Úy đẹp lắm mà oai nghiêm như thần phải không? – Gã mắt lác lại cắt lời.
    - Ối! Thiên hạ đồn đại chứ lão có thần thánh gì đâu. Lão cũng thường như mình thôi. Chỉ có măt mày của lão thì sáng sủa hơn bọn ta nhiều. Có lẽ người ta sợ là vì cặp mắt của lão, cặp mắt trong veo, đồng tử lấp loáng, nhìn ai như soi thấu vào tâm cn. Nhưng lão ăn mặc lại rất xoàng xĩnh, các cậu ạ. Tớ thấy lão bước thẳng lại chỗ con ngựa nằm, vạch mồm, banh mắt, sờ nắn khắp mình ngựa, chẳng kể gì cứt đái ngựa vung vãi đầy mặt đất. Hồi lâu chừng như thấy không phương cứu chữa, lão đứng thừ người rồi khóc…
    Gã mắt lác vụt kêu lên: “- Lão Thái Úy mà khóc à? Mày chỉ khéo bịa!” Tên mặt chuột cãi lại: “Thằng nào nói điêu, trời đánh thánh vật nó đi. Lão khóc nhưng chỉ khóc thầm, mặt quay vào tấm phên nên không một ai trông thấy”.
    Đến bây giờ gã mũi đỏ mới đánh một câu: - Ối mẹ ơi! Lão này keo kiệt quá, chỉ mất một con ngựa mà xót của đến rơi nước mắt.
    Gã mắt lác bồi thêm: Nếu tớ mà làm đến chức Thái Úy thì chết một chứ chết mười con ngựa, tớ cũng không thèm rỏ một giọt nước mắt, cứ lấy tiền công khố bảo quân hầu lùng mua ngựa khác là xong.
    - “ Lão không chỉ khóc mà còn nói lảm nhảm với con ngựa như người đọc văn tế. Tớ không nhớ hết nhưng đại khái lão kể lể nào nắng lửa Đồ Bàn quạt sém đuôi, nào Ải Bắc gió rung bờm tuyết, nào đèo gió ải mây, lão xông pha trận mạc cùng với ngựa như hai người bạn thân thiết”.
    Gã mũi đỏ bật cười: Rõ lão này tiếc của quá sinh cuồng rồi.
    - “ Khóc xong, lão Thái Úy lau nước mắt rồi quay lưng lại, lúc ấy lão ta mới thấy lão già chăn ngựa đang nằm mọp dưới đất, trên lưng đặt một cái hèo to tướng.
    Gã mũi đỏ lại reo lên: -“ À, chết một con ngựa mà thầy hóa điên, tớ cũng điên theo. Rồi sao nữa kể đi”.
    Tên mặt chuột cao hứng nốc một ngụm rượu rồi kể tiếp:
    - Thấy vậy, lão Thái Úy mới hỏi – “Ngươi làm chi vậy?”
    Lão chăn ngựa thưa: “—Dạ, con biết tội con quá nặng xin Thái Úy hãy thẳng tay trừng phạt, con mang ơn”.
    Lão Thái Úy cau mày bảo: “Ngựa chết là vì bệnh thời khí, hôm qua bên dinh phò mã cũng có một con ngựa chết như vậy. Ta đâu có hỏi tội ngươi”.
    Nhưng lão chăn ngựa cứ dập đầu nói: “Dạ, thưa Thái Úy, con đã vào nếm cơm ở nhà Thái Úy từ lúc Thái Úy còn đương chức ở nội đình. Hơn hai mươi năm nay, con chưa có điều gì sơ suất, vậy mà bỗng dưng vô ý không chăm sóc đến nơi đến chốn để con ngựa quí…” Lão nói chưa hết câu đã khóc hu hu. Thái Úy đỡ lão dậy rồi ôn tồn bảo: “Ngựa quí đến đâu cũng là con vật. Ta với lão tuy thân phận khác nhau nhưng cùng là con người. Chả lẽ ta đi quý ngựa hơn người, ta đâu phải kẻ coi người rơm của ngọc”. Nhưng khi lão chăn ngựa vừa ngẩng đầu lên, Thái Úy bỗng nhìn sững vào bộ mặt mếu máo của lão. Giây lâu, Thái Úy hỏi: -“ Ngươi có đau ốm gì không? – Dạ không ạ! Thái Úy tặc lưỡi: “Lạ nhỉ!” Lão chắp tay sau lưng hết nhìn mặt tên giữ ngựa đến xác con ngựa chết. Giây sau, Thái Úy hỏi: - Thế vừa rồi ai trộn thóc cho ngựa ăn? Lão chăn ngựa đáp: - Dạ, chính tay con đây trộn một đấu thóc cẩm!” Vừa nói hắn vừa xòe hai bàn tay ra. Thái Úy chăm chú nhìn rồi hỏi: - Ngươi bị thương ở ngón út này phải không? Hắn bảo: “- Dạ không ạ… à, dạ có ạ - vừa rồi khi lấy cỏ, con sơ ý để gai tre cào tướp máu”. Thái Úy gật đầu rồi nhìn hắn nói: - Này, có phải vừa rồi ngươi nhất mực đòi ta phải trừng phạt ngươi không? – Dạ, nếu được Thái Úy trừng phạt thì con mới yên tâm. Nếu không thì con cứ tự giày vò con mãi đến sinh ốm mất”.
    Thái Úy rút ngọn đao cài ở lưng viên tì tướng rồi bỗng nghiêm giọng: “- Vậy đao đây, ngươi hãy chặt đứt ngón út đi.” Lão chăn ngựa vui vẻ: “- Con xin tuân lệnh!”. Hắn hoành đao, chặt phăng ngón tay út.
    Gã mắt lác lè lưỡi: “ Lão Thái Úy này ác độc mà thâm hiểm. Ngoài mặt thì lão nói tha mà cuối cùng lão cũng lấy một ngón tay của người ta”.
    Tên mặt chuột cười: “Cậu chưa hiểu được đâu”. Rồi hắn nốc thêm một ngụm rượu, say sưa kể tiếp: - Thấy vậy, tên tì tướng kêu thất thanh: Trời ơi! Nhưng lão Thái Úy vẫn lạnh lùng bảo lão chăn ngựa: “- Ngươi vào bảo viên thái y rịt thuốc rồi lo liệu việc chôn cất con long câu cho chu đáo”. Xong xuôi, lão Thái Úy mới quay lại hỏi viên tì tướng: “– Vừa rồi con định nói gì với ta”. Tên tì tướng cứ lúng búng: “- Dạ bẩm… dạ bẩm”. Lão Thái Úy mỉm cười hiền từ: “- Con cứ nói. Ta thích nghe lời nói thật”. Tên tì tướng đánh bạo: “Thưa Thái Úy, lâu nay Thái Úy vốn nhân từ độ lượng…” Lão Thái Úy nối lời ngay: “- mà vì con ngựa chết, chặt ngón tay người giữ ngựa”. Tên tì tướng bối rối: “Dạ, thật quả tình con không hiểu…” Lão Thái Úy ôn tồn: “- Với ta, con cứ nói thật lòng mình, đừng sợ ta phật ý. Còn trong chuyện này nếu không chặt ngón tay ấy đi thì chất độc sẽ gây bối thư ăn vào máu, lúc ấy có chặt cả cánh tay e cũng không còn kịp nữa”. Tên tì tướng trố mắt: “- Trời ơi! Hóa ra Thái Úy đã cứu sống cho viên giám mã và con ngựa của ta đã bị kẻ gian đầu độc”. Lão Thái Úy gật đầu rồi hạ giọng: -“Nhưng ta cấm con không được tiết lộ điều này, cứ bảo con ngựa chết vì bệnh thời khí! Thì ra bây giờ tớ mới nhớ cái lão chăn ngựa ngốc nghếch ấy đã bóp nát những hạt thóc độc và bảo đó là thóc lép nên nọc độc mới thấm vào vết thương”.
    Bỗng một tiếng phì nổi lên trong hậu tẩm. Gã đầu quả dưa phun toẹt cả bã trầu lẫn cốt trầu ra đất rồi một giọng nghiêm nghị vọng ra: - “Mày nói lão Thái Úy đã biết rõ âm mưu hạ độc của bọn ta, có phải thế không?”
    Tên mặt chuột tái mặt, hơi men bay mất. Đến bây giờ hắn mới thấy hắn đã dại mồm nói ra những lời đáng lẽ không nên nói, có muốn rút lời thì đã chậm mất rồi. Bất giác, hắn hoảng sợ lùi lại mấy bước. Nhưng tên đầu quả dưa đã bước ra theo: “- Mày đã làm hỏng việc lớn của người trên mà còn di họa đến bọn ta nữa, mày đã biết tội chưa”.
    Tên mặt chuột ấp úng không thành tiếng: “- Tại vì… tại vì cái lão chăn ngựa”. Rồi hắn vụt quay mình chạy. Nhưng tên đầu quả dưa đã vung tay. Một làn sáng trắng bay thẳng vào lưng hắn rồi phụt tắt. Trên tay tên đầu quả dưa nằm, một lưỡi dao lá trúc có buộc một sợi dây bằng gân thú. Tên mặt chuột rú lên một tiếng, ngã sấp xuống cỏ dại.
    Vẫn một nụ cười phảng phất trên đôi môi đỏ thắm cốt trầu, gã đầu quả dưa nhìn hai đứa đàn em, nói nhỏ: “- Thằng này bẻm mép, câu chuyện lọt đến tai chủ nhân thì bọn ta khó sống. Hơn nữa, hắn đã lộ mặt rồi; nếu người của lão Thái Úy bắt được hắn thì hại đến chủ nhân mà bọn ta cũng không yên. Bây giờ cứ về trình là ba anh em ta đã khử con ngựa của lão Thái Úy rất êm thấm mà lão ấy không một mảy may nghi ngờ. Các chú nghe chứ?” Hai tên đàn em gật đầu.
    Hắn moi trong tay nải ra một bao bì lớn và một sợi dây ném cho gã mắt lác, ra lệnh: “- Chú ba! Cho hắn vào bao dằn đá cẩn thận, gửi hắn dưới sông cho hà bá giữ hộ. Rồi chú về đây sửa soạn lên đường”. Nụ cười vẫn không tắt trên môi hắn.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:39 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 5


    Giờ Thân đã qua từ lâu mà Thái Úy Lý Thường Kiệt vẫn ngồi yên bất động. Chuyện con ngựa quí bị đầu độc tuy là việc nhỏ nhưng xem ra bên trong còn giấu nhiều ẩn tình. Lão giám mã đã thuật lại mọi sự rất cặn kẽ. Thái Úy đã bí mật phái người đi kiểm soát thuyền bè qua lại trên bờ sông Nam Bình nhưng bóng kẻ gian vẫn mất biệt. Không bắt được thủ phạm thì làm sao truy tìm ra kẻ thù. Mà kẻ thù này là ai? Chúng giết một con ngựa chiến để làm gì? Mũi tên thù này từ phía nào bắn tới?
    Những câu hỏi buông lỏng không tiếng vang đáp lại, cứ cuộn khúc, uốn hình lưỡi câu treo lơ lửng bên đầu Thái Úy.
    Viên thái y bước vào đứng thu hình bên cửa lớn. Nhìn đôi mắt mất ngủ đỏ quạch và vẻ thất vọng chảy dài trên bộ mặt thểu não của thầy lang trẻ, Thái Úy ái ngại buông một câu lấy lệ:
    - Sao rồi, thầy vẫn chưa tra ra xuất xứ chất độc chứ?
    - Dạ, thưa… cái vốn y thuật non kém của hạ chức quả không sao đoán định nổi – Viên thái y cố lấy giọng quả quyết trình tiếp – may ra, người này thì có thể xác minh được.
    - Ai thế?
    -Dạ cụ Vũ tổng quản nhà ta ạ.
    Viên thái y nhận thấy ngay sự hiệu nghiệm của câu mình vừa nói. Nét mặt Thái Úy như giãn ra trước luồng gió mát.
    - Nhà thầy có con mắt khá tinh đời. Nhưng tiếc rằng hiện nay lão Vũ nhà ta không có mặt ở đây.
    Khi lui ra, viên thái y tưởng như con nghe bên tai một tiếng cười khẽ của Thái Úy. Quả là Thái Úy lúc này đang nghĩ về lão tổng quản và tâm trí ông thẫn thờ trìu mến quay về những mẩu chuyện xa xưa… Giọt nắng chiều hạ sáng chói xuyên chếch qua vai ông, bò dần lên bức tranh thủy mặc “Liễu mã” treo trên vách ván. Khi Thái Úy bất chợt để mắt đến giọt nắng đã kéo dài thành hình thuẫn chĩa cái góc nhọn vào ức hình con ngựa đang vươn cổ hí bên gốc liễu, Thái Úy bỗng thấy trong lòng đau nhói. Kẻ thù quả sâu hiểm. Hẳn chúng biết rõ Thái Úy nặng lòng với con vật như thế nào. Giết con ngựa, chúng đã đâm một nhát vào tình cảm của Thái Úy. Một ý nghĩ lóe lên. Như vậy, kẻ chủ mưu giết con Xích Long đâu phải là người xa lạ. Biết đâu lại chẳng quẩn quanh trong đám triều thần. Bất giác, trước mắt ông hiện lên bộ râu dài thẳng đuột trắng như cước rung rung vì cơn giận không nén được của quan tể chấp Lý Đạo Thành trong cuộc cãi vã tay đôi với ông bên ngoài điện Thiên Khánh – cuộc tranh luận gay gắt giữa hai vị tể thần xảy ra vào lúc trước giờ di thể tiên đế khâm liệm nhập quan, xoay quanh việc sẽ chọn ai lên cầm quyền chấp chính. Thái Úy muốn cử Thái Phi Ỷ Lan, còn Đạo Thành khăng khăng đòi tôn Thái Hậu Thượng Dương. Cuối cùng Đạo Thành gạt phắt lời Thái Úy, chặn đứng cuộc tranh cãi bằng một câu hỏi thẳng thừng: “- Vậy lão phu xin hỏi Thái Úy, trong buổi lễ cúng tiên vương, ai làm chủ tế? Ai quỳ chiếu nhất, ai quỳ chiếu nhì?” Thấy Thái Úy tắc lời, Đạo Thành bồi thêm:
    -“ Dòng nước không thể chảy ngược, mưa không rơi từ dưới đất lên trời, xưa nay tạo hóa đã an bài, sao Thái Úy lại muốn đảo ngược tôn ti ngôi thứ?” Lúc ấy ông đã muốn thét to lên: “Tôn Thượng Dương lên ngôi chấp chính, là tiếp tay cho một kẻ đố kỵ bất tài cắp quyền, loạn chính”. Nhưng ông đã ghìm được lòng mình. Ông im lặng lơ đãng nhìn ra con đường thẳng qua cầu Phượng hoàng đang ngập ánh nắng ôn hòa của buổi đầu xuân. Không phải ông e dè trước cái thần thế của vị cố mệnh đại thần này đang vững chãi như gốc cây cổ thụ sum suê trùm bóng trước sân rồng. Ông chỉ muốn tránh một cuộc cãi vã vô ích vì ông biết rõ tính cứng nhắc nổi tiếng của quan Thái Sư và không có một sức mạnh nào có thể kéo ông ta ra khỏi con đường quen thuộc. Nhưng quan Thái Sư Lý Đạo Thành lại là một con người chính trực, công minh. Chính Thái Úy cũng biết rõ điều này hơn ai hết. Con người ấy không bao giờ có thể hạ mình làm một việc hèn hạ. Dù chỉ thoáng qua một chút nghi ngờ, Thái Úy cũng thấy thèn thẹn trong lòng. Gạt phắt mọi ý nghĩ không vui, Thái Úy đứng lên, bước ra hiên ngoài. Cảnh rực nắng hè trên sông Nam Bình đập ngay vào mắt ông sững sờ. Vệt sáng hừng kéo dài phía chân trời tây, đánh một lượt phấn hồng rạng rỡ lên gương mặt dòng sông lặng lẽ, làm lấp lóa đôi cánh cò trắng phân vân đang tìm hướng bay. Ánh hồng quang ngùn ngụt tỏa sáng ra cả một vùng. Nó đậu lại kết thành những chùm hoa lửa hồng rực trên tầng lá rặng đào mọc ven sông tưởng chừng như mùa xuân chưa chịu đi còn nấn ná đợi chờ khách lạ.
    Chẳng hiểu người thời ấy còn gọi con sông này là sông Đào Hoa có phải vì hoa đào nở hay vì vệt ráng hồng thường thấy ở đây trong những buổi chiều tà. Một cảm giác đê mê thanh thoát xâm chiếm dần cơ thể làm Thái Úy nghẹn thở. Đã một lần ông bắt gặp cảm giác này cũng vào một buổi chiều khi ông ngắm cảnh núi An Hoạch ở Châu Ái. Đứng dưới thôn Duệ nhìn lên, hòn núi đá quí ấy ánh sắc ngọc lam, quyện lại trong tia nắng nhạt, nghi ngút tỏa một màu xanh khói hương mờ ảo. Và mỗi lần đứng trước cảnh đẹp thiên nhiên, lòng ông lại thấy dâng lên một niềm tiếc rẻ bâng khuâng. Ừ nhỉ, giá ta mang được cảnh đẹp này về cho bàn dân thiên hạ cùng chiêm ngưỡng. Có lẽ ông thông hiểu được hơn ai hết những sợi dây sinh hóa bí ẩn giữa cảnh đẹp thiên nhiên với vẻ đẹp tâm hồn con người.
    Mải nhìn cảnh đẹp, Thái Úy không nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập đến gần rồi tiếp theo tiếng chân người hấp tấp bước lên bậc thang gỗ. Khi ông quay lại thì đã thấy Hạnh Hoa đứng lừng lững giữa nhà.
    Thấy mặt con gái nuôi, ông hấp tấp đi lại định làm một vài cử chỉ quen thuộc nhưng ông bỗng dừng bước. Không phải vị bộ nam trang phủ bụi đường xa khoác trên người cô gái làm ông chững lại. Mọi cung nữ kể cả những người cận kề của Thái Phi Ỷ Lan đều bắt buộc phải vận nam trang. Ý muốn oái ăm này lâu ngày đã trở thành thông lệ. Ông ngạc nhiên vì lần đầu tiên ông phát giác trong đứa con gái yêu của ông một cái gì khác lạ. Đứa con ấy, ông nuôi từ lúc nó mới lên năm. Số phận dun dủi ông gặp nó trong một trường hợp kỳ lạ.
    Cách đây non một giáp, ngày ông đi kinh phỏng Ái Châu, dẹp giặc Lữ Long, trên đường về ông nôn nao muốn ghé qua Tượng Châu, thăm lại ngôi nhà quán xá nơi cha ông mất. Lúc ông đặt chân vào quán xá thì đằng sau ông, ánh tím hoàng hôn còn đốt sáng những chồi non tua tủa trên gốc bàng khẳng khiu mọc ở trước sân. Ông đứng nhìn năm gian nhà hoang vắng thống thênh, cột kèo xiêu vẹo. Chính trong căn nhà này, bố ông bị bạo bệnh đã qua đời trong một chuyến đi kinh lý vùng Thượng. Lúc ấy ông mới 12 tuổi. Hình dung cảnh bố chết không một ai thân thích bên mình, ông không nén được một tiếng thở dài. Bầu không khí im ắng hắt hiu của vùng sơn địa như loãng ra rồi đọng lại trong người ông. Đột nhiên ông có cảm giác mường tượng như có cặp mắt nào đang vụng trộm theo dõi ông trong bóng tối. Và ngay đúng lúc ông quay lưng bước ra thì đột nhiên có tiếng sột soạt ở một góc nhà. Ông vội quát to “kẻ nào đấy?”. Đáp lại tiếng ông là một hình thù nhỏ bé chui ra từ gậm giường lững thững đến trước mặt ông. Nhìn kỹ mới thấy đó là một đứa bé trên mình chỉ độc phong phanh một chiếc áo cộc, mặt mũi nhọ nhem, mạng nhện đầy đầu đầy cổ.
    Màu rừng núi phảng phất ánh lam của buổi chạng vạng chiếu hắt vào làm da mặt đứa bé xanh lướt, đôi mắt mở to ráo hoảnh không một chút hoảng sợ, sáng lên một cách kỳ dị. Ông ôn tồn hỏi: “Cháu tên gì?”. Im lặng.
    - Bố cháu ở đâu mà để cháu thế này?
    - Bố chết rồi.
    - Thế còn mẹ?
    - Mẹ chết rồi.
    Đôi mắt ráo hoảnh lại trân trân nhìn ông. Bỗng trong một lúc tiếng dế, châu chấu nhạc sành chung quanh nhà cùng tấu lên một điệu kèn rền rĩ.
    - Cháu không còn ai hết à?
    Đứa bé lắc đầu. Sau này ông mới biết cả người nhà em bé đều bị giặc Lữ Long giết sạch.
    - Thế nhà cháu ở đâu, bác đưa cháu về. Đứa bé đưa tay chỉ vào cái giường ở góc nhà. Ông bỗng thấy lạnh cả người. Trên chiếc giường ấy, năm xưa bố ông đã trải qua những giây phút cuối cùng. Một niềm xót xa thông linh đến chẹn ngang cổ họng ông.
    Ông dịu giọng bảo: “Không còn ai nữa thì cháu về ở với bác nhé”. Đứa bé vẫn đứng nguyên, đôi mắt mở to, lặng lẽ nhìn ông. Hình như ông còn kịp thấy một giọt nước mắt ứa ra lấp loáng trong ánh hoàng hôn sắp tắt.
    Đến bây giờ ông cũng không hiểu có sức mạnh nào đẩy bước chân ông nhích lại gần phía con bé và cũng không nhớ rõ từ lúc nào con bé dang hai tay quàng lấy cổ ông. Ông ẵm chặt con bé vào người và cứ thế lững thững bước ra khỏi quán xá đi thẳng một mạch về dinh. Lúc ấy, từ mặt đất bóng tối dâng lên mù mịt và những cánh dơi từ những cột tre mục ngung nguẩy kéo ra bay vun vút qua trước mắt ông.
    Không biết có phải vì cây hạnh ở đầu hè vừa mới trổ bông mà Thái Úy đặt ngay cho đứa con nuôi của mình cái tên Hạnh Hoa. Một sự xui khiến vô hình nào đã gắn chặt tình cảm giữa hai bố con ngay từ những phút đầu. Suốt ngày, con bé quấn quít bên bố và tỏ ra nhất mực thương yêu; hiếu thảo. Đáp lại tình thương ấy, ông đã tự tay chăm sóc nuôi dưỡng con bé nên người. Sự có mặt của Hạnh Hoa xua tan dần bầu không khí tẻ lạnh và đơn độc dưới mái nhà của Thái Úy. Mỗi lần tan chầu về, ông vụng về đặt tay lên chỏm đầu xinh xắn xoa xoa vài cái, một cử chỉ biểu lộ tình thương gần như độc nhất của ông đối với con gái yêu. Và bao nhiêu bực dọc ngang trái nơi chốn triều quan theo cái xoa tay ấy bỗng như bay biến. Hạnh Hoa đã đem đến cho ông một nguồn an ủi vô giá.
    Cuộc sống hoạn quan danh thần khô khốc của ông sừng sững một mỏm núi đá trơ trụi, bỗng như có thêm bóng mát và tiếng chim. Cuộc đời đầy nhiệt huyết của người tướng soái xả thân vì nghiệp lớn lâu nay như dòng sông chảy xiết bỗng có thêm phù sa lắng đọng láng ướt đôi bờ.
    Có lẽ chính vì vậy mà Thái Úy quí Hạnh Hoa như châu ngọc. Nếu như đối với bản thân, ông khắt khe bao nhiêu thì đối với Hạnh Hoa, ông lại cưng chiều bấy nhiêu. Đi đâu ông cũng mang bé Hạnh theo kể cả lúc vào triều nội. Hạnh Hoa muốn gì được nấy. Ông vời một vị tăng quan ở chùa Thiên Vương đến lo việc dạy chữ cho con. Nhưng Hạnh Hoa còn muốn theo đòi nghề võ. Thấy nét mặt Thái Úy hơi nghiêm lại, Hạnh Hoa nhảy sà vào lòng bố nũng nịu: “- Thế cha chẳng nói thời này là thời chuộng võ đấy sao?” Thái Úy nhớ lại tuổi thơ côi cút khi ở với bà cô ruột của mình cũng có lần đã đòi cô cho theo nghiệp võ để đi xa vạn dặm, lập công với nước nhà, làm rạng danh cha mẹ. Nghĩ đến đây, ông nhìn con gái cười xòa. Thế là có thêm võ sư đến nhà dạy Hạnh Hoa luyện nghề cung kiếm.
    Hạnh Hoa khôn lớn như cái cây gặp mưa thuận gió hòa, vươn thẳng mọi cành lá chưa hề biết qua mùi giông bão. Cuộc sống hồn nhiên không gò bó ấy đã sớm làm nảy nở tư chất thông minh hiếm có của cô bé. Đồng thời tính cương nghị, thẳng thắn có đôi chút ngang bướng cũng sớm hình thành rõ nét. Nhưng có điều lạ là cái nết phóng khoáng ngang tàng này ít thấy ở các tiểu thư con quan, lại được Thái Phi Ỷ Lan ưa thích và tán thưởng. Chả vậy mà cách đây hơn một năm, Thái Phi đã ngỏ lời với Thái Úy cho phép Hạnh Hoa thỉnh thoảng được vào cung cùng bà bầu bạn.
    Mặc dù con gái đã khôn lớn, trong con mắt tình cảm của Thái Úy, Hạnh Hoa bao giờ cũng vẫn là bé Hạnh của ông. Thấy mặt con, ông định bước lại mắng yêu con vài lời, sao thân gái lại xông pha sương nắng, không biết giữ gìn sức khỏe, chỉ làm theo ý thích ngông cuồng của mình… để bày tỏ sự chăm sóc quan tâm thường lệ của ông. Nhưng nhìn lại, trước mặt ông là một thiếu nữ rắn rỏi, đôi mắt sáng kiên nghị, tư thế dũng mãnh chẳng giống chút gì với một bé Hạnh dại dột luôn luôn cần để mắt tới. Điều đó làm ông bối rối mất đi phong thái đàng hoàng uy nghiêm thường có ở ông. Bất giác, ông nhìn vào những ngón tay đang xòe ra của mình.
    - Hạnh con, con lên đây làm gì mà không báo cho cha biết trước?
    - Dạ, thưa cha, con lên đây trước là thăm sức khỏe của cha…
    Biết chuyện vấn an chỉ là một cái cớ, ông cười phá lên:
    - Con có biết trong triều mọi người đều ngạc nhiên về sức khỏe của cha không. Suốt mấy chục năm nay, cha chưa hề đau ốm.
    Hạnh Hoa nhìn cha nửa ân cần nửa trách móc.
    - Thì cha chẳng vừa ốm khỏi đấy sao – Giọng cô trở nên tha thiết. Cha ơi! Cha tuổi già mà lên chốn núi non nắng gió này lòng con trẻ làm sao yên được.
    Dáng chừng để che giấu sự xúc động của mình, ông khoác tay vui vẻ:
    - Ừ, thì là con lên đây trước, để thăm cha, còn sau nữa là gì nào, con nói tiếp đi.
    Hạnh Hoa dừng lại một chút rồi nghiêm trang đáp:
    - Sau là Thái Phi nhờ con chuyển lời thăm hỏi cha và mời cha về kinh sư gấp.
    - Không được, không được đâu. Con hãy về bẩm lại với Thái Phi rằng ta đang quân vụ bận thân, làm sao bỏ dở chừng mà về ngay được.
    Hạnh Hoa vặn vẹo hai bàn tay đến khốn khổ.
    - Trời, cha! Cha đừng nói thế. Giá cha biết được Thái Phi đang mong ngóng cha từng khắc từng giờ thì chắc cha không nỡ lời từ chối thỉnh cầu của Người. Cha ơi! Hoàng hậu Thượng Dương vừa ra dụ cấm Thái Phi dự bàn việc triều chính. Thái Phi đang lo buồn vật vã, một ngày ba lần chạy đến cung Long Đức để gặp Thượng Hoàng Thái Hậu.
    Bà Kim Thiên họ Mai, mẹ đẻ của vua Lý Thánh Tông hiện là Thượng Hoàng Thái Hậu, người duy nhất trong cung mà Hoàng Hậu Thượng Dương còn e dè kiêng nể.
    “- Cha ơi! Cha mà không về thì con gái của cha còn biết ăn nói làm sao với Thái Phi?”
    Thái Úy thừa biết rằng Thái Phi không phái ai đi mà chọn Hạnh Hoa lên mời ông về triều là đánh vào điểm yếu tình cảm của ông. Ông nhìn kỹ Hạnh Hoa như để đánh giá lại mức trưởng thành của con gái, rồi nghiêm giọng bảo:
    - Con đã lớn rồi đấy Hạnh Hoa ạ. Lớn rồi thì phải biết nghĩ đến việc lớn. Con ngẫm lại xem, mỗi lần ở nước ta khi có vua lớn băng hà mà vua con còn nhỏ dại là kẻ láng giềng phương bắc bắt đầu nhòm ngó. Chuyện vua Đinh ở triều trước đây là chuyện nhãn tiền…
    Ông muốn nói nhiều cho Hạnh Hoa biết rằng vua Tống Thần Tông mới lên ngôi cách đây bốn năm là ông vua trẻ có nhiều tham vọng, rằng vị tể tướng Vương An Thạch có tài kinh bang tế thế, rằng trước đây vì ngại uy vũ của Tiên Đế nên họ chưa dám gây sự can qua. Ông muốn giảng giải cho Hạnh Hoa thấy rõ hiểm họa xâm lăng sắp đến. Nhưng ông nín bặt. Hình như bỗng dưng ông nghe có tiếng cười nghẹn bật ra trong cổ họng con gái.
    - Sao lúc nào con cũng có thể cười được thế?
    Hạnh Hoa kêu to lên: “Không! Không phải đâu, cha ơi! Con đâu dám cười cha. Chỉ vì con nghĩ đến câu nói của Thái Phi trước lúc con đi mà không nín được cười”.
    - Thái Phi nói gì?
    - Dạ, Thái Phi bảo, cha em cứ mải lo việc lửa xa mà quên lửa bếp nhà đang bốc cháy.
    Lửa bếp nhà! Không phải ông không biết chuyện lục đục từ lâu giữa hai bà Hoàng. Nhưng thân ông làm tướng soái phải biết nhìn ra bốn cõi. Ông phải trù liệu được việc nhỏ việc lớn, việc trước việc sau chứ không thể hồ đồ được. Hơn nữa, trước khi ra đi, ông đã dặn dò cặn kẽ quan Đô Tri Lưu Khánh Đàm, người thân tín của ông hiện đang coi sóc mọi việc ở nội đình.
    - Bếp nhà cháy thì đã có quan Đô Tri dập tắt lửa!
    - Dạ, thưa cha, chính chú Đàm cũng nhờ con thưa lại với cha rằng cha nên về ngay thì mới kịp.
    - Có thật thế không? – Ông buột miệng hỏi nhưng vừa hỏi xong ông thấy ngay là thừa vì ông biết tính con gái ông không bao giờ nói dối cha. Ông nhìn vầng trán thanh khiết rịn mồ hôi của con gái:
    - Thôi, việc đó ta sẽ tính sau, trước mắt là con hãy vào hậu dinh tắm táp thay quần áo rồi nghỉ ngơi cho lại sức.
    - Không! Cha phải hứa với con cơ! – Vừa nói, Hạnh Hoa vừa quì thụp xuống sàn nhà – Chừng nào cha chưa hứa với con một lời thì con vẫn còn quí ở đây cho tới sáng.
    Đã từng quen với nết ương bướng của con, Thái Úy đành vội vàng bước lại kéo Hạnh Hoa đứng lên.
    -Thôi được, cha hứa, cha sẽ về ngay mà.
    Hạnh Hoa vừa lui vào nhà sau thì đã thấy bóng viên thái y thập thò ở cửa trước.
    - Gì đấy? Thái Úy quay mình lại hỏi.
    - Dạ, bẩm Thái Úy, đã truy ra nguồn gốc chất độc ở máng ngựa ăn rồi ạ.
    - Thầy khá lắm.
    Được tiếng khen, thầy lang trẻ thấy thẹn đỏ mặt, hối hả thanh minh:
    - Dạ, không ạ! Dạ, không phải cháu ạ mà chính là cụ tổng quản ạ.
    - Vũ Nhi về rồi à? Về từ lúc nào?
    - Dạ, cụ Vũ về cũng đã khá lâu. Trước lúc cùng với lão giám mã ra bờ sông, cụ Vũ dặn cháu lên báo ngay kết quả cho Thái Úy rõ. Dạ, theo cụ Vũ thì chất độc này rút ra từ bã đậu khấu trộn lẫn với một loại nấm đỏ cực độc thường xuất hiện ở nước Thổ Phồn.
    - Ở Thổ Phồn ư? Thái Úy như tự hỏi mình.
    - Dạ, ở cả miền Bắc nước Đại Lý nữa ạ.
    Chi tiết sau của viên thái y không làm suy suyển chút nào sự xét đoán của Thái Úy. Như vậy chỉ có người Tống mới có loại độc dược này và mũi tên thù này bắn tới từ phương Bắc. Nhưng chẳng lẽ kẻ kia lại báo động trước cho ta biết mà phòng bị ư? Dù sao thì Thái Úy cũng thấy việc ông tiếp tục chuyến thị sát này là cần thiết. Ông còn phải đi đến Vạn Xuân, duyệt lại đội thủy binh và bố trí kiểm soát nghiêm ngặt con đường nước từ Đông Kênh đến sông Bạch Đằng.
    Lửa xa à! - Thái Úy lẩm nhẩm – không xa đâu, nó đang đến sát đấy, nó đã đốt chết con ngựa chiến yêu quí của ta rồi.
    Trong một thoáng giây, Thái Úy bỗng thấy tự trách mình về sự mềm lòng trước lời thỉnh cầu của con gái cưng.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:43 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 6


    Hạnh Hoa đánh một giấc sâu đậm đến mức chẳng hay biết gì cơn mưa rào thảng thốt trong đêm. Lúc nàng thức dậy, mặt trời đã lên cao. Hương mát ban mai tản dần trước tia nắng sớm. Tiếng chim chóc chỉ còn thưa thớt trong vườn. Một con chim phướn đang lặng lẽ tìm sâu nái ở hàng rào vông, thấy người vội chao mình sà thấp biến đi mất dạng, cái đuôi dài lê thê sặc sỡ còn quệt nhẹ trên chòm lá rung rinh.
    Hạnh Hoa mải nhìn theo con chim lạ, không để ý tiếng chân người rón rén bước qua ngưỡng cửa. Khi nàng ngoảnh lại thì lão Vũ đã có mặt ở đấy tự bao giờ. Lão đứng thu hình, im lìm bất động. Cái khay đầy ắp những quả đào to mơn mởn như dán chặt trên tay lão. Có lẽ vì tính khí lão lầm lì hay vì lão không muốn làm kinh động cô chủ trẻ. Nhưng nhìn lão, Hạnh Hoa chợt có cảm giác như từ ngày lão đặt chân vào cửa Thái Úy đến nay chẳng có một chút thay đổi mảy may nào trên con người lão. Vẫn lối ăn bận lúc nào cũng hết sức chỉnh tề, vẫn ống tay áo lụa La Vân dài thẩm che kín cả mu bàn tay, vẫn cái khăn chàm bịt lấp trán thắt múi bỏ giọt đằng sau gáy. Và vẫn cặp mắt mờ đục ngó xuống khiêm cung thủ phận.
    Lão Vũ vào ở nhà Thái Úy cũng đã khá lâu nhưng chẳng một ai biết rõ lai lịch gốc gác của lão. Ngoài Thái Úy ra, đối với mọi người, lão có một thái độ hững hờ lạnh nhạt. Thỉnh thoảng lão mới bắt chuyện với ông lang trẻ và viên tì tướng của Thái Úy. Có điều lạ là khi gặp, ai nấy đều chắp tay chào cung kính. Mọi người đều gọi lão là ông quản hay trọng vọng hơn “cụ tổng quản”. Hình như họ đều mơ hồ cảm thấy trên con người lạ lùng này có dấu ấn tin cậy vào bậc nhất của quan Thái Úy.
    Riêng đối với Hạnh Hoa, lão Vũ rất mực ân cần chiều chuộng. Tuy giữ phần việc quản gia, lão Vũ luôn luôn đi vắng nhà.
    Mỗi bận đi xa, như người mẹ đi chợ về, lão thường mua quà cho con gái – mà toàn là những món quà quí giá hiếm thấy ở đất nhà và rất hợp với ý thích của cô bé. Khi thì cái lược ngà, khi chiếc gương Tư Mã, có khi một con bướm xà cừ xanh biếc đính trên cành thoa bạc. Lão lại là người ít lời, hay nói đúng hơn lão dè xẻn từng lời và hay lấy cử chỉ việc làm thay cho lời nói.
    Vì vậy Hạnh Hoa đối với lão Vũ rất mực tin yêu. Có chuyện gì Hạnh Hoa cũng đem kể với lão. Cả những chuyện ngóc ngách thầm kín của trái tim yêu mà bất kỳ một cô thiếu nữ nào cũng cảm thấy không thể thổ lộ với kẻ khác được dù đó là người thân nhất của mình. Hạnh Hoa thích tâm sự với lão không chỉ vì nhu cầu cần san sẻ những tình cảm mới lạ hay vì sự cảm thông từ trước của lão mà vì lão còn là người kín đáo. Câu chuyện rót vào tai lão như rót vào cái thùng kín mít không đáy, không tiếng hồi âm. Lão chịu khó chăm chú ngồi nghe Hạnh Hoa kể lể hàng giờ thỉnh thoảng mới gật đầu hay phác họa một cử chỉ đồng tình. Mối thân tình giữa Hạnh Hoa với lão Vũ mỗi ngày thêm gắn chặt. Nhưng bao giờ lão cũng giữ một khoảng cách giữa hai người. Dường như lão muốn đứng xa xa mà trông chừng chăm sóc cho cô bé. Hạnh Hoa, cho đó là một sự giữ ý đương nhiên của kẻ bề dưới.
    Vừa trông thấy lão Vũ, Hạnh Hoa đã reo lên:
    - Ôi, Lão Vũ! Lão đến đây từ lúc nào? Sao lần này lão đi lâu thế? Ở quê nhà có bình thường không? Lại quà nữa à?
    Lão Vũ không vội đáp lại những câu hỏi tíu tít của cô chủ. Lão lặng lờ đi lại sẽ sàng đặt khay táo lên bàn, thong thả nhấc cái khăn vắt trên vai xuống, phủi những hạt bụi tưởng tượng nào ở rìa bàn và nơi góc ghế.
    - Ôi dào! Hạnh Hoa kêu khẽ lên rồi im bặt.
    Niềm xúc động và lòng cảm khích làm nàng không thốt nên lời. Quả chỉ có lão ở trên đời này mới hiểu rõ được những sở thích của nàng và hết lòng chiều chuộng. Nàng ưa thích đào không chỉ vì hương vị của thứ trái cây này mà còn vì nó gợi lên và như quện vào trong tâm tưởng nàng cảm giác ngạt ngào hương hoa khi lần đầu nàng gặp lại công tử Lý Ngân. Câu chuyện riêng tư này, nàng đã đem kể cặn kẽ cho lão Vũ nghe ngay trước lúc tin cẩn nhờ lão mang tin đi tin về làm con thoi dệt mộng cho lứa đôi.
    Theo lời Hạnh Hoa thì nàng quen biết người ta không phải một ngày một buổi.
    Thời ấy cách đây đã lâu, ngày nàng còn là một cô bé đầu còn để chỏm tóc hoa roi tết chỉ gấm. Tay cầm cành lá trúc đào, con bé vừa đi vừa nhảy chân sáo theo Thái Phi Ỷ Lan xuống phường dệt Thái Hòa. Nghe nói phường dệt này do chính tay Thượng Hoàng Thái Hậu cùng một số cung nga khéo tay đã tạo dựng lên từ thời Thái Tông mới lên ngôi. Đây là xưởng dệt lớn nhất chuyên dệt gấm vóc cho triều đình. Có lẽ khi thấy sản vật của mình làm ra không thua sút gì mấy so với hàng nước ngoài, Thái Tông mới xuống chỉ cấm mua gấm vóc của nhà Tống. Mọi lễ phục từ vua đến quan đều dùng hàng nội hóa. Những thứ hàng cũ của nước ngoài còn tồn kho đều đem phân phát sạch cho các cung nga và các vị đại thần. Đây là hành động đầu tiên biểu thị ý chí tự túc tự cường của các vua triều Lý trên con đường dựng nước. Sự việc này xảy ra vào năm căn phù hữu đạo thứ hai đời vua Lý Thái Tông.
    Đến nay xưởng dệt đã có cơ ngơi bề thế. Hàng chục công nhân già nắm xảo thuật dệt trong tay chuyên tâm truyền nghề cho lớp thợ trẻ. Tiếng thoi tiếng suốt róc rách ngày đêm.
    Cũng cần nói thêm ở đây rằng Thái Phi Ỷ Lan vốn xuất thân từ một cô gái hái dâu ở làng Thổ Lỗi. Trong một chuyến đi cầu tự lễ Phật ở chùa Siêu, vua Lý Thánh Tông tình cờ gặp nàng. Thấy nàng đối đáp nhanh nhảu lại thêm nhan sắc hơn người, vua Lý đưa nàng về cung. Năm sau nàng được phong làm Nguyên phi đứng đầu các phi tần.
    Nghề tằm tang vốn là nghề của Ỷ Lan. Vì vậy chẳng một ai lấy làm lạ khi thấy Thượng Hoàng Thái Hậu hợp tính hợp nết với nàng. Mọi việc trong ngoài ở xưởng dệt bà đều trao lại cho nàng quán xuyến. Có lẽ vì vậy mà tình cảm của bà mẹ chồng này nghiêng về cô dâu thứ bình dị cần mẫn hơn là cô dâu cả kiêu kỳ cảnh vẻ. Điều đó, sau này Hoàng Hậu Thượng Dương vẫn còn ghim mãi trong lòng.
    Đại loại những việc như vậy, Hạnh Hoa không hề biết đến. Giờ đây con bé đang tung tăng khắp các gian trại dệt thênh thang đón ngọn gió mai từ hồ Dâm Đàm thổi vào mát rượi. Đến cạnh một khung cửi, nó dừng lại xem một bà cung phi già đang cho con suốt vào thoi. Thốt nhiên con bé có cảm giác như chân vừa giẫm lên một vật gì nhùn nhũn làm nó suýt bật lên tiếng kêu. Ngay lúc ấy, một bàn tay nhỏ nhắn nhanh như gió thò ra đẩy bắn cặp chân làm con bé suýt ngã lộn về phía sau. Rồi từ dưới khung cửi, một thằng bé lồm cồm bò ra sừng sộ: - Mù à! Sao giẫm vào cánh tay người ta!
    Sau phút hoàn hồn, con bé mới kịp nhìn lại thì ra đó là một đứa bé hơi nhỉnh hơn mình một chút. Thấy Hạnh Hoa, nó hơi dịu giọng: “- Con gái! Con gái thì tha cho. Lần sau giữ hồn!”
    Nhưng bé Hạnh đã chẩu môi lên đáp:
    - “Mày nằm lê la dưới đất, làm sao tao nhìn thấy. Thế mà mày còn gây sự, mày đáng ăn đòn”.
    Câu nói chưa dứt thì tay con bé đã phất cành trúc đào vào mông chú bé. Thằng bé tức giận đỏ mặt tía tai lao lại như một trái cầu. Bé Hạnh bình tĩnh xoay người lật bàn chân trái chặn ngang, chân mặt cất cao đạp xéo gót vào bụng thằng bé. Nhưng nó đã nhanh nhẹn nhảy lên rồi chợt gập người lại vươn thẳng tay ra.
    Vừa lúc ấy, bà cung nhân già đã lên tiếng buộc thằng bé phải dừng tay.
    - Có giỏi thì đi theo tao. Thằng bé vừa bước ra vừa hất hàm thách thức.
    Bé Hạnh đâu có sợ, lặng lẽ theo sau. Đến một mô đất trống sau nhà, chúng lăn xả vào nhau như những con dế chọi say rượu. Thằng bé bỗng chụp được túm hoa roi trên đầu con bé ghì xuống: - Chừa chưa? Chừa chưa? Con bé gục đầu. Mớ tóc sổ tung vừa mềm vừa ấm ngan ngát mùi thơm của rễ hương bài. Thằng bé đứng ngẩn ra một giây và còn kịp thấy một cặp mắt uất ức tròn xoe, long lanh ngấn nước. không hiểu sao, hắn vội quay lưng chạy thẳng một mạch không hề ngó lại.
    Trận đánh nhau chỉ còn để lại trên đất những cánh hoa mua bị xéo nát tím bầm. Sau đó, bé Hạnh đi kiếm thằng bé để trả thù nhưng thằng bé tìm mọi cách tránh mặt. Lởn vởn trong đầu thằng bé một câu hỏi: “Sao bỗng dưng con bé lại khóc nhỉ?”
    Nhưng rồi sau này bé Hạnh cũng biết thằng bé chẳng phải con cái nhà ai xa lạ. Hắn tên là Lý Ngân, con trai độc nhất của tướng quân Lý Quán. Cha hắn ở dưới trướng của Thái Úy, và là em thúc bá Thái Sư Lý Đạo Thành. Mẹ hắn lại là em gái của Hoàng Hậu Thượng Dương.
    Từ thời thơ ấu, thằng bé đã sơm say mê nghề cung nỏ. Mỗi buổi sáng hắn đến nằm hàng giờ dưới khung cửi của bà cung nhân già dõi mắt theo đường thoi qua lại trên khung tơ. Ý chừng hắn muốn luyện mắt cho tinh tường để có thể bắn trúng chim trời đang sải cánh.
    Ừ, biết thế cứ hay thế. Rồi mọi việc cứ trôi đi. Trôi đi những năm tháng, những tuần trăng, những ngày con nước, những giờ khắc báo canh theo giọt nước đồng hồ trên lầu Chính Dương.
    Rồi có một ngày một buổi, một giờ nào đấy, linh cảm báo cho các cô gái biết sẽ xảy ra một điều trọng đại đáng mơ ước nhất trong đời mình. Ngày ấy, đến với Hạnh Hoa vào lúc nàng ở cung Kiến Hoa ra về chợt ghé lại khu đất trồng đào cạnh vườn Thượng Uyển. Trời nắng to, bóng cây rợp, đào đang mùa mọng trái.
    Cơn khát trong cổ họng cuống cuồng. Hạnh Hoa đứng dưới gốc cây nhìn lên cành đào sai quả, ước mơ bốc lên thành tiếng: “- Đào ơi, lúc này giá ngươi rụng xuống cho ta vài quả, chắc ta sẽ giữ hương vị ngươi suốt đời”.
    Bỗng có tiếng tên xé gió. Một quả đào rơi bịch xuống chỗ đất cao, lăn vài vòng rồi đến nằm im ngay trước chân nàng như xin ra mắt với cô gái đẹp. Hạnh Hoa chưa hết sững sờ thì đằng sau nàng đã bước đến một chàng trai võ sinh vai đeo cung, miệng cười tủm tỉm. Nàng nhìn lại thì hóa ra Lý Ngân. Đúng là thằng bé đã cùng nàng đánh nhau chí chết trên gò hoa mua hôm nào. Giờ đây đứng trước mặt nàng là một trang công tử, phong thái đĩnh đạc, sắc diện tươi tắn. Nhìn làn tên tiện đứt cuống đào, Hạnh Hoa biết lời đồn quả không ngoa. Tài bắn tên của chàng lâu nay đã nổi tiếng khắp nội đình.
    Giọng Lý Ngân cất lên nửa như cung kính nửa như đùa cợt:
    - Thưa cô nương, tiểu sinh thực lòng muốn mời cô nương nếm thử quả chín đầu mùa nhưng hiềm nỗi nơi đây không có mâm khay chi cả, xin cô nương miễn thứ cho.
    Hạnh Hoa đâm ra bối rối, e thẹn. Cảm giác lạ ấy hiếm họa đến với một người con gái ngang tàng như Hạnh Hoa. Lý Ngân nhặt quả đào lau sạch đưa ra định mời cô gái. Nhưng tay chàng khựng lại. Chàng vừa kịp nhận ra khuôn mặt cô bé năm xưa. Con bé để chỏm tóc hoa roi ngày ấy đã biến thành một nàng con gái xinh đẹp rực rỡ. Toàn bộ vẻ đẹp của nàng toát ra ở nét thanh tân trong trắng.
    Sau đấy, vườn đào uyển cũng trở thành nơi hò hẹn của đôi trai gái. Hễ nàng muốn ăn quả đào nào thì cứ chỉ tay lên cành đào là mũi tên chàng lại ghim đúng vào quả ấy rơi xuống đất. Cứ thế, nàng cầm cánh tên đưa đào vào môi.
    Nàng đã trao gửi cho chàng chẳng biết bao nhiêu lời, bao nhiêu chuyện nhưng lúc ra về, nàng đều quên sạch. Chỉ còn nhớ mỗi hương vị đào thơm ngào ngạt trong người…
    Bây giờ nhìn khay đào đặt trên bàn, Hạnh Hoa thích đứng ngắm hơn là muốn ăn ngay. Từ những quả đào to múp quá cỡ đỏ hồng tươi rói, tỏa ra chung quanh một vị mát tưởng chừng như nó có sức chặn đứng cái oi nồng đang bắt đầu len lỏi qua khung cửa nhỏ.
    Lâu lắm lão Vũ mới lên tiếng: - Không phải vườn nhà đâu. Đào xứ Đại Lý đấy. Cô Hạnh ăn đi.
    Thấy lời mời của mình không đắt, lão rút ra một vật dài nhọn, khẽ búng tay. Theo tay lão, một chiếc lông dím nửa trắng nửa đen bay ra cắm phập vào quả đào to nhất.
    - Làm thế này chắc đào sẽ ngon hơn. Nói xong lão lui bước về một góc nhà đứng khoanh tay, mí mắt sụp xuống như người ngái ngủ.
    Hạnh Hoa xúc động không nói nên lời. Lần đầu gặp Lý Ngân trong xưởng dệt, nàng thấy bà cung nhân già rút trên mái tóc xuống cũng một loại lông dím này để tách đôi những sợi tơ dính nhau trên khung cửi. Ký ức như chồng lên ký ức. Lão Vũ đã khéo đón ý cô chủ trong từng tiểu tiết tinh vi nhất.
    Hạnh Hoa cầm phần đầu chiếc lông dím màu trắng trong, đưa quả đào vào miệng. Nàng nhai ngấu nghiến và cảm thấy hương vị kỷ niệm xưa mát rượi đang ngấm vào từng kẽ chân răng. Hết quả này đến quả khác, nàng đang ăn ngon lành không biết được bao lâu. Bỗng nàng dừng nhai, mắt mở to kinh ngạc, miếng đào còn nguyên trong miệng. Nàng vừa bắt gặp một cặp mắt trẻ trung đang âu yếm nhìn nàng. Một cặp mắt sáng trong ngời ngợi yêu thương. Ánh mắt ấy lẩn tránh rất nhanh rồi vụt tắt. Tuy chỉ trong thoáng giây nhưng cũng đủ cho nàng nhận thấy vì lúc ấy lão Vũ đứng quay mặt ra phía cửa.
    Ngay sau đấy có lệnh Thái Úy gọi lão Vũ lên nhà. Hạnh Hoa mơ màng nhìn theo dáng đi lom khom của lão Vũ, lòng rộn lên trăm ý nghĩ nghi hoặc.
    Khi lão Vũ vừa lên hết bậc thang thì viên tì tướng đã đứng chờ ở đấy. Đợi cho lão Vũ về nhà, viên tì tướng liền quài tay ra sau đóng sập cửa lại. Lão Vũ gặp Thái Úy trong buồng riêng. Hình như Thái Úy đợi chờ đã lâu. Vừa thấy lão Vũ, nét mặt Thái Úy bỗng vui hẳn lên.
    - Vũ nhi! – Không hiểu sao Thái Úy thường gọi lão Vũ như vậy. Con đi lâu như vậy chắc có nhiều chuyện lạ.
    - Thưa Thái Úy… Lão Vũ đưa tay vào bọc định rút tờ trình ra.
    - Khoan, hãy gượm đã. Ta đang nóng lòng đợi nghe con nói. Thế nào, bênh tình của quan châu mục họ Hoàng đã đỡ chưa.
    - Dạ, quan châu Hoàng Kim Mãn vì ăn phải giống cá lạ nên bị phù gan. Con có bốc cho mấy chén thuốc, hiện nay sức khỏe đã bình phục…
    Khi lão Vũ kể đến đoạn châu mục Hoàng Kim Mãn phục phịch lê tấm thân béo tron ân cần đưa tiễn vị lương y đến tận cổng ngoài rồi xòe bàn tay múp míp ra cho ân nhân nhổ nước miếng vào đấy để mình khỏi quên ơn cứu tử, Thái Úy cất lên một tràng cười sảng khoái.
    Nhưng vốn biết Môn Châu chưa phải là đất quan tâm của Thái Úy, lão Vũ vội vàng kể tiếp:
    - Lúc con đến châu Quảng Nguyên thì tướng quân Lưu Kỷ đã kéo quân vào đất Qui Hóa của họ Nùng từ tháng trước.
    - Hay lắm! - Thái Úy vỗ tay xuống bàn tỏ vẻ hài lòng – Lưu Kỷ làm đúng ý ta.
    Ông đẩy chén nước lão mai ngát hương mật núi đến trước mặt lão Vũ: - Con uống đi cho ngọt giọng.
    Lão Vũ hiểu rằng họ Nùng xưa nay vẫn là mối lo âu của triều Lý. Nếu họ Hoàng ở phía tây cương giới thuộc Hữu Giang thì họ Nùng chiếm phía đông Tả Giang. Tả Giang và Hữu Giang là hai nguồn sông Tây Giang của Lưỡng Quảng.
    Đất Nùng tuy bên trên rừng núi âm u, ruộng đồng hiếm hoi nhưng bên dưới chứa cả một kho tài nguyên phong phú. Thiên nhiên đã giấu vào đấy những mỏ kim khí quí giá của mình. Chính nhờ vào các lò vàng trời sinh này mà Nùng Tôn Phúc, chúa động Tượng Cần đã mộ binh mua ngựa lập riêng một cõi giang sơn, nghênh ngang một thời ở vung Na Lữ. Lý Thái Tông phải năm lần bảy lượt cất quân đi hỏi tội. Dẹp yên Nùng Tôn Phúc thì đến lượt con là Nùng Trí Cao làm phản. Tuy vua Lý hết lòng phủ dụ, ban đất đai phong hàm Thái Bảo nhưng Nùng Trí Cao vẫn là cái gai chưa phải đã hoàn toàn hết nhọn đối với hai nhà Tống – Lý. Sau đấy ít lâu lại tiếp đến vụ Nùng Tôn Đán đem cả vợ con qui hàng nhà Tống mang theo một vùng đất Việt khá lớn nhập vào đất Tống. Bấy giờ, vua Tống lại sắp gia hàm cho Đán lên chức phó sứ.
    Việc Lưu Kỷ kéo quân vào đất Nùng không chỉ nhằm thu hồi đất đai, cảnh cáo bọn đào vong. Thâm ý của Thái Úy là cốt ném một hòn đá thăm đường dò xét thái độ vua Tống. Uống cạn chén nước lão mai, lão Vũ ngẩng đầu thong thả nói:
    - Thưa Thái Úy, quân Lưu Kỷ kéo vào đất Nùng đã lâu mà vua Tống vẫn làm ngơ không thấy họ dụng chi cả.
    - Lạ nhỉ! - Thái Úy gõ gõ ngón tay vào mép bàn như lắng nghe một câu đáp vọng về - Thế còn bọn thuyết khách của Tiêu Chú?
    - Dạ, không có ạ.
    - Con đã tra sát kỹ chưa?
    - Dạ các luồng tin đều nói đúng như thế ạ - Chẳng riêng ở Quảng Nguyên, ở Môn Châu, Tô Mậu và các vùng khê động khác đều không có bóng một tên thuyết khách nào của Tiêu Chú.
    Thái Úy xô ghế đứng lên, chắp tay sau lưng đi đi lại lại. Tấm ván sàn dưới chân ông kêu cọt kẹt trong gian buồng vắng lặng.
    - Tiêu Chú chịu nằm im ư? Thái Úy khe khẽ tự hỏi mình.
    - Dạ, thuyết khách thì không có nhưng thám tử của họ thì nhan nhản khắp nơi. Mọi sự tình trong nước ta, họ đều rõ tất tần tật.
    Thái Úy dừng lại nhìn lão Vũ: - Thế mà con cho Tiêu Chú chịu khoanh tay ngồi yên ở Quế Châu à?
    - Dạ, chính vì hiểu rõ nội tình nước ta nên Tiêu Chú ngồi im chờ đợi.
    Thái Úy bước lại trước mặt lão Vũ trầm giọng: - Vũ nhi! Hiện nay con là vị lang y thân tín của các châu mục và chúa động vùng cương giới. Họ tin con, con đi lại với họ thân tình như người nhà. Họ là phiên trấn, là phên giậu của ta. Giậu đổ thì bìm bìm mới leo được. Ta nay ở xa thì con là con mắt của ta treo trước cửa biên giới. Phải mở to mắt mà nhìn cho khắp. Không bỏ qua một động dụng nhỏ nào của phương Bắc. Rồi còn phải suy gẫm cho thật kỹ. Con biết đấy, vua Tống đã tăng thêm quân Lưỡng Quảng, cho Tiêu Chú về lại Quế Châu. Chẳng lẽ để Tiêu Chú ngồi chơi mát ở Quế Châu ư?
    Lão Vũ vẫn điềm đạm trả lời: - Dạ, con cũng đã nghĩ kỹ trước khi trình qua Thái Úy. Duyên do là vì cái bệnh hồ đồ của vua tôi nhà Tống ạ.
    - Hồ đồ à? Hồ đồ là thế nào?
    - Dạ, đầu đuôi là thế này ạ. Lúc Tiên Đế cùng Thái Úy đi đánh Đồ Bàn, vua Chiêm chạy thoát vào Nam. Tiên Đế sợ ở nhà một mình, Nguyên Phi không đảm đương nổi việc nước mới quay về…
    - Nhưng đến châu Cư Liên nghe tin Nguyên Phi trị nước yên dân, vua liền trở lại Đồ Bàn. Việc ấy ta đã biết.
    - Nhưng viên quan coi Quế Châu lúc ấy là Phan Bội lại không biết. Nghe tin đồn thất thiệt, ông ta vội tâu với vua Tống là nước ta đánh Chiêm bị thua trận, binh tướng hao hụt. Số quân không còn nổi một vạn. Có thể tính ngày đánh lấy được Giao Chỉ. Có vậy Tiêu Chú mới từ chối không chịu đi Hà Đông đánh quân Hạ mà lại hí hửng xin trở lại vùng Nam Lĩnh chắc mẩm phen này ngoạm được miếng công danh. Nào ngờ đến khi nhìn kỹ lại cảnh tình nước Đại Việt mới bổ chửng ra. Ông ta biết mình bị hố.
    Thái Úy phì cười: - À ra thế. Tiêu Chú bị hố!
    - Dạ, còn một tin của Từ Tiến Sĩ nữa.
    - Con có gặp Từ Bá Tường à?
    - Dạ, người của con đến châu Bạch gặp Từ Tiến Sĩ. Tiên sinh cho biết vừa đây có kẻ gửi thư cho Tiêu Chú xúi giục Tống đánh ta. Đại ý trong thư nói các môn hạ nhà Lý đang tranh giành quyền hành, còn vua bé chỉ biết ngồi khoanh tay rủ áo. Nhưng Tiêu Chú đã đốt bức thư ấy rồi.
    - Đốt thư! Tiêu Chú đốt thư! Hay lắm.
    Lão Vũ rút trong tay áo ra bức thư của Từ Bá Tường đưa cho Thái Úy.
    - À! Người viết thư cho Tiêu Chú tên là Vệ Uông. Vệ Uông là ai nhỉ? Con có biết lai lịch người này không?
    - Dạ, lần đầu con mới nghe cái tên ấy.
    Thái Úy gấp tờ thư lại. Mọi việc đã rõ ràng. Chỉ còn một điểm nghi hoặc. Thái Úy vụt hỏi:
    - Vậy con nghĩ thế nào về cái chết của con Xích Long?
    - Dạ con ngựa chiến quả bị thuốc độc của Tống giết chết. Nhưng kẻ chủ mưu không phải là Tiêu Chú. Hoặc giả có bàn tay nào muốn gieo hiềm khích chăng? Hay là… Dạ, thưa Thái Úy, điều gì con chưa rõ, con không dám nói nhiều.
    Thái Úy cúi xuống vỗ nhẹ vai lão Vũ: - Con rất hợp tính ta.
    Rồi ông đứng thẳng người, vươn vai khoan khoái. Niềm vui lộ rõ trên mặt. Có phải ông vui vì ông hài lòng về việc làm của lão Vũ hay vì việc quân không gấp, ông có thể ung dung về triều cùng Thái Phi bàn việc sắp xếp lại triều chính. Hay còn vì một lý do phụ mà ông giấu kín không nói cho ai hay là ông khỏi lo thất hứa với đứa con gái yêu.
    Trước khi lão Vũ lui ra, ông còn dặn: Vũ nhi, ngày mai ta ghé qua Thiên Đức, con dẫn bé Hạnh về và giữ nó ở nhà đừng để nó vào cung. Ta sẽ về ngay đấy.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:47 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 7

    Xa dần âm vang của sáu nhành sông xuôi đổ về Vạn Xuân, xa dần màu dâu xanh mượt mà trải mênh mông dọc bờ sông Thiên Đức.
    Khi vó ngựa sóng đôi rẽ vào dặm đường hòe, không ai bảo ai, Hạnh Hoa cùng lão Vũ cho ngựa lơi nước kiệu. Chặng đường này là chặng đường cuối mà cũng là chặng đường đẹp nhất trên thông lộ đi từ Thiên Đức đến cửa ngõ kinh thành. Hạnh Hoa đi sau bất chợt gọi giật giọng: - Lão Vũ! Lão Vũ! Lão Vũ quay lại mở mắt to ngạc nhiên. Hạnh Hoa đăm đăm nhìn sâu vào mặt lão. Vẫn đôi mắt mờ đục trên khuôn mặt bất động phẳng lì như sáp. Hạnh Hoa hoài công cố tìm lại cái thoáng mắt ngời ngời mà nàng bắt gặp trong buổi sáng hôm qua. Nàng đâm ra hoài nghi với chính mình, hết tin vào con mắt mình. Hay vì bóng nắng chói chang của trời hạ? Hay vì lúc ấy tâm thần mình mải gởi vào bóng dáng người thương nên gợi ra ảo ảnh?
    - Lão Vũ – nàng cố nặn ra câu hỏi bâng quơ, mắt nhìn vào những cây hòe rợp bóng ở hai bên đường – Trong đời lão… ta không biết lão đã gặp một người con gái nào chưa, một người con gái mà mình…
    Lão Vũ cười khục khặc như cố ghìm tiếng cười vào họng:
    - Ôi, con gái! Con gái đối với lão như trái đỏ trên nhành cao, lão có tài thiện xạ đâu mà bắn trúng.
    Câu nói khá thú vị khiến Hạnh Hoa bật cười: - Ta như lão, ta cứ lấy đá mà chọi.
    - Lão không muốn làm sây sát quả đẹp. Vả lại…
    Nhịp vó ngựa của lão như lơi dần rồi gióng một theo từng lời lão nói.
    - Cô đã có lòng hỏi đến, lão cũng chẳng dám giấu cô. Đã lâu lắm rồi, không biết đã chồng chất bao nhiêu năm tháng. Lúc đó lão còn trẻ. Có một cô gái láng giềng, nhà ở cạnh nhau và cùng đi chung một cổng. Ngày ngày ra vào nhìn nhau. Không, đúng hơn là mình nhìn chứ người ta thỉnh thoảng mới ngoái lại.
    - Cô ấy đẹp không?
    - Nói đẹp thì nó vô cùng. Nhưng, lúc ấy lão nghĩ giá lão là chim chóc trên trời mà nhìn thấy làn da trên má cô ấy thì cũng phải tưởng nhầm là trái chín ắt phải sà xuống.
    - Thế rồi hai người thương nhau?
    - Không, về cái khoảng đường này là số lão bao giờ cũng đi sau người khác. Cho đến cái hôm sau một chuyến đi xa về, lão mới hay nhà bên đã có đám ăn hỏi. Lạ một điều là lúc ấy lòng lão vẫn dửng dưng. Rồi đám cưới, rồi rước dâu, bóng người con gái ra đi mất biệt. Chiều đến, lão nhìn ra con đường vắng bỗng dưng lần đầu lão thấy mớ hoa lồng đèn đỏ chói mọc ở trước cổng mới trơ trẽn làm sao. Còn hoa xoan thì cứ tối sầm lại như màu khói hương. Lúc ấy, chính lúc ấy lão mới biết mình đã thấm tình với người ta như người nhuốm bệnh lâu ngày mà không hề hay biết.
    - Thế sau rồi lão có gặp lại cô gái ấy không?
    - Có chứ.
    - Chắc lão phải hối tiếc buồn rầu lắm nhỉ?
    - Lão lại không buồn mới lạ chứ. Lão thấy cặp lứa đôi ấy sống với nhau rất tâm đầu ý hợp, đầm ấm yên vui. Lão nghĩ nếu người ta về với mình chắc gì được sống sung sướng như vậy.
    - Không buồn chắc lão vui đấy nhỉ?
    - Đúng là lão vui. Song cái vui ấy nó khác thói thường, không bồng bột mà thanh thao, lắng đọng tuy cũng có vương một chút buồn. Chà! Giá mà cô biết được niềm vui ấy, niềm vui khi thấy người mình thương được sống thung thăng như con cá lội…
    - Ta thì ta không thể nào vui được. Ta sẽ buồn đến chết thôi. Mà này, cô ấy có hay biết gì về việc lão thương cô ấy không?
    - Lão cũng không biết nữa – Lão Vũ đáp sau một lúc trầm ngâm – Lão chỉ biết lão đã gặp được người mình thương. Điều đó đối với lão đã là một sự hữu hạnh lắm rồi không dễ dàng gì mà có được.
    - Ôi! Chả trách mà đời lão cứ phải sống côi cút âm thầm như cái bóng – giọng Hạnh Hoa đượm vẻ thương cảm.
    -Riêng lão nghĩ như thế mà lại hay. Được thỏa thuê chưa chắc đã vui sướng. Cũng như gặp rượu ngon mà uống cho bằng thích, cho bí tỉ thì còn giữ làm sao được cái dư vị nồng hương phảng phất mãi không thôi.
    Hạnh Hoa bỗng cười thành tiếng: - Thôi, thôi, lão có chống chế cho mấy đi nữa thì sự việc nó cũng sờ sờ ra đó. Chẳng qua là về đường nhân duyên, lão chẳng gặp may.
    Lão Vũ lặng im lơ đãng nhìn chấm mây ở tít cuối chân trời tây như hòn đảo nhỏ trơ trọi, lâu lắm lão mới lầm bầm như để cho mình nghe: “- Biết đâu trong rủi có may, trong họa có phúc. Con đường họa phúc trên đời ai mà lường trước được”. Rồi lão nín bặt câm thít dường như lão đang tự hỏi sao hôm nay bỗng dưng lão lại lắm lời đến thế.
    Hạnh Hoa đang đi bỗng nhiên ghìm cương đột ngột. Mắt nàng vừa thấy tim nàng đập rộn. Xa xa ở khúc quanh của dặm đường hòe, một kiệu son đặt ở vệ đường. Thấp thoáng bóng những tên phu kiệu cấm binh xúm xít ngôi nghỉ chân quanh kiệu. Và điều làm nàng hồi hộp nhất là bóng ai như bóng chàng đang tế ngựa như bay về phía nàng. Hạnh Hoa chưa hết sững sơ thì bờm con ngựa bạch của công tử Lý Ngân đã đến sát bên gần như cọ mõm vào ngựa nàng. Coi như từ dạo màu cánh đào đỏ rực rụng xuống lót đường cho tháng giêng qua đến sắc vàng mịn màng mỏng như cánh bướm đang phất phưởng trên đường hòe, hai người chưa có một lần gặp mặt. Bây giờ trông thấy, bốn mắt nhìn như dính vào nhau không sao rời ra được. Đến lúc nghe tiếng chào của lão Vũ, Lý Ngân mới sực tỉnh, mặt đỏ bừng vì ngượng, luống cuống đáp lễ:
    - Lão Vũ đấy ư? Lão có được khỏe không?
    - Tạ ơn công tử, lão cũng như con ngựa còm của lão, gia roi còn chạy được.
    Lý Ngân nhảy xuống, buộc ngựa vào gốc hòe cạnh lão Vũ.
    - Sao lâu nay ta không thấy lão đến ta?
    - Dạ, lão bận về quê có chút việc nhà.
    - Chết nỗi, ta với tiểu thư bao lần định rủ nhau đi thăm quê lão, ấy thế mà rồi năm tháng cứ lần lữa đến bây giờ ta cũng không rõ nhà lão ở phương trời nào.
    - Đa tạ công tử và tiểu thư có lòng chiếu cố - Lão Vũ vừa thì thầm, vừa kín đáo đưa mắt cho Lý Ngân ngầm bảo chàng hãy mau đi lại với cô chủ nhà lão, cô chủ đang sốt ruột đấy. Lý Ngân quay lại thì quả thấy Hạnh Hoa đang đứng đợi chàng bên gốc hòe.
    Cặp gái trai quay lưng, cùng sánh vai bước xuống đầm sen. Cả hai bỗng cảm thấy như cùng được bao che trong cái nhìn ấm áp của lão Vũ đang đứng trên đường nhìn theo, một cái nhìn vừa trìu mến bao dung vừa hân hoan thỏa nguyện.
    Ôi! Xa nhau họ chất chứa trong lòng bao nhiêu điều muốn nói. Thế mà họ cứ lúng túng như gà vướng tóc. Có lẽ họ đã tích tụ cơ man nào là chuyện, nó bề bộn quá chưa biết bắt đầu bằng chuyện nào đây. Mà cũng có thể sự xúc động trong phút gặp gỡ đột ngột vừa qua đã làm họ quên sạch. Họ quên cả sen trong đầm đang mùa nở rộ mà cũng vì họ mà khoe sắc tỏa hương. Họ lặng im đi bên nhau, chẳng ai nói với ai một lời. Mãi đến khi họ dừng chân lại bên gốc sung mọc trước miếu thổ thần, Lý Ngân mới lên tiếng trước:
    -Suốt mấy ngày nay ta đi tìm nàng ở vườn đào Uyển Cung mà không thấy.
    Hạnh Hoa xoay xoay cái roi ngựa trong tay: - Tìm thật đấy à?
    Biết tính người yêu hễ mỗi lần gặp nhau là bắt đầu bằng một câu trách móc, Lý Ngân cố lấy giọng dịu ngọt: - Sao Hoa muội lại nói thế? Tiểu huynh nếu không vì cái tang cha đè nặng trên đầu… Lý Ngân nói đúng. Có lẽ họ đã vừa duyên đẹp phận từ lâu rồi nếu không vì cái chết của cha chàng. Tướng quân Lý Quán, bố của Lý Ngân bị tử trận cách đây ba năm ở Đồ Bàn khi chặn giặc rút lui trong cuộc chinh phạt Chiêm Thành của vua Lý Thánh Tông năm Kỷ Dậu.
    -Thế bây giờ đã mãn tang thì chàng sẽ lo liệu thế nào hay còn muốn trùng trình vì sợ bề trên.
    -Ôi! Sao nàng lại đi trách ta?
    Hạnh Hoa vụt đập mạnh cái roi ngựa xuống mặt đầm sen, làn nước bắn tung tóe. Một hạt nước nhỏ rơi vào lá sen trăn trở hồi lâu rồi đọng long lanh như giọt nước mắt.
    -Chả trách ai cả - giọng Hạnh Hoa rầu rầu – Chỉ biết trách mình thôi – Trách mình sinh ra không đẹp nết để được lòng bên ông bác bà dì của chàng.
    Hạnh Hoa muốn nói đến Thái Sư Lý Đạo Thành và Hoàng Hậu Thượng Dương. Đối với cuộc nhân duyên của hai trẻ, thái độ của Thái Sư không rõ ràng, không tỏ ra ưng thuận hay không ưng thuận. Riêng tiếng đồn về cái nết ngang bướng của Hạnh Hoa cũng đủ làm ông khó chịu. Còn Hoàng Hậu Thượng Dương thì tỏ vẻ không ưa nàng ra mặt. Không phải vì nàng là con gái của Thái Úy mà chính vì nàng là người thân cận của Thái Phi Ỷ Lan. Bên nhà trai đã vậy còn phía nhà gái thì lại quá vồ vập. Bởi lẽ Thái Úy nuông chiều Hạnh Hoa. Tính ông lại hay mến chuộng những tài năng trẻ. Con mắt xanh của vị nguyên nhung đã thấy trước trong Lý Ngân một dũng tướng tài ba sau này sẽ phù tá ông bên trướng. Vì vậy Thái Úy đã sớm đặt Lý Ngân vào vòng thân thuộc của gia đình. Lý Ngân biết rõ điều đó nên Hạnh Hoa có phụng phịu đối với chàng một tí cũng không sao. Chàng ôn tồn bảo:
    -Hạnh Hoa, nàng đã nhầm rồi. Di mẫu ta bây giờ đã khác trước. Hôm kia bà còn ân cần hỏi ta về nàng rồi trách ta sao không dẫn nàng đến gặp bà.
    -Ai dám gặp bà? Cứ nghĩ đến tính xét nét hoạnh họe của bà, người ta cũng đủ chết khiếp.
    -Nàng nói thế không khỏi có phần thiên vị đấy. Khắp nội đình còn ai không biết tính tình dịu hiền của dì mẫu. Cả đời bà có biết quát ai một tiếng to đâu. Bà thương yêu ta còn hơn con đẻ. Bà còn mong sao cho cuộc nhân duyên của chúng mình mau chóng được êm đẹp.
    Hạnh Hoa biết Lý Ngân nói có phần nào đúng. Hoàng Hậu Thượng Dương là người đàn bà đã một thời nức tiếng cung đình về nhan sắc cũng như về đức hạnh đoan trang thùy mị. Ở bà, từ những đường nét cực kỳ thanh tú đến sắc đẹp quý phái siêu thoát đều toát ra bên ngoài một vẻ dịu hiền gần như bẩm sinh. Một nỗi u buồn thầm kín không duyên cớ luôn luôn phảng phất trên khuôn mặt bà. Sắc đẹp và vẻ người ấy đã khiến những ai lần đầu đứng trước bà đều cảm thấy mỗi cử chỉ dù là trang nhã nhất của mình cũng trở nên vụng về thô lỗ. Nhưng giữa đàn bà hình như họ dễ dàng trực cảm được những gì gai ngạnh bí ẩn của nhau. Mặc dù ít tiếp xúc với bà, Hạnh Hoa cũng cảm thấy bên trong vẻ hiền hậu lộ liễu ấy có giấu kín một cái gì độc ác tiết ra từ thói vị kỷ quá quắt gần như mù quáng của bà. Nhưng làm sao nàng nói cho Lý Ngân hiểu được. Làm sao chàng thấy được chất độc ẩn giấu trong một lá trúc đào.
    -Chàng nói thế hẳn biết thế. – Nàng uể oải đáp – chứ đã biết lấy gì làm tin được
    Lý Ngân vụt đưa tay chỉ về phía đường cái nơi màu đỏ tươi của cỗ kiệu son lấp lóa qua hàng hòe thẳng đuột: - Đấy! Nàng làm nãy giờ ta quên khuấy chưa kịp báo cho nàng biết một tin mừng. Dì mẫu trân trọng bảo ta đem kiệu đi rước ai, nàng có biết không? Rước Thái Úy đấy – Bà có nhiều việc cần hỏi ý kiến Thái Úy – Nàng xem, bà trọng vọng Thái Úy như thế nào. Bà bảo rằng lâu nay bà không để tâm đến việc triều chính nay ngồi ở ngôi nhiếp chính vương, bà mới biết quí một bậc túc thần như Thái Úy… rằng mọi tị hiềm cần cởi mở chứ không nên kết buộc. Chàng còn nói nhiều, nhiều nữa. Nhưng Hạnh Hoa đã hết nghe. Nàng mải chăm chú nhìn vào gương mặt chàng như nhìn vào một mảng trời xanh trong suốt mà chỉ một thoáng gợn mây cũng không qua được mắt nàng. Nhưng rồi vẻ hăm hở chân tình lẫn một chút cả tin của chàng dần dà làm nàng nguôi ngoai mọi nỗi niềm và trong lòng nàng bỗng le lói một niềm hy vọng mới. Cuối cùng nàng bảo: - Chẳng qua đó là những chuyện ở bên ngoài. Cái chính là ở chúng mình, ở tình chàng có giữ được chung thủy hay không
    - Trời ơi! Nàng còn nghi ngờ cả lòng ta nữa ư?
    Chàng bước nhanh ra giữa sân, nhìn vào cái điểm tranh tối tranh sáng ở sâu trong ngôi miếu, cất cao giọng:
    - Giữa thanh thiên bạch nhật, trước thần linh chứng giám ta xin thề…
    Hạnh Hoa đã kịp đến bên kéo tay chàng: - Thôi, thôi! Chàng đừng thề nữa. Thiếp tin chàng rồi.
    Giọng nàng hơi khản vì xúc động và những giọt lệ sung sướng giàn giụa trong mắt.
    ồi tiếp đến là những lời tình tự muôn thủa của những cặp trai gái yêu nhau. Những lời mà vừa thốt ra họ đã không biết mình nói gì. Những lời đối với người nước ngoài thì ngây ngô vô nghĩa nhưng với họ lại đượm đà ý nhị ngát hương. Và thời gian của họ cũng trôi đi một cách khác. Như thể con suối nhỏ chảy giữa rừng già rợp bóng âm u, trông lặng lờ mà trôi đi lúc nào không ai hay biết. Khi bóng nắng gay gắt chiếu xế vào chỗ họ ngồi, Lý Ngân mới sực nhớ nhìn lên thì trời đã ngả xế. Họ lại đủng đỉnh sánh vai bước ra đường lộ. Lão Vũ vẫn ngồi im bất động dưới bóng hòe.
    Hạnh Hoa đứng nhìn theo bóng Lý Ngân cùng chiếc kiệu son khuất hẳn sau làn mây mỏng cong như một đường mi ở cuối chân trời, rồi mới thẫn thờ lên yên. Dù sao Hạnh Hoa vẫn cảm thấy nỗi xa nhau chưa kịp trút đầy mắt nhớ mà vội vàng ly biệt. Con đường về kinh thành bỗng trở nên xa ngái, dặm hòe mang mang…
    Giữa lúc Lý Ngân trên đường đến Thiên Đức thì Thái Úy đang quì trước bàn thờ trong lăng Tiên Đế. Ông chăm chú nhìn làn khói hương cuộn vòng, lầm rầm khấn vái. Hay đúng hơn, ông đang bộc bạch cùng người đã khuất mọi niềm riêng canh cánh. Ngoài kia, trưa hè đứng lặng nồng nàn. Hình như Thái Úy đang đặt một lời thỉnh cầu trang nghiêm quyết liệt. Tiếng con ve rừng ở đâu đó bỗng cất lên nghèn ngẹt sin sít làm át giọng của Thái Úy rồi đột nhiên ngừng bặt, trả lại cái thinh không vang vang của trời hè. Tiếng khấn của Thái Úy lại nghe rõ mồn một: - “…hồn Tiên Đế có linh thiêng xin chứng giám cho hạ thần. Hạ thần xin hiến chuỗi ngày tàn còn lại bồi đắp ước vọng ngày nào của Tiên Đế, làm sao cho nước nhà mau chóng mở mày mở mặt với lân bang, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của phương Bắc… Thần nguyện gác bỏ thân mình ra ngoài, dẹp mọi trắc ẩn bên lòng, coi việc tôn xã giang sơn làm trọng…”
    Nén hương nghi ngút khói bỗng bốc ngọn cháy rực lên. Một ngọn gió mồ côi từ phía trời xanh bàng bạc đưa lại. Ngọn gió như người bộ hành qua một quãng đường dài đến đây đuối hơi chỉ còn sức phe phẩy qua khung cửa lớn. Thái Úy nhìn vào ngọn lửa linh ứng trên bát hương, cúi lạy ba lạy, hớn hở bước ra ngoài.
    Bóng mận sâm si tròn như chiếc lọng che đã ngả dài trước thềm dãy tịnh xá. Gia nhân đang lo sửa soạn bữa cơm chiều.
    Khi ông bước vào khách sảnh thì Lý Ngân cũng vừa đến. Chàng cung kính vái chào Thái Úy rồi trình tờ thư của Thái Hậu Thượng Dương.
    - Thái Hậu mờ ta về dự triều hội các vương hầu.
    Lại phái cháu mang kiệu son đón rước. Ôi! Cảm tạ tấm lòng Thái Hậu đối với ta ân cần quá mức, chu đáo quá mức – Ông cất lên một tràng cười dài – Cháu thấy thế nào?
    - Dạ, cháu thấy là điều đáng mừng cho cháu và Hạnh Hoa. Lý Ngân đáp ngay không một chút do dự. Câu trả lời chất phác bộc trực rất chân tình của chàng làm cho Thái Úy ngẩn người giây lâu.
    - Cháu có biết con ngựa Xích Long của ta bị bệnh thời khí đã chết trên Lạng Giang rồi chứ?
    - Ối! Thế à! – Lý Ngân kêu lên một tiếng kinh ngạc đứng ngẩn người, niềm thương dồn dập như làn gió làm xao xuyến nét mặt đang tươi vui của chàng.
    - Vì vậy việc Thái Hậu cho lão phu đi kiệu về hầu đức bà thật là đúng lúc.
    Lý Ngân hầu như không nghe rõ Thái Úy nói gì. Trên mặt chàng còn chưa hết vẻ bàng hoàng ngẩn ngơ về cái chết của con chiến mã, con ngựa mà chàng biết Thái Úy yêu quý như một vật gia bảo. Vẻ mặt thành thật ấy làm Thái Úy cảm động, khiến cặp mắt ông đang chăm chú vào chàng vội quay đi, nhìn hướng khác.
    - Thôi được, cháy hãy về tâu lại với Mẫu Hậu rằng ta xin vạn tạ ơn trên. Nội nhật ngày mai ta sẽ lên kiệu lai kinh và muộn nhất trong chiều mai ta sẽ vào cung hầu chỉ.
    - Dạ, cháu cũng xin phép về ngay để phục mệnh Thái Hậu.
    Lý Ngân hân hoan vái tạ Thái Úy rồi lui ra. Thái Úy nhìn theo người con rể tương lai của mình, buông một tiếng thở dài, trên gương mặt ông thoáng hiện một vẻ u trầm khó hiểu.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:51 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 8


    Lang tướng Nguyễn Căn dừng cương trước cổng nhà. Chàng đang vâng lệnh tướng quân chiêu thảo sứ Lý Kế Nguyên đi thị sát các chiến thuyền trên sông Bạch Đằng thì bỗng được tin cha gọi về khẩn cấp. Chàng không biết có chuyện gì. Tuy nóng lòng gặp mặt cha, chàng không thể dừng lại đứng ngắm tòa dinh cơ uy nghiêm bề thế, bốn bề cổng kín tường cao của dòng họ chàng. Chàng bồi hồi nhớ lại những buổi chơi đêm về khuya đợi cổng đến hàng giờ. Thời ấy chàng còn là một trang thiếu niên công tử hào hoa, phong nhã vào bậc nhất ở kinh thành. Và suýt chàng đã trở thành phò mã…
    Chàng bước đến, trở đầu roi ngựa nện chan chát vào hai cánh cổng lim đóng im ỉm. Hồi lâu mới có tiếng bước chân rón rén ở bên trong, rồi một con mắt dò xét nhòm qua khe hở tiếp theo một tiếng kêu mừng rỡ của người gia nhân già: - Công tử về rồi! cổng vừa mở, chàng đã hỏi nhanh: Cha ta có nhà không?
    - Dạ, cụ ông có ở nhà ạ.
    Chàng trao cương cho lão gia nhân dắt ngựa vào tàu rồi đưa mắt nhìn quanh. Mái ngói lợp vẩy cá võng xuống cong lên chót vót làm ngôi nhà chính thêm phần cao lớn uy nghi. Hàng rào lưỡi long nằm phục dài theo dãy tường ngoài thè ra những lưỡi gai tua tủa. Tất cả đều ổn đinh, bình an, thân thuộc. Bước về nhà, chàng cảm thấy mọi lo âu phiền toái ở ngoài đời như đều trút lại đằng sau lưng.
    Lòng thư thái, chàng thả bước trên con đường lát sỏi rợp bóng cây lần theo dãy hành lang mé đông phòng rồi đi thẳng vào hậu dinh.
    Quan Thái Bảo Nguyễn Châu đang ngồi trầm ngâm trước chén trà đã nguội. Tuy đang mùa oi bức, các rèm cửa nặng nề chung quanh vẫn không được cuốn lên, bên trong còn buông thêm một lần sa mỏng. Những hơi nồng lửa hạ vì thế mà bị chặn đứng bên ngoài. Khí lạnh ẩm ướt lâu năm từ lòng đất sâu tỏa ra mát lạnh. Bốn cụm đèn lồng phất lụa kín đáo đặt ở các góc nhà xua tan bóng tối lờ mờ và hơi ấm la đà quyện trên mặt sàn gỗ. Nơi đây là căn phòng mật của quan Thái Bảo. Không một ai dám bén mảng đến kể cả thê thiếp trong nhà.
    Quan Thái Bảo ngồi như thế đã lâu, chốc chốc lại lơ đãng đưa tay di chén nước sang một bên như đẩy một quân cờ. Cho đến lúc Nguyễn Căn đánh tiếng ở bên ngoài ông mới chợt ngẩng mặt lên vội vã đi ra kéo tay con vào ngồi trên sập.
    Từ lúc Nguyễn Căn rời nhà đi Vạn Xuân lần này chàng mới vào lại gian phòng kín của bố. Tất cả vẫn nguyên như trước. Vẫn cái án thư đồ sộ sơn son thiếp vàng với thỏi mực xạ hương to tướng nằm trên chiếc nghiên sọ ngựa. Vẫn những ngọn đèn lồng trong suốt bốn bề. Nếu đưa tay kéo bức tường gấm dày ở đằng cuối gian, sẽ thấy cái giường chân quì với bức màn the diềm kim tuyến. Có điều là trên cái kỷ dài bây giờ kê sâu vào góc tường ngoài các tứ sâm nhung quế phụ thông thường có để thêm hàng chục lọ sứ men ngọc xanh đựng các vị thuốc quí. Chàng cảm thấy như tuổi bố scangf cao thì đội ngũ các lọ thuốc bổ này ngày càng đông đảo thêm lên. Chàng biết các vị thuốc ấy được đưa từ nước ngoài theo lối cổng sau vào nhà bố. Nhưng có điều chàng không biết hoặc không dám biết là lọ thuốc càng tăng thì số hầu non của bố cũng vào lối cổng sau tăng theo, dãy tây phòng cứ dài ra mãi.
    Thấy Nguyễn Căn chăm chú nhìn vào các lọ thuốc, Thái Bảo đứng dậy dẹp khay trà, cầm nậm ngọc đi lại bên chiếc kỷ. Ông nhấc một lọ lên ngắm nghía rồi tặc lưỡi để xuống. Con trai ông đang độ thanh xuân cường tráng chưa phải tuổi dùng loại rượu này. Ông chọn một lọ khác nhấc lên. Nguyễn Căn liếc xéo mắt thấy trên tờ hồng đơn dán ở ngang bụng lọ ba chữ: “Bách hoa tửu”. Chiết rượu xong ông nghiêng nậm ngọc rót dần vào cốc. Vừa nhấp vào mồm, Nguyễn Căn đã cảm thấy hơi men nóng sực chạy lồng trong bảy khiếu, cánh mũi chàng phập phồng ngào ngạt hương thơm.
    Xong tuần rượu, Thái Bảo nhìn con chậm rãi hỏi:
    - Con đã gặp hai thái tử Hoàng Chân và Chiêu Văn chưa?
    - Dạ, con đã gặp rồi ạ!
    - Đã nói được chuyện gì chưa hả?
    Nguyễn Căn đỏ mặt vì rượu hay vì ngượng, cúi đầu nói khẽ:
    - Con chưa dám thổ lộ gì cả.
    - Nước đã đến chân mà con cứ chần chừ. Phải lựa lời mà nói cho hai thái tử hiểu rõ hiểm họa đang treo lơ lửng trên đầu dòng họ Lý.
    - Dạ, con mấy lần chực mở miệng sao cứ ấp a ấp úng. Con tiếc là con chưa theo được cái tài của bố.
    - Tài giỏi gì. Chẳng qua là cậu chưa biết nhục!
    - Dạ, thưa bố, nhục gì ạ!
    - Đến bây giờ mà cậu còn mở miệng hỏi bố à? Trời ơi! Họ đã bày mưu chia uyên rẽ thúy phá đám một cuộc nhân duyên tốt lành nhất của dòng họ ta. Trơ trẽn đến thế mà con không biết nhục ư?
    À ra bố chàng nhắc lại chức phò mã hụt của chàng. Chuyện ấy chàng đã quên khuấy từ lâu mà mối tình chàng đối với công chúa Thiên Thành cũng đã phai nhạt ngay từ dạo nọ. Không phải chàng không muốn trả đũa, nhưng mỗi khi chợt nghĩ đến cái thần thái uy nghi của Thái Úy, ý định kia lại tiêu tan.
    - Thưa bố, mối nhục kia con đâu dám quên – chàng đành lựa lời nói cho vừa lòng bố - Nhưng thế lực của họ mạnh lắm.
    - Ai không biết họ đang nắm cả ba quân trong tay nhưng thời thế đã xoay đổi rồi. Dây cương chính sự đã lọt vào tay Thái Hậu và quan Tể Chấp – Biết rõ tính con mình hay nhu nhược, chìm nổi theo đời, không có quyết đoán, ông nói tiếp gằn giọng từng tiếng một “- Hay nếu cậu nhát gan ngoảnh mặt làm lơ mối nhục này thì hãy để bố cậu nhận thay mà rửa nhục hộ cho cậu”.
    Thử tưởng tượng giá Thái Úy Lý Thường Kiệt có mặt ở đây mà nghe được câu này thì ông sẽ kinh ngạc sững sờ đến đâu. Bởi lẽ ngày đó Thái Bảo đã rót vào tai Thái Úy với thái độ vô cùng hòa nhã: - Thôi Thái Úy ạ, ý muốn của Thánh Thượng là ý trời, xin Thái Úy đừng lấy làm điều. Thằng con của lão phu ăn chơi phóng đãng không cân đôi xứng lứa với công chúa đâu. Và Thái Úy đã tin lời nói ấy. Mà Thái Úy tin là có sở cứ. Quan Thái Bảo vốn được tiếng là người biết điều, tính tình điềm đạm không hay mua thù chuốc oán cùng ai. Hơn nữa mỗi khi giữa các vị đại thần có xảy ra điều bất hòa thì y như ông đứng ra làm người trung gian hòa giải. Ông bỏ công đi lại nhỏ to dàn xếp và chẳng ai hiểu vì sao kết quả dẫn đến mối hiềm thù giữa họ càng sâu sắc thêm lên. Song có điều đáng ngạc nhiên là không ai có chút mảy may nghi ngờ đức độ của ông và cả hai bên đều hài lòng về ông vì họ cảm thấy như ông đứng về phía họ. Thuật đối nhân xử thế thần tình của ông quả đã đạt đến mức khôn khéo tinh vi huyền ảo. Có lẽ ngoài quỷ thần không một ai thấy nổi ngón trò xui nguyên giục bị, ném đá giấu tay cực kỳ kín nhẹm của ông. Bởi vậy, khi ông nói sẽ ra tay rửa nhục cho con, chính ông tự thấy đó là điều không thực. Với tài kín đáo mượn tay kẻ khác, ông đâu cần phải nhấc tay. Không hiểu rõ điều ấy, lang tướng Nguyễn Căn chắp tay ngập ngừng lo lắng hỏi bố:
    - Thế bố bảo con phải làm thế nào?
    - Con chỉ có mỗi việc ngồi trên thuyền cầm tín bài đưa người ta ra khỏi cửa sông Bạch Đằng.
    Ôi! Công việc dễ dàng quá, có gì nguy hiểm đâu. Nguyễn Căn thấy nhẹ cả người.
    - Bố bảo thế nào con xin làm đúng thế. Nhưng người ấy là ai vậy bố?
    - Người ấy con chưa cần biết. Chỉ biết ông khách cùng ngồi thuyền với con cũng chẳng lạ lẫm gì. Ông ta hiện đang có mặt ở đây.
    Nói xong, Thái Bảo đứng lên dắt tay con ra phía nhà ngoài.
    Ngôi dinh thự của quan Thái Bảo chia ra thành hai phần riêng biệt dường như có hai bộ mặt khác nhau. Phía trong thì cực kỳ kiêu sa hoa lệ. Trái lại, ở sảnh ngoài vẫn giữ nguyên vẻ thanh bạch nho nhã tự ngày nào.
    Khách đang đứng dưới bức nghi môn vóc đỏ. Vừa trông thấy bóng dáng đồ sộ của khách, Nguyễn Căn đã chạy ù lại, reo lên: - Ối trời ơi! Tưởng ai lạ, hòa ra Đỗ đại nhân.
    Ông khách cũng niềm nở đáp lại, vẻ mặt hân hoan không kém: - Ồ! Công tử lâu ngày cách mặt, tiểu huynh nhớ công tử quá.
    Không cần nói cũng biết đấy là đôi bạn chí thân. Cách cư xử có phần suồng sã của họ tỏ ra họ đã cùng nhau trải qua nhiều trận vui bù khú.
    Câu chuyện gặp gỡ của vị khách này với cha con Thái Bảo kể ra cũng khá dài dòng. Năm ấy, năm Chương Thánh thứ hai đời vua Lý Thánh Tông, trời làm bão lụt, mùa màng mất trắng. Dân ở hai bên triền sông lớn bỏ quê đi làm ăn thất tán nơi xa, quên mất cả đường về. Vua xuống chỉ sai Nguyễn Châu lúc này còn ở chức quan khu mật đi chiêu hồi quân tha phương trở về quê quán cũ làm ăn. Công việc thật vô vàn khó khăn phức tạp. Nguyễn Châu phải để nhiều tâm trí mới nghĩ ra cách cắm thẻ chỉ đường. Nhưng giữa thời buổi đói kém, hạt gạo to hơn hạt châu, biết đào đâu ra số người cần thiết đi làm việc ấy. Nguyễn Châu vò đầu nặn óc, râu tóc mọc dài ra mà thời hạn trên giao càng ngắn cụt dần. Cuối cùng ông đành bó gối khoanh tay cúi đầu thở dài sườn sượt. Vị quí nhân phù trợ nằm trong lá số tử vi của ông đã bỏ ông đi chơi xa rồi. Nhưng có một đêm, vị công tử chơi bời phóng đãng của ông bỗng dắt về nhà một người khách lạ. Người con trai thì thầm vào tai bố: - Bạn tâm phúc của con đấy. Có thể giúp bố con mình được nhiều việc!
    Theo lời của Nguyễn Căn, ông được biết người này là một khách thương lớn họ Đỗ, người đất Hải Đông hiện ở cửa khẩu Vân Đồn. Ông thường đi lại buôn bán ở các chợ quốc tế nằm dọc trên đường biên giới giữa hai nước Tống – Việt mà người thời bấy giờ gọi dưới cái tên Bạc dịch trường. Còn ở trong nước, ông ta có thương điếm đặt rải rác khắp các lộ. Vị khách thương này giàu nứt đố đổ vách nhưng lại có tấm lòng hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài. Ngay từ phút đầu Nguyễn Châu đã tự nhủ rằng đây là vị quý nhân mà số phận đã đưa đến để độ mình qua bước đường vận nạn. Con người giàu có mà hơn người ấy sẽ sẵn lòng bỏ tiền ra chiêu mộ đám người giang hồ lưu lãng đầu trộm đuôi cướp mà ông đã từng thuê mướn để hộ tống hàng hóa trong các chuyến buôn xa. Ông ta cả quyết rằng chỉ trong vòng dăm ba hôm là ông có đủ số nhân công cần thiết cho việc quan. Quan khu mật Nguyễn Châu như uống từng lời của vị cứu tinh quí hóa ấy, nghe đến đâu mắt sáng đến đó, ruột gan nở ra từng khúc. Và thế là đoàn người lưu lãng do vị khách thương họ Đỗ tập hợp được, quan khu mật phân đi về các địa phương đắp ụ dựng thẻ gỗ có đề tên đất lên trên để làm mốc nhận đường cho kẻ tha phương lưu lạc. Công việc trôi chảy, kết quả mỹ mãn. Ngày vào sân rồng phúc chỉ, ông được thánh thượng ban khen.
    Từ ngày ấy cuốn lịch đời ông phất qua một trang mới. Ba tiếng “Đỗ đại nhân” khai sinh từ cửa mồm ông được gia nhân nhắc đến một cách kính cẩn. Qua tài xoay xở của Đỗ đại nhân, của cải từ đâu kín đảo chảy vào cổng sau nhà ông như nước chảy vào chỗ trũng. Nhà cửa lầu gác được xây cất thêm. Những đồ vật gia dụng cũ kỹ ra đi để nhường chỗ cho những thứ cầu kỳ hơn, sang trọng hơn thay thế. Qua Đỗ đại nhân, viên quan Thành Trạc giám ấp trại Hoành Sơn của Tống cũng gởi lễ vật sang ra mắt để làm quen với ông. Đền đáp lại, ông dẫn Đỗ đại nhân vào cung bái yết Hoàng Hậu Thượng Dương, nhận việc cung đốn các thứ đồ ngự dụng cho Người. Hàng hóa của Đỗ đại nhân mua mười bán một. Vì vậy Hoàng Hậu rất hài lòng. Chẳng bao lâu Đỗ đại nhân đã được coi như kẻ tâm phúc của bà.
    Mối giao dịch phức tạp và khó hiểu này mặc dầu đã diễn ra trên mười năm nay nhưng nhờ vào tính thâm trầm cẩn mật của Thái Bảo mà mọi việc đều nằm trót lọt trong vòng bóng tối kín như bưng, đến quỉ thần cũng không hay biết.
    Sau lúc ba người bàn bạc xong xuôi, quan Thái Bảo vỗ vai con: “- Con đi đường mệt nhọc hãy vào phòng riêng nghỉ ngơi, còn giờ đi, nơi gặp, bố sẽ cho con biết sau”. Lang tướng Nguyễn Căn vái chào rồi lui vào nhà trong.
    Bây giờ còn lại hai người đối diện với nhau trong nhà sảnh rộng mông mênh như sân cung đình. Vậy mà giọng quan Thái Bảo còn hạ thấp như ngọn đèn hạ thấp bấc. Ông đưa những ngón tay xương xẩu lên hết sờ vào cái mũi nhọn khoằm lại vuốt chòm râu ngắn thưa. Còn Đỗ đại nhân luôn miệng cười tủm tỉm, bàn tay múp míp xoa xoa trên gò má đỏ au. Đặc điểm nhân dạng giữa họ đặt cạnh nhau tạo nên những nét tương phản đến ngộ nghĩnh. Một đằng thì gầy guộc cao nhỏng, mọi thứ lộ ra đều nhọn hoắt từ lưỡng quyền, tai mũi, chưa kể chòm râu che bớt chiếc cằm nhọn và cái cổ lộ hầu. Một đằng thì béo đẫy đà phúng phính, mọi thứ đều tròn lẳn như quả cây mọng nước.
    - Dạ, thưa Thái Bảo, mọi thứ cung phụng cho Thái Hậu, tiểu đệ đã hoàn tất. ngoài các vật dụng để thiết yến, còn trên dăm chục đoạn tơ Hàng Châu cùng gấm Tứ Xuyên để Thái Hậu ban quà riêng cho các quan cận thần thân thiết. Duy có mấy chiếc áo lông phỉ thúy là còn phải đợi dăm hôm nữa.
    - Lão phu biết vì lão phu mà Đại nhân phải vất vả tốn kém nhiều. Lòng lão phu thật áy náy.
    - Ôi! Của ấy đáng là bao. Chỉ mong sao Thái Hậu cùng Thái Bảo giữ yên được mối rường cho họ Lý – Đỗ đại nhân lại đưa tay xoa xoa gò má.
    - Thái Hậu có truyền gì thêm không?
    - Dạ có.
    Đỗ đại nhân lấy ra một ống nhỏ có gắn sáp, một loại lạp thư thời đó hay dùng, moi ra hai tờ thư đặc chữ trao cho Thái Bảo: - Tiểu đệ đã tìm ra được một tên thư lại có hoa tay bắt chước y hệt mọi thứ chữ của người khác. Thái Hậu nhờ Thái Bảo thị sát lại xem đã được chưa.
    - Ồ! – Giọng Thái Bảo hơi sửng sốt – quả là một người có tài xảo thuật. Đến lão phu là người sành sỏi mà cũng khó phân biệt được chân giả trong lúc nhất thời vậy đại nhân nên trình ngay lên Thái Hậu cho người yên tâm. Thái Hậu có được vui không?
    - Người rất đẹp lòng vì mọi việc. Người còn tỏ ý hài lòng về chuyện con chiến mã của lão Thái Úy bị sát hại.
    - Trời, giết con ngựa của họ ư? – Thái Bảo giãy nẩy lên như bị bỏng – Ai bảo giết?
    Đỗ đại nhân mỉm một nụ cười khó hiểu: - Hình như Thái Hậu có ý truyền.
    - Nhưng giết con ngựa chiến để làm gì chứ.
    - Có lẽ Thái Hậu muốn nhổ bớt một cái vuốt nhọn của thú dữ.
    - Làm như thế có khác gì đánh động họ hay trước mà phòng bị. Thất sách! Thật thất sách!
    - Dạ Thái Hậu nói rằng lão ta mất ngựa càng dễ cho việc Thái Hậu phái kiệu son triệu lão hồi triều.
    - Ôi! Dại dột! Quả là thứ mưu đàn bà.
    Thái Bảo kịp dừng lại. Có lẽ vì giận lắm nên Thái Bảo đã buột mồm nói vậy. Thật ra trong vụ này ông đã bỏ ra nhiều tâm huyết mới xoay chuyển được ý đồ của Thái Hậu. Ban đầu Thái Hậu khăng khăng đòi triệt hạ ngay Thái Phi Ỷ Lan. Năm phen bảy thứ, ngọt nhạt rỉ rả, phân tỏ thiệt hơn, ông mới khai tâm được cho Thái Hậu thấy rằng Lý Thái Úy chính là kẻ kình địch nguy hiểm nhất. Ông chỉ cần nhấc tay là triều chính nghiêng ngả. Và một khi Thái Úy đã đổ xuống thì Ỷ Lan kia như giống dây leo mất chỗ dựa sẽ đổ theo. Lúc ấy “Ngọc Lan” sẽ biến thành “Ngọa Lan” tha hồ khoe bùn khoe đất. Câu ví von đó đã làm Thái Hậu cười thành tiếng. Thế mà bây giờ biết đâu chỉ vì một chút sơ suất cỏn con này lại chẳng đi đến xôi hỏng bỏng không. Ôi! “Thà làm tớ cho người khôn còn hơn làm thầy cho kẻ dại” là thế.
    - Xin Thái Bảo hãy yên lòng. Tiểu đệ biết rằng Thái Hậu cũng không đến nỗi sơ ý để lão ta nhận được có bàn tay kẻ khác ngầm giết con ngựa của lão. Mà cho dù lão có ý nghi ngờ thì con vật kia chết ở Lạng Giang, nghi ngờ cũng sẽ đổ về phía người Tống.
    Tuy cơn giận đã dịu xuống, Thái Bảo vẫn nhích khuỷu tay lại gần Đỗ đại nhân nghiêng đầu dặn dò một thôi một hồi. Chốc chốc Đỗ đại nhân lại gật gù thán phục. Đại để Thái Bảo nói rằng Thái Hậu sắp làm một việc kinh thiên động địa, mất đầu như bỡn dù là đầu rồng. Thế mà bà ta không chịu suy xét nông sâu, việc làm khinh suất. Dù sao đàn bà vẫn là đàn bà. Ông nhắc khéo Đỗ đại nhân luôn luôn phải ý tứ giữ mình. Ngay với con trai, có nhiều điều ông không tiết lộ. Ông bảo con ruồi bay qua cũng còn để lại dấu vết huống hồ con người. Mọi việc làm phải thật kín nhẹm. Ông nhấn đi nhấn lại chữ “kín nhẹm”. Đỗ đại nhân xúc động đứng lên cung kính xá một xá: - Chí lý! Thật chí lý! Tiểu đệ xin khắc sâu vào lòng những lời nhắc nhở thân tình của Thái Bảo.
    Chưa biết việc làm của Thái Hậu sẽ kinh trời động đất như thế nào nhưng ngay từ bây giờ quan Thái Bảo Nguyễn Châu đã sớm lo liệu rút cầu trước khi có chiến trận.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:54 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 9


    Đáng lẽ ra, sau khi vua Lý Thánh Tông mất, Thái Hậu Thượng Dương đã nguyện đi theo chồng xuống dưới kia phụng quân vương. Ấy thế mà đến bây giờ bà vẫn còn đang đứng chiêm ngưỡng mình trước chiếc gương đồng to tướng. Bà cần sống chỉ vì bà còn một mối hận lòng chưa trả được.
    Mà sống ngày nào là còn cần phải đẹp. Tội lỗi xấu xa đáng thù ghét nhất đối với bà là làm thân gái mà để cho xấu xí người đi. Trang điểm là thú vui độc nhất của đời bà. Trong số bảy mươi hai cung nga phục dịch, bà còn chọn ra những cô mặn mà sắc sảo nhất, chuyên việc suốt ngày chăm chuốt sắc đẹp hiếm có của bà. Bà cầm chắc rằng dung nhan ngà ngọc của bà còn có sức quyến rũ hơn vạn lần những chùm lá dâu mật tươi mát để nhử chiếc xe dê của quân vương phải dừng lại trước cung bà. Ngoài công việc bận rộn này, còn lại chút thời gian rảnh rỗi, bà đem dùng vào việc đánh đông dẹp bắc để loại trừ dần những ả phi tần nào dám mon men đến cạnh vua chia sẻ ân sủng của bà.
    Nhưng mặt rồng bỗng vắng bóng ở Thượng Dương cung. Việc ấy đến đột ngột như một vết vôi ghi trên trán bà làm bà tỉnh mộng. Lần tay bấm đốt thì sự kiện ấy đã xảy ra từ năm Quí Mão cách đây ngót ngét mười năm rồi. Ngày ấy, một cô gái lọt ra từ cửa thứ dân, sinh giữa nong tằm đẻ trong lò kén vừa bước vào cung đã được thăng lên chức Nguyên Phi và được quân vương nhất mực yêu vì. Đành rằng tuổi của ả trẻ hơn bà một giáp nhưng về sắc thì ánh đom đóm kia làm sao dám sánh với trăng rằm. Chắc ả phải có thuật riêng để mê hoặc quân vương. Bà đã hao tâm tổn lực phái nhiều cung nữ để dò la nhưng rốt cuộc vẫn không tìm ra được manh mối thứ bùa chú quỉ ma đó.
    Hơn nữa, niềm ước vọng thiết tha chưa được toại nguyện, nó luôn luôn phảng phất trên gương mặt bà một nét buồn thầm kín, niềm ước vọng ngoài sức người ấy, Thượng đế cũng ban phát cho ả một cách quá hào phóng. Bà thì không có con trai mà ả thì đẻ sòn sòn. Thái tử Càn Đức vừa ra đời thì hai năm sau ả lại đẻ tiếp Thái tử Minh Nhân. Đến trời cũng giúp ả, biết trách vào đâu bây giờ.
    Đến vụ năm Kỷ Dậu thì cái uất của bà không để vào đâu cho hết. Năm ấy, Tiên vương thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Đành rằng xưa nay bà không biết gì về chính sự, thậm chí bà không ưa chuyện chính sự vì bà cho đó là việc của đàn ông, nhưng cứ trao cho bà thì bà cũng sẽ làm được có sao đâu. Ấy thế mà đức vua không cử bà lại đem trao quyền nhiếp chính cho ả. Ả thuộc hàng phi tử, còn bà đường đường ở ngôi chính hậu. Vua làm thế có khác gì đương nhiên vô cớ truất mất phẩm trật của bà. Mà ả làm việc ấy trôi chảy giỏi giang mới sôi máu chứ. Đến nỗi khi đức vua quay về nửa đường nghe tin ả trị nước yên dân đã phải thốt: “Kẻ kia đàn bà còn làm được như thế, ta làm trai há chịu thua kém ru?”
    Ôi! Cái uất này chồng lên cái uất nọ cao hơn đầu người. Nó trở thành cái bóng thâm tím quanh quẩn theo bà trong cung son lạnh lẽo. Thật ra vua Lý Thánh Tông lạnh nhạt với bà không phải vì nhan sắc bà sút kém đi. Ngược lại là đằng khác. Nhưng tấm nhan sắc ấy đã mất dần sức hấp dẫn ban đầu.
    Vua Thánh Tông là một vị vua có óc đầu óc rộng, chí hướng cao, hoài bão lớn. Càng ngày ông càng cảm thấy cần có bên mình một người đàn bà có thể cùng ông chia sẻ những lo nghĩ về việc lớn của thiên hạ. Mà bà chỉ biết đem trao đổi với ông những tủn mủn quanh quẩn trong đời sống hàng ngày vô vị của cung Thượng Dương. Câu chuyện giữa hai người cứ vữa ra, rời rạc như cơm nguội. Tư chất thông tuệ hoàn toàn không có ở bà. Sự lười nhác suy tư và trì trệ trong cảm nghĩ của bà đã làm đức vua chán ngấy.
    Cho đến giờ này bà vẫn đứng trước gương soi bóng dung nhan. Tuy còn vài năm nữa bà sẽ ăn mừng lễ tứ tuần nhưng đường nét người bà vẫn thon thon như thời con gái. Vẻ thanh tú còn được giữ nguyên từ hàng mi đến đầu ngón chân tay. Và lần này cũng như bao lần khác, nhìn bóng mình trong gương, bà lại tự hỏi: Làm sao đức vua lại có thể hững hờ với một sắc đẹp như thế này, một sắc đẹp mà đến bà cũng thấy yêu nó, để đến ôm ấp một ả tiện tỳ hôi hám kia nhỉ? Bà không hiểu và vĩnh viễn không thể hiểu được rằng ngoài sắc đẹp hình hài bên ngoài, còn có một thứ sắc đẹp khác ở bên trong, một thứ sắc đẹp vô hình nhưng có sức quyến rũ lâu bền: sắc đẹp trí tuệ. Chính Thái Phi Ỷ Lan đã đáp ứng được điểm này. Ỷ Lan có một bộ óc cực kỳ minh mẫn, ham học ham biết, am hiểu đời sống lê dân. Nhiều ý kiến thông minh, xác đáng của bà làm đức vua phải sửng sốt. Câu chuyện giữa đức vua với Ỷ Lan rất tâm đắc. Vua Thánh Tông đã sớm tìm thấy được trong Ỷ Lan một người bạn đường tri kỷ.
    Nhưng đã qua rồi mười năm ngậm cay nuốt đắng. Mười năm than thân trách phận trong thâm cung vò võ. Mười năm sống đấy mà cũng như chết đấy. Phải đợi sau ngày Tiên Đế qua đời, nhờ sự can thiệp cứng rắn và kiên quyết của Thái Sư Lý Đạo Thành, bà lên nắm quyền chấp chính. Vua con phải tôn bà lên làm đích mẫu. Bà sống lại trong ước muốn thôi thúc được rửa thù trả hận, cái hận bấy lâu âm ỉ nay đã bốc cao ngọn trong lòng bà. Mới đây bà đã gạt được Thái Phi ra ngoài không cho dự việc triều chính. Lắng nghe cung nhân thuật lại chuyện Thái Phi lo buồn vật vã, bà nở nang mày mặt. Bà nhấm nháp nỗi đau của tình địch như uống từng ngụm thuốc bổ.
    Nhưng đám cung nữ bà phái đi do thám bên cung Kiến Hoa, đã dồn dập trở về phi báo:
    - Tâu bà, Thái Phi đã phái Hạnh Hoa đi gặp Thái Úy.
    - Tâu bà, Thái Phi đã năm lần bảy lượt đến cung Long Đức bàn mưu tính kế với Thượng Hoàng Thái Hậu.
    - Tâu bà, Thái Phi đã ba lần gặp ấu quân khóc lóc với Người.
    - Tâu bà, e rằng trong triều sắp xảy ra chính biến.
    Cơn giận làm mặt bà tái nhợt. Không kịp suy nghĩ – mà bà có quen suy nghĩ đâu – bà long mắt khít răng truyền lệnh: “Thanh Nga đâu? – Thanh Nga là cung nga sủng ái nhất của bà – Con đi gọi ngay nội giám Lý Thông đến cho ta.
    Viên nội giám Lý Thông trước kia là người thân tín của Thượng Dương. Sau đấy hắn chuyển sang cung khác. Không hiểu có điều gì xảy ra mà hắn đem lòng oán hận Thái Phi. Gần đây hắn thậm thọt đi lại cung Thượng Dương và cũng giúp bà được đôi ba việc. Hắn tỉ tê xúi giục bà một chuyện mà lâu nay bà vẫn còn lưỡng lự. Bà chưa thật tin hắn. Nhưng nay sự tình thúc bách, bà đánh liều làm điều mà lòng bà chưa muốn…
    Tiếng chày đá nện vào chuông ngọc lanh canh. Bà ra phòng ngoài gặp Lý Thông. Bà rút ra một mảnh giấy con trao cho hắn: - Ngươi làm việc này phải hết sức cẩn thận. Cung Thượng Dương sẽ không quên công ngươi. Chức Đô Tri đang chờ ngươi đấy.
    - Muôn tâu lệnh bà, tiểu thần làm thế này thì quỷ thần cũng khó tra xét – Hắn lấy ra kim chỉ vừa quì, vừa tâu, vừa khâu mảnh giấy con vào bên trong dải áo của hắn, trước mặt Dương Hậu.
    Nội giám Lý Thông lui ra thì Lý Ngân cũng vừa về đến cung. Chàng trình lại mọi việc và quả quyết: - Chỉ trong chiều nay là Thái Úy có mặt ở điện Hàm Quan.
    Nhìn nét mặt bà đang vui, Lý Ngân ngập ngừng rồi tiếp: - Thưa dì, cháu còn chút việc riêng muốn thưa cùng dì.
    - Việc riêng này dì đã biết từ lâu – bà nhoẻn một nụ cười thật hồn hậu. – Con bé đó trông rất được mắt, hiềm nỗi cháu còn tang cha vướng nặng trên đầu.
    - Dạ thưa dì, cháu đã mãn tang bố được mấy tháng nay rồi.
    - Chưa đâu, tang lớn của cháu còn kéo dài chưa biết đến kiếp nào mới chấm dứt
    - Dạ, dì nói thế nào cháu nghe chưa rõ.
    Thái Hậu nhìn quanh: - Chỗ này không phải chỗ để dì cháu ta trò chuyện. Cháu hãy theo ta.
    Bà đưa Lý Ngân vào căn buồng kín có đặt hương án, có lẽ nơi bàn thờ riêng đức Tiên Đế. Những cây hồng lạp thắp sáng như sao sa, mùi nhang thơm ngát mũi.
    Bà ái ngại nhìn cháu: - Lâu nay dì phải cố ngậm miệng giấu cháu, nhưng đến cơ sự này, dì đành nói thật. Cha cháu chết trận nhưng chết oan ức. Vì muốn tranh chức đoạt quyền họ đã nhẫn tâm ám hại cha cháu.
    - Ôi! Dì nói sao? Kẻ nào đã ra tay ám hại cha cháu?
    - Kẻ đó quyền nghiêng thiên hạ. Nhắc đến tên kẻ ấy, đến dì cũng kinh hãi. Dì nói ra chắc cháu chưa tin nhưng cháu cứ đọc lá thư này thì rõ.
    Bà bước lại nhấc một ống thư trên hương án. Bà định rút lá thư ra nhưng tay bà do dự: - Không được. Cháu phải có lời tuyên thệ trước rằng cháu sẽ không bao giờ hở môi nói nửa lời cho ai chuyện này dù là người ruột thịt thân thiết.
    Lý Ngân khẳng khái bước ra trước bàn thờ buông lời thề độc như buông một mũi tên số phận.
    Thái Hậu trao lá thư cho Lý Ngân: - Đây là lá thư cha cháu viết trước trận Đồ Bàn. Mà cháu còn nhớ mặt chữ của cha cháu không chứ? Nếu quên – bà đưa ra một lá thứ hai – thì đây có bức thư cha cháu gởi cho mẹ con cháu lúc còn sông. Cháu hãy so sánh, thị sát kỹ thủ bút của cha cháu.
    Lý Ngân bàng hoàng nhìn nét chữ thân quen, đôi mắt hoa hoa trong đầu óc. Chàng đi lại bên hương án, kề sát tờ thư vào cây hồng lạp cháy vạt ngọn. Tay run rẩy, dòng chữ nhún nhẩy. Mấy giọt nến nhểu xuống trang thư đỏ thẫm như giọt huyết. Mấy lần chàng cố định thần mới đọc nốt được những dòng chữ cuối cùng. Một quả chùy nặng như đập ngay vào mặt chàng, mắt chàng hoa lên những vòng tròn màu vàng lửa nến lấp lóa bắn ra những tia sáng đỏ đòng đọc như máu. Có tiếng Thái Hậu kêu lên rồi bà cúi xuống nhặt lá thư bị buông rơi trên đất, châm vào ngọn nến. Bà nhìn ngọn lửa liếm lẹm dần tờ thư, miệng lầm rầm: - Chú Quán ơi! Con nó đã đọc xong rồi. Chị gửi trả lại cho chú đây. Hồn chú có khôn thiêng hãy phù hộ cho con nó ơn đền oán trả.
    Lý Ngân đứng trân chết điếng. Hồi lâu, từ bên trong cổ họng tắc tị, chàng mới khạc ra được một giọng khản đặc, như khạc ra một búng huyết trong mồm: - Thì ra kẻ mưu giết cha ta là Thái Úy Lý Thường Kiệt! – Rồi chàng đâm bổ ra ngoài – Thái Hậu kịp giữ chàng lại: - Cháu đi đâu thế?
    - Cháu đi trả thù cho cha cháu!
    - Khoan, nếu cháu đã quyết thì dì cũng sắp đặt trước rồi. Thanh Nga đâu? Tiếng dạ cùng với người theo ra – Con hãy đưa công tử đi, lo liệu mọi việc cho công tử. Nhớ cần phải thay ngay ống tên của công tử.
    Lý Ngân gạt phắt: - Khỏi cần, dì ạ! Họ đã sát hại phụ thân một cách ám muội thì cháu trả thù họ một cách đường đường chính chính.
    Chàng đi theo Thanh Nga như đi trong cơn mộng du. Lúc đến nơi bố trí, chàng mới sực nhận ra ngôi miếu thổ thần cạnh đầm sen, nơi hôm qua chàng suýt thốt lời thề độc với Hạnh Hoa. Dưới gốc sung còn ấm dấu chân nàng… Ôi! Lòng người hiểm độc khôn lường.
    Chàng hạ cánh cung bằng gỗ thiết đằng đen bóng, to như cổ tay người lớn, rộng cả sải tay, lắp hai mũi tên liên châu vào. Trên đường hòe, bóng cỗ kiệu son rước Thái Úy về triều đã nghễu nghện tiến lại. Chàng cố trấn tĩnh tâm thần, đợi bóng tấm diềm trước đỏ chói lọt vào tầm bắn, nghiến răng bật dây cung. Sau đấy chàng không hay biết gì nữa. Chung quanh đổ nát, hoang vu, tăm tối. Dường như có tiếng Thanh Nga reo khẽ: - Trúng rồi! Và một bàn tay lạnh buốt nắm lấy tay chàng kéo đi, lên ngựa phi thẳng về phía bờ sông. Ở đấy chờ sẵn một chiếc thuyền lớn gắn sáu mái chèo. Chàng bước vào khoang, không kịp vái chào ai cả, đổ vật xuống ván thuyền.
    Loáng thoáng dáng dấp ai như Đỗ đại nhân, người khách chàng đã gặp nhiều lần ở cung Thượng Dương và một khuôn mặt hao hao lang tướng Nguyễn Căn nhìn chàng chăm chú.
    Sau đấy, hồn chàng phiêu phiêu bước vào một cuộc đi triền miên, mông lung, vô tận…
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 5:58 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 10


    Vốn là chỗ đi lại thân thuộc với quan Thái Sư tể chấp Lý Đạo Thành, Thái Bảo Nguyễn Châu lầm lũi vòng theo lối bên, bước vào nội phủ, men quanh vườn hoa lần đến tận hiên tây, nơi đó quan Tể Chấp thường tĩnh nghỉ sau những giờ việc quan mệt nhọc.
    Tể Chấp đang ngồi bên án trước chiếc khay gụ chạm rồng trên xếp một tập văn thư. Đằng sau là những chồng sách bìa cứng phất cậy gáy son, đặt ngay hàng thẳng lối, tăm tắp nghiêm nhặt. Căn nhà sạch tinh không vướng vất bóng một hạt bụi nhỏ trên vách phấn.
    Thấy quan Thái Bảo, Tể Chấp đứng lên đưa tay sửa lại nếp khăn vấn đoạn xanh cho thật ngay ngắn, cân phân rồi mới phân ngôi chủ khách cùng ngồi.
    Sau tuần trà, Thái Bảo đặt chén xuống, nhìn ra rặng thạch trúc bóng lá xanh um mọc trước sân nhà khẽ thở dài.
    - Hôm nay quan Thái Bảo có điều gì mà trông thần sắc không vui – Tể Chấp dè dặt hỏi.
    - Dạ, thưa Tể Chấp, có gì đâu ạ. Tiểu đệ vì đối cảnh sinh tình, mải ngắm rặng trúc kia mà nghĩ đến cảnh trúc già măng mọc nên mới chạnh lòng.
    - Lão phu lại nghĩ khác – Tể Chấp mỉm cười vuốt chòm râu bạc chùng đến bụng – Thái Bảo trông kia, trúc càng già càng lộ hết mọi nét đẹp thanh cao, da trúc càng ngả sang màu ngà cao quí.
    - Dạ, giá ai cũng nghĩ được như Tể Chấp thì việc thiên hạ tốt lành mà triều chính cũng tránh được mọi điều ngang trái – Thái Bảo hạ giọng vẻ buồn phiền – Thật quả tình tiểu đệ không hiểu Thái Úy nghĩ thế nào mà lại làm như vậy?
    - Chắc Thái Bảo muốn nhắc đến chuyện tuyển tăng quan sang ngạch quan chức triều đình để điền vào những chỗ khuyết?
    - Dạ, vâng, đúng như vậy ạ. Tiểu đệ thiển nghĩ việc chọn người cất nhắc là việc vô cùng hệ trọng, trên hòa cùng trời đất, dưới thuận với nhân tâm. Đáng lẽ Thái Úy nên nghĩ nhiều đến các vị lão thành, tôn trọng các bậc trưởng lão, đằng này Thái Úy tiến cử những kẻ đầu xanh tuổi trẻ. Chúng chỉ ham đấu vật chọi gà lấy điều háo thắng làm trọng. Có lần tiểu đệ đã nói: - Thái Úy nên quan tâm đến những bậc trưởng thượng vì có già rồi sau mới có trẻ. Thái Úy chỉ cười đáp: - Có trẻ rồi sau mới có già. Quan huynh còn quên vế sau đấy.
    Thái Bảo Nguyễn Châu quả đã khía đúng vào chỗ sâu kín nhất trong tâm tư Tể Chấp. Ông và Thái Úy là hai vị túc thần đứng đầu triều. Hai người không ưa nhau vì tính khí không hợp nhau. Bên già, bên trẻ. Bên thuộc dòng hoàng tộc, bên từ bách tính xuất thân. Lý Đạo Thành là một nhà nho học lão thành, điềm đạm ôn hòa và hay cố chấp. Trái lại, Lý Thường Kiệt lại xông xáo, bộc trực có nhiều quyết đoán.
    Sự xung khắc ban đầu về tính tình giữa hai gương mặt lớn nhất của thời đại này sẽ chỉ là vụn vặt, tuy có nhuốm thêm màu sắc nhiều mặt cảm riêng tư. Và những va chạm cỏn con ấy sẽ không đưa đến hiềm khích nếu không có sự tranh chấp bất đồng trong vấn đề nhân sự, trong cách nhìn nhận đánh giá người để sắp xếp vào phẩm trật triều đình.
    Lý Đạo Thành được vua Lý Thánh Tông chọn làm Tể Chấp từ lúc mới lên ngôi. Mười tám năm làm tể tướng, ông chưa gặp điều gì va vấp. Các quan văn võ kính yêu, các nhà minh kinh bác học đều phục. Mười tám năm làm tể tướng, ông ung dung cầm cương đưa cỗ xe nhân sự đi từng bước một nhịp nhàng, êm đềm, nhàn nhã. Thế mà bỗng dưng có kẻ ngồi đằng sau ông cứ muốn vụt roi cho ngựa lồng lên thì ông chịu làm sao nổi.
    Nghĩ đến Thái Úy, Tể Chấp không khỏi cảm thấy lấn cấn. Ông nhìn ra rặng thạch trúc rồi kéo cái khay gụ lấy ra một tập văn án: Thái Bảo còn chưa biết điều này. Đây, quan Thái Úy còn muốn vượt qua qui tắc, tuyển người không thông qua cửa Phật.
    - Ồ! Không ở cửa tăng sư ra thì lấy đâu đủ học vấn chữ nghĩa để làm việc quan – Thái Bảo kêu lên- quá thể! Rõ là quá thể!
    - Quan Thái Úy khuyên lão phu mở những kỳ thi tuyển chọn những kẻ tinh thông hình luật, bổ làm viên lại cho bộ Hình. Thái Úy muốn mọi việc xét xử được nghiêm minh nhanh chóng. Lão phu nhớ Tiên Đế xưa thương dân như con. Phàm kẻ can án, Tiên Đế coi như đứa con hư cần phải chăm sóc nhiều hơn. Lão không quên năm Ất Mão, trời đông giá rét, lão mặc kép áo khoác cừu mà vẫn thấy rét run. Tiên Đế nói với lão phu rằng: - Ta ở trong cung kín sưởi lò than, khoác áo lông, mà còn rét như thế này. Ta nghĩ đến tù nhân bị nhốt trong lao, chịu trói buộc khổ sở mà chưa biết phải trái ra sao, ăn không đầy bụng, mặc chẳng che thân. Ta thật lấy làm thương. Rồi Tiên Đế sai quan sĩ sư cho người đem chăn chiếu phát cho tù nhân, cấp cho một ngày hai bữa cơm. Rồi lại một lần khác khi Tiên Đế xử kiện có công chúa Đông Thiên bên người, năm ấy là năm nào nhỉ?
    - Dạ, năm Ất Tị, tiểu đệ còn nhớ Tiên Đế chỉ vào công chúa nói rằng: - Ta yêu con ta như là cha mẹ dân yêu dân. Vì dân không hiểu luật nên mắc tội. Ta lấy làm thương. Vậy từ nay về sau, không kể tội nặng hay nhẹ, các người phải xử một cách khoan hồng.
    - Đúng đấy. Đại loại những chuyện ấy lão phu đều kể qua để nhắc khéo Thái Úy. Lão phu nghĩ trước đã làm thế nào thì nay cứ thế mà làm.
    - Dạ tiểu đệ chắc Thái Úy không còn đâu lý lẽ để mà cãi nữa.
    - Thái Úy chỉ nhẹ nhàng bảo lão phu rằng hiện nay có nhiều người ăn trộm trâu nếu không nghiêm trị thì dân cày sẽ vô cùng khốn đốn. Tiên Đế thương dân chứ không thương những kẻ đang làm hại dân. Lão phu còn đang gẫm lại những lời của Thái Úy.
    - Dạ, thưa Tể Chấp – Thái Bảo nhìn xoáy vào Lý Đạo Thành – Tiểu đệ chỉ lo rằng không khéo Thái Úy lại học đòi bắt chước người Tể tướng họ Vương của nhà Tống thi hành tân pháp.
    - Bắt chước thế nào được ! – Giọng Tể Chấp trở nên sôi nổi – Vua Tống Thần Tông trẻ người non dạ, tính hay sính cường mới thích dùng những kẻ hung hăng như Vương An Thạch làm tể tướng. Chứ ở ta, tự quân còn thơ ấu, chẳng lẽ phải chọn trẻ con vào triều để bàn việc nước ư?
    Để hiểu thêm được câu chuyện giữa hai vị đại thần này xin mách với bạn đọc rằng:
    Triệu Khuông Dẫn sau khi đánh tây dẹp nam, chinh phục các nước lân bang đã lập nên nhà Tống. Tống Thần Tông Triệu Húc là đời vua thứ sáu. Chắc hẳn vào một buổi sáng đầu xuân tại đất Thăng Long, vua Lý Thánh Tông đang vỗ long án giận dữ vì nước Chiêm sinh lòng phản nghịch dám vô cớ tuyệt giao để hai năm sau kéo quân sang chinh phạt, thì cũng vào giờ ấy ở bên kia, Tống Thần Tông bước lên ngôi vua. Ông vua trẻ tuổi này mang lên ngôi một ý chí quật cường chấm dứt chuỗi ngày yên lạc triền miên của các đời vua trước. Chỉ 8 tháng sau ông đã tìm gặp được một đình thần lý tưởng: Vương An Thạch. Và có lẽ khi đám mây vàng hình rồng hiện trên chiếc lầu thuyền của vua Thánh Tông chuẩn bị cuộc nam chinh thì trong cung nhà Tống xảy ra cuộc gặp gỡ quyết đinh, lý thú nhất và cũng tâm đắc nhất giữa vua Tống với bậc kỳ tài của đất nước họ. Và cũng chỉ tháng sau, vua Tống trao vào tay họ Vương chức tể tướng đầu triều. Vương An Thạch là một bộ óc kinh bang tế thế vĩ đại và tân tiến có một không hai của dân tộc Trung Hoa. Những phương sách ông đề cử với vua Tống nhằm làm dân chúng giàu có, quốc khố dồi dào, binh lực hùng mạnh cho đến ngày nay vẫn còn có giá trị. Các phép nội trị mới mẻ ấy được gọi là tân pháp. Để thi hành tân pháp, Vương tể tướng dùng loại quan trẻ.
    Phải nói rằng vua ấy với tôi ấy có thể làm nên sự nghiệp nếu không có sự phản kháng mạnh mẽ của các vị lão thần. Họ Vương, tuổi trẻ mà quyền sớm thịnh nên không khỏi bị đồng liêu ganh ghét. Hơn nữa phái quan trẻ hết lòng ủng hộ Vương An Thạch, còn phái lão thần lại ra sức bài xích. Trong triều hình thành hai phái – phái trẻ phái già, phái tân phái cựu – phân tranh kịch liệt.
    Nhắc đến Vương An Thạch, Thái Bảo Nguyễn Châu ngụ ý bảo ngầm Lý Đạo Thành rằng cái họa phân tranh kia sẽ xảy ra nếu không kịp thời chặn đứng bàn tay của Thái Úy. Nhưng Tể Chấp vẫn tiếp lời, giọng quả quyết: - Thái Úy trẻ tuổi nên tính khí còn cương cường. Nhưng xin Thái Bảo đừng quá lo. Còn cái đầu bạc này đứng giữa triều thì mọi việc còn tuân theo lệ cũ. Bỗng Tể Chấp dừng lại lắng nghe. Có tiếng nhộn nhạo ở phía trước dinh. Một viên quan thân hình bé choắt, hớt hải vào báo: - Bẩm quan Tể Chấp, có Thái Hậu giá lâm.
    Hai người vội vàng chỉnh lại quần áo rồi cùng ra bên ngoài nghiêm giá.
    Dương Hậu bước xuống xe loan, cho mọi người miễn lễ rồi đi thẳng vào giữa tiền đường. Các gia binh trong dinh tản ra xa, canh phòng cẩn mật.
    Trông thấy Nguyễn Châu, Thái Hậu vui vẻ nói: -“Có mặt quan Thái Bảo ở đây càng hay. Ta đến báo cho các khanh một tin hệ trọng: Thái Úy Lý Thường Kiệt bị giết rồi!”. Dướng như những thớ thịt trên mặt Tể Chấp co giật. Trước mặt ông, một khoảng trống nhỏ hiện ra rồi lan rộng dần như những vòng nước dợn khi có viên đá ném giữa mặt ao. Tin dữ đến đột ngột như cơn lốc reo ù ù trong tai làm Tể Chấp không sao nghe rõ lời Thái Hậu đang nói tiếp: - Thái Úy bị bắn chết trên đường hòe giữa lúc ông ta đang ngồi trên kiệu về kinh – Thái Hậu dừng lại nhìn vào gương mặt trắng bệch của Tể Chấp: - Thôi thế cũng đỡ được cái gai nhọn trước mắt ta mà lão khanh cũng được thỏa lòng – Bà gằn giọng: - Có Tể Chấp Lý Đạo Thành không thể có Thái Úy Lý Thường Kiệt.
    Câu nói này làm Tể Chấp chợt tỉnh: - Muôn tâu Thái Hậu, giữa thần và Lý Thường Kiệt quả có điều xích mích, nhưng đó là những điều nhỏ nhặt trong cung đình.
    - Không nhỏ nhặt đâu, lão khanh hãy nghĩ lại coi. Thường Kiệt là một viên quan nhỏ ở chức Hoàng môn trong nội đình. Vậy mà ở gần vua, nhờ tài ton hót, Tiên Đế nâng lên hàng Thái Bảo rồi Tiết độ sứ lại phong làm nghĩa nam của Thiên tử. Bấy lâu nay y tranh chức đoạt quyền với lão khanh. Hai người ở cái thế rồng cọp tranh đua, sao Tể Chấp còn mơ hồ như vậy?
    - Tâu Thái Hậu, thần trộm nghĩ Thường Kiệt là cột trụ của triều đình. Mất Thái Úy thì rồi đây phên giậu của nước nhà lấy ai chống đỡ?
    - Thái Úy đang nắm giữ mọi binh quyền. Ta thử hỏi nếu mai đây y trở lòng quay giáo đổi cờ thì liệu cơ nghiệp của nhà Lý có còn nguyên vẹn. Sao lão khanh sớm quên cái họa quan Thập đạo Tướng quân ở đời triều trước nhỉ?
    - Tâu Thái Hậu – Lý Đạo Thành vụt quỳ xuống – quả hạ thần bụng không ưa Thái Úy nhưng miệng phải nói rằng, Lý Thường Kiệt là một đấng đại thần, lòng trung sáng tỏ. Người ấy dám đội vạc trước sân rồng, cho trâu ăn dưới vực thẳm để giúp các tiên đế dựng nên nghiệp lớn. Điều gì chứ điều ấy quả thần không dám nghĩ sai.
    Tể Chấp đã dứt lời mà tiếng nói vẫn còn vang trong đầu ông. Dường như đó không phải là tiếng ông mà tiếng một người nào khác bấy lâu ẩn kín trong người ông. Ông có cảm giác như những lời ấy ở từ các ngóc ngách sâu thẳm nào bất giác trồi lên miệng ông mà sức ông không kiềm chế nổi. Lạ một điều là ngày thường, xưa nay ông không ưa thích gì Thái Úy, vậy mà trong giờ phút này, nghe tin Thái Úy chết thì hình dáng Thái Úy bỗng đứng thẳng lên sừng sững trước mặt ông rõ nét uy nghi đúng với tầm cỡ của nó. Ông nhớ lại con người ấy đã giúp Tiên đế phạt Chiêm cự Tống, trong chấn chỉnh nội đình, ngoài phủ dụ năm châu sáu động ba nguồn, vỗ yên các phiên trấn, mở mang bờ cõi tận phía Nam. Công lao hãn mãn là thế mà nay bị một tên tiểu tốt vô danh nào sát hại. Ông ngẩng mặt lên tâu: - Thưa Thái Hậu, chẳng hay kẻ nào dám cả gan giết chết Thái Úy?
    Thái Hậu đáp gọn: - Hắn là thằng cháu của Tể Chấp mà cũng là cháu ta.
    - Ôi! Lý Ngân ư? Thằng nghịch đồ dám làm việc bạo thiên nghịch địa.
    - Hắn vì ta, vì Tể Chấp, vì sự sống còn của dòng họ Lý mà xả thân. Đấy còn lại giọt máu cuối cùng của chi tộc nhà Tể Chấp đấy. Cứ đem mà giết đi.
    Tể Chấp lặng im thấy người rời rã. Nhưng một hy vọng mong manh thoáng qua trong đầu ông. Biết đâu tin Thái Úy chết chưa chắc đã xác thực. Ông cất câu hỏi bâng quơ:
    - Đã chắc gì bắn trúng mà chắc gì Thái Úy đã chết hẳn? Thái Bảo Nguyễn Châu nãy giờ vẫn đứng lặng thinh câm như thóc bỗng góp lời: - Thưa Tể Chấp, với kẻ nào khác còn ngờ được chứ với tài thiện xạ của công tử Lý Ngân thì mấy ai thoát chết.
    Mơ ước cuối cùng tắt ngấm. Cái chết của Thái Úy giờ đây đã thấm vào người Tể Chấp và trở thành một sự thật hiển nhiên rồi. Tể Chấp rũ rượi gục đầu xuống ngực mơ màng nhìn hai giọt nước mắt rơi xuống chậm chạp lăn tròn trên chòm râu chùng trắng như tuyết…
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 6:03 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 11


    Xe loan vừa về đến cung Thượng Dương, Thái Hậu đã gặp ngay nhiều chuyện bất ngờ.
    Điều bất ngờ đầu tiên là có sắc chỉ của vua Càn Đức vời bà vào cung. Cuộc hội triều huy hoàng thiết yến bá quan, bà chưa kịp thực hiện đã được thay vào một cuộc hội nhỏ hẹp của một số ít vương hầu. Mà cuộc hội này không diễn ra trong ngôi nhà rộng thông thênh ở điện Thiên An hay dưới mái nhà tám góc của điện Thiên Khánh, nơi thường dùng để bàn chuyện chính sự. Cuộc hội bất thường này lại làm tại cung Long Đức, nơi ở của Thượng Hoàng Thái Hậu.
    Người mẹ chồng này đã gây cho bà một cảm giác e dè, sợ sệt ngay từ buổi mới bước vào cung. Nỗi sợ hãi lâu ngày gấp nếp trong lòng bà. Bà tìm mọi cách để lẩn tránh Thượng Hậu. Cực chẳng đã, một năm hai lần bà mới đến chạm mặt Thượng Hậu trong nghi lễ vấn an. Nay vua lại giao cho Thượng Hậu chủ trì cuộc hội này chắc lành ít dữ nhiều. Tuy không nhạy bén, bà cũng cảm thấy đối phương đã đi trước bà một bước và đang mưu mô gì đây để giáng trả bà một đòn hiểm hóc. Song giờ đây bà coi cái chết nhẹ như bấc. Bà có sá gì. Lòng bà dấy lên một niềm thách đố kiêu hãnh.
    Nhưng khi vừa đặt chân vào cung Long Đức thì điều bất ngờ thứ hai làm bà choáng váng. Đập vào mắt bà trước tiên là dáng dấp bình thản của Thái Sư Lý Đạo Thành với bộ râu nhốt trong túi gấm buông thõng trước ngực. Cạnh Thái Sư là thân hình hộ pháp của Thái tử Hoàng Chân, nước da hồng hào, mặt đỏ tựa chu sa, tiếng nói như lệnh vỡ, râu ba chòm đen nhánh. Kế cận là dáng người nho nhã của Thái tử Chiêu Văn, em của Hoằng Chân. Thời ấy phàm đã con vua đều gọi bằng Thái tử. Hai vị Thái tử này là em của Tiên đế Lý Thánh Tông.
    Luồng mắt của bà đưa về hàng bên kia, bỗng dừng lại kinh hoàng. Đằng sau những đầu người lố nhố của các vương hầu nổi bật lên một dáng dấp uy nghi quen thuộc. Mắt bà hoa lên. Có phải cái nắng gay gắt cuối hạ ngoài trời làm bà quáng mắt? không, đúng là Thái Úy Lý Thường Kiệt đang nghiễm nhiên cung kính đứng dậy vái chào bà. Làn da trên gương mặt bà thường ngày trắng mịn một màu cẩm thạch chợt đỏ bừng lên rồi tái nhợt lại như màu tuyết dưới trăng. Bà phải gắng gượng lắm mới giữ được thân hình khỏi lảo đảo. Mắt bà cố nhướng lên mà không nhìn thấy bóng Thái Phi Ỷ Lan ngồi ở đâu cả. Thực tại chung quanh bà nhạt nhòa trong một làn sương mỏng.
    Có tiếng Thượng Hậu cất lên đâu như từ phía sau bà: - Dương hậu đấy ư? Con lại ngồi đây với mẹ - Một bàn tay nhỏ nhắn xương xẩu nắm lấy bàn tay giá ngắt của bà kéo đi. Bà ngoan ngoãn bước theo Thượng Hậu lên ngồi ở ghế trên.
    Thượng Hậu lại gọi: - Còn Ỷ Lan đâu. Con lên ngồi cạnh mẹ đây. Nghe tên Ỷ Lan, lòng Dương Hậu lại bốc lên niềm oán hận khiến bà trấn tĩnh lại.
    - Lâu lắm ta thấy ít khi chị em bây được thân mật như thế này. Thượng hoàng Thái Hậu vừa nói vừa quay nhìn vào mặt Dương Hậu.
    Thái Phi Ỷ Lan vội đáp: - Dạ, tâu mẫu hậu, chúng con được thế này là nhờ có mẹ ngồi ở giữa ạ.
    - Còn Thượng Dương, con nghĩ thế nào? Phải chăng con có nhiều điều bất hòa không nói được?
    - Dạ, tâu mẫu hậu, chuyện xích mích có từ lâu nhưng toàn những điều vặt. Bất tất phải phiền đến tuổi già của mẫu hậu.
    - Ôi, giá được thế thì phúc đức cho dòng họ Lý. Nhưng ta e sự thể lại không tốt lành như vậy. Này Thượng Dương, có kẻ trong cung tố giác con muốn mưu hại Ỷ Lan, điều ấy có thật không?
    - Dạ, tâu mẫu hậu, miệng người đời thường hay dị nghị đặt bày. Con có chống chế thế nào đi nữa thì chắc mẫu hậu cũng không tin.
    - Không, ta đâu có tin da dẻ mà ngờ cật ruột. Nói phải có sách, mách phải có chứng. Quan Đô Tri đâu, hãy dẫn Lý Thông vào cho ta.
    Lời truyền của mẫu hậu vừa ban ra thì Lưu Khánh Đàm đã đưa Lý Thông vào quì mọp trước mặt Thượng Hậu. Bộ mặt thâm hiểm quắt queo của viên nội giám vừa hiện ra thì mối nghi hoặc thấp thỏm của bà được giải tỏ ngay. Lòng ham muốn sát hại Thái Phi lâu ngày đã trở thành trong bà một mối cám dỗ cuồng nhiệt, không sao cưỡng nổi. Trong tình thế cấp bách thiếu suy nghĩ lợi hại, bà đã trao tính mạng bà vào tay Lý Thông. Và tên nội giám đã lừa bà như lừa một đứa trẻ con dại dột. Giờ đây mối cám dỗ ấy đã dẫn theo sự trừng phạt hiển nhiên.
    Nội giám Lý Thông rập đầu xuống: “-Muôn tâu Thượng Hoàng Thái Hậu, đã từ lâu Thái Hậu Thượng Dương xui giục con giúp bà ám hại Thái Phi, mãi đến sáng hôm qua Thái Hậu mới trao cho tiểu thần một gói thuốc bảo phải lung lạc cho được ả thị nữ đầu bếp ở cung Kiều Hoa. Thái Hậu dặn: - Ta biết tính Thái Phi thường ăn chè sen vào lúc khuya. Chỉ cần bỏ một nửa gói này là đủ. Phải làm gấp, chức Đô Tri đang đợi mày đấy. Đó là sự thật, tiểu thần không dám khai man”.
    - Ta không tin vào những lời bịa đặt vu vơ. Thái Hậu đã sai phái người, ắt phải có gì làm bằng chứng.
    - Dạ muôn tâu, có chứng chỉ của Thái Hậu đây ạ. Vừa nói Lý Thông vừa dâng lên cái dải áo của hắn.
    Thái Hậu đưa ngón tay rút tờ chứng chỉ trong dải áo ra, quay hỏi Thượng Dương: - Có phải đây là vật làm tin của con không?
    Thượng Dương nói trong một hơi thở: Đúng là của con. Tùy mẫu hậu đèn trời soi xét.
    Thượng Hậu cố nén phẫn uất, chậm rãi nói: - Lâu nay ta ăn chay niệm phật tu nhân tích đức để vun trồng quả phúc cho con cháu. Đối với hai con dâu, ta coi ngang nhau, không cân nặng nhẹ. Thế mà nay vua Càn Đức mới lên ngôi, tuổi còn thơ dại, mọi quyền chấp chưởng trong triều đều phó thác vào tay con, vậy ma vừa mới lên nắm quyền binh, con đã mưu toan những chuyện tày đình. Thái sư Lý Đạo Thành, ngươi đứng đầu triều, phụ chính cho Thượng Dương ngươi có biết ít nhiều về chuyện này không?
    Đạo Thành bước ra, quì xuống: - Muôn tâu Thượng hoàng Thái Hậu, điều này quả thần chưa hề hay biết.
    Thượng Dương bỗng kêu lên: - Thưa mẫu hậu, việc con làm, con chịu, Tể Chấp không dính dấp gì đến chuyện riêng của con.
    - Thế ta hỏi, cái chuyện dọc đường có người mưu ám toán Lý Thường Kiệt, chắc Thái Sư cũng không hay biết?
    - Dạ điều này… dạ, muôn tâu… dạ muôn tâu… - Đạo Thành ấp úng.
    - Thôi chuyện của Đạo Thành có thánh thượng soi xét sau. Thánh Thượng chỉ giao ta phân xử việc này. Nay ta xét, Thái Hậu mới lên nắm quyền đã vì tị hiềm mưu hại Thái Phi, tội đáng muôn chết. Ta sẽ khải trình lên Thánh thượng, xin Người bắt giam Thái Hậu vào cung Thượng Dương chờ ngày đi theo hầu Tiên Đế để làm răn cho tam cung lục viện.
    - Dạ, tâu mẫu hậu, con xin tuân theo thánh ý của mẫu hậu. Vừa đáp, Thượng Dương vừa cúi gục đầu xuống. Nhưng niềm uất hận không ghìm được đẩy bà rướn thẳng người lên, đưa tay chỉ thẳng vào mặt Thái Phi Ỷ Lan, giọng bà rít lại: - Ta vì thấp trí thua mưu nên bị sa vào cạm bẫy của ngươi. Ngươi đừng tưởng ta không biết.
    Rồi bà cười nhạt, lững thững bước ra khỏi cung Long Đức. Tất cả mọi việc xảy ra trước mắt bà chóng vánh quá, thảng thốt quá, như trong một cơn ác mộng.
    Bốn ngày sau có chiếu của vua xuống bãi chức Thái Sư Tể Chấp của Lý Đạo Thành vì thân làm tể tướng đặt ở ngôi cao mà biết trái không nói, thấy sai không ngăn, nên giáng xuống làm thị lang, trấn thủ ở Châu Hoan.
    Trong những ngày sóng gió này, hơn ba nghìn quân cận vệ túc trực thay nhau canh giữ nghiêm ngặt bốn cửa thành. Đội quân tuần rầm rập kéo đi khắp các ngõ. Ban đêm cấm dân chúng đi lại. Những người có việc quan, cần đi phải thắp đèn lồng dán phù hiệu tộc huy và có lệnh bài của quan Kiểm hiệu.
    Cả kinh thành lại một phen rộn lên tiếng xầm xì bàn tán xôn xao. Một bà công nương trong hoàng tộc khẽ rỉ vào tai một vị phu nhân: - Nghĩ mà thương Thái Hậu. Con người hiền hậu, dễ thương ấy thế mà nay phải ngồi đợi chết trong cấm cung.
    - Nghe ông nhà tôi nói thì Thái Hậu cũng có tội kia mà.
    - Tội tình gì? Đàn bà ai chẳng có máu ghen. Nếu nói tội thì cả lũ chị em ta cũng có tội.
    Phái đàn ông thì bứt rứt nhiều về số phận quan Tể Chấp: - Lỗi là ở Thái Hậu chứ đâu ở Thái sư – Xử như vậy thì hơi quá đáng. Chẳng qua Thánh Thượng còn nhỏ tuổi, mẹ nói gì cũng nghe theo.
    - Thế là quan huynh quên mất bàn tay của Thái Úy rồi. Họ cùng một giuộc với nhau cả.
    - Tiểu đệ không nghĩ như vậy. Thái Úy đang ở Lạng Giang. Tiểu đệ không tin rằng cánh tay Thái Úy dài đến mức vươn đến kinh thành. Lại còn có tin nói Thái Úy suýt bị ám hại trên đường về. Rõ ràng người ta không muốn Thái Úy can dự vào việc riêng tay của họ.
    Một viên quan, ý chừng muốn tỏ ra mình nhìn xa thấy rộng hơn, khỏa hai tay ra đằng trước để kết thúc câu chuyện quá rườm lời: - Đây là một cuộc phân tranh văn võ trong triều. Bây giờ bên võ đã thắng thế. Có vậy thôi.
    Riêng đối với các bậc lão thần, vụ chính biến này còn để lại trong lòng họ nhiều ngậm ngùi, day dứt. Nhiều người đã để rơi những giọt nước mắt thương tiếc khi Tể Chấp Đạo Thành lên cáng lặng lẽ về trấn thủ đất Châu Hoan. Người ta không nhắc nhiều đến tên tuổi Thái Úy trong vụ này. Nhưng sự thật vai trò của Thái Úy ảnh hưởng không ít đến số phận của Đạo Thành và Thái Hậu Thượng Dương.
    Lúc đầu, Thái Phi Ỷ Lan khăng khăng đòi bắt Thượng Dương phải chết theo Tiên Đế sau một vài ngày giam giữ ở cấm cung. Mối hiềm cũ như gai đâm trước mắt, nhổ sớm ngày nào đỡ xốn xang ngày ấy. Còn đối với Đạo Thành, Ỷ Lan lại nhẹ tay hơn. Việc để Đạo Thành ở lại triều hay không, bà không quan tâm mấy miễn là đừng để Đạo Thành đứng đầu bá quan là được. Giữa Thái Phi và Thái Úy, ý kiến có đôi chỗ bất đồng. Thái Úy đã khẩn khoản van nài Thái Phi xin trì hoãn cuộc hành quyết, kéo dài ngày sống cho Thái Hậu. Không phải ông đã cảm thấy có gì ám muội không được minh bạch lắm trong lời khai của nội giám Lý Thông hay có chút trắc ẩn nào đối với sự mềm yếu dại dột của bà hoàng họ Dương này. Trong ông, chỉ có một ý nghĩ đơn giản: lúc này cái chết của Thái Hậu có ích lợi gì cho chính sự không? Ông hiểu rằng Thái Hậu đang được lòng cả Hoàng tộc và Thái Phi Ỷ Lan tuy không muốn nhưng cũng bấm bụng chiều lòng Thái Úy, chỗ tựa duy nhất từ nay của mẹ con bà. Vì vậy, mặc dù bản án của Thái Hậu đã được sĩ sư ghi vào sử sách, Thái Hậu vẫn kéo dài chuỗi ngày sống ảm đạm trong cung Thượng Dương.
    Nếu đối với Thái Hậu, Thái Úy còn nương tay thì đối với Thái Sư Lý Đạo Thành, ông càng khe khắt. Ông kiên quyết xin Thái Phi đưa Đạo Thành đi trấn phương xa. Dĩ nhiên yêu sách này của ông được Thái Phi dễ dàng chấp thuận. Nhưng chính Thái Phi cũng chưa hiểu hết được ý đồ sâu xa của ông. Việc của ông làm chỉ mình ông hay ông biết. Người thầy và cũng là người bạn đường tâm đắc duy nhất của ông, vua Lý Thánh Tông đã qua đời. Còn ai hiểu được ông? Còn ai có thể cùng ông nhìn thấy được cái đích trong mai hậu, thường ở ngoài tầm tên bắn…
    Lúc tan chầu, Thái Úy về dinh thì Hạnh Hoa đi thăm quan Tán Kị Thường Hiển, em ruột của Thái Úy, mới ở Châu Ái ra, cũng vừa về đến cổng. Thấy Thái Úy, Hạnh Hoa chạy vội vào: - Cha ơi! Con nghe tin cha bị kẻ gian ám hại trên đường hòe. Thế mà mọi người ai nấy cũng giấu con. Nàng cầm tay cha giật giật: Làm sao cha thoát nạn?
    Hạnh Hoa không biết rằng khi người yêu của nàng vừa rời khỏi Tiên Du thì rợn sáng hôm sau, Thái Úy đã có mặt ở trước điện Hàm Quang. Ở đấy, quan Đô Tri Lưu Khánh Đàm đã chực sẵn đón Thái Úy vào cung Kiều Hoa. Cả đoàn tùy tùng của ông vẫn đi theo chiếc kiệu son không người, đủng đỉnh về sau. Nhưng ông không muốn nhắc đến chuyện ấy, ông chỉ nói với con gái một câu cho qua chuyện: - Cha có chết cũng chết trên yên ngựa kia, chứ cha đâu có chịu chết vì một chút mưu nhỏ của đàn bà.
    - Cha ơi! Tên hèn hạ nào dám bắn lén cha đấy?
    - Chuyện đã qua rồi, con hỏi làm chi?
    - Trời ơi! Sao cha lại nói thế? Con không phải là con gái của cha ư?
    Thái Úy trầm ngâm giây lâu, rồi không biết nghĩ thế nào, ông lần tay lấy ra mũi tên:- Cha cho con biết nhưng con không được tiết lộ vì quan sĩ sư chưa xét đến việc này.
    Hạnh Hoa vồ lấy mũi tên từ tay bố, đưa lên tận mắt. Nàng chỉ kịp kêu lên một tiếng nghẹn ngào cụt ngủn: Lý Ngân! Rồi nàng đổ vật xuống như gốc liễu trước luồng gió dữ.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 6:06 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    PHẦN II - Chương 1


    Hạnh Hoa bị ốm từ lúc chớm thu. Cơn bệnh kéo dài qua suốt mùa đông lãng nhãng theo những trận mưa phùn thâu đêm rả rích. Nàng nằm rũ rượi đưa mắt nhìn những sợi mưa nhỏ mưa như kim đâm nhói vào lòng. Khoảng trống lặng trong lòng nàng cứ lan rộng mênh mông đến tận những bến bờ xa xôi lạ lẫm ở đây cũng mưa dầm ủ rủ.
    Nhưng mùa Xuân tuyệt đẹp của năm Quý Sửu đã đến với nàng như một liều thuốc hồi sinh, có sức kéo nàng ra khỏi giường bệnh. Sức lực trong cơ thể trẻ trung của nàng bỗng trỗi dậy giành lấy tiếng nói cuối cùng. Và hôm nay lần đầu tiên nàng đặt bước ra đường về phường Thái Hoà thăm quê Thái Úy, tiện thể xem lễ phóng thích chim sâm cầm.
    Con ngựa bạch lâu ngày vắng chủ thấy nàng bỗng cất tiếng hí vang. Nàng thót lên ngựa và ngạc nhiên cảm thấy thân mình như cánh chim. Mọi vật chung quanh đối với nàng đều mới mẻ. Bầu trời Xuân dát một lớp mây lụa ánh sáng chia đều tỏa khắp, một thứ ánh sáng ngọt dịu đê mê. Chùm lá bồ đề nhỏ lăn tăn kết lại đong đưa như mái tóc thề. Cả những gốc cây cụt ngọn ngày nào còn chìa bộ xương khô trên nền trời u ám nay cũng đưa cánh tay khẳng khiu lên cố vơ một túm lá non như đang kêu lên với nàng: "Lá về đây, mùa Xuân về đây! Mau đến chia phần!".
    Hạnh Hoa cảm thấy rõ rệt trong mỗi thân cây đứng lặng bên đường cũng đang có gì khao khát rạo rực như trong lòng nàng. Chắc hẳn phần lớn huyền thoại tình yêu đẹp nhất của dân tộc cũng bắt đầu nảy sinh từ một ngày xuân nắng ngọt như thế này.
    Hạnh hoa quay sang lão Vũ đang đóng cương đi lặng lẽ bên nàng:
    - Lão Vũ, trong lúc ta ốm, không biết trong triều có chuyện gì mới không?
    - Có chứ. Thái Phi Ỷ Lan đã được phong Thái Hậu Linh Nhân thay bà Thượng Dương cầm quyền nhiếp chính. Còn ông nhà thêm hàm Thượng phụ công làm Tể Chấp phụ chính, cầm đầu văn võ bá quan, coi sóc cả mọi việc ở cấm đình.
    - Sao lâu nay ta thấy cha ta kém vui?
    - Là vì ... ông nhà trăm công nghìn việc, bận bã tối ngày ...
    Lão Vũ có phần đúng. Cuộc chính biến năm trước lúc đầu cồn lên như sóng; giờ đây đã lắng xuống. Thái Úy nắm chặt dây cương chính sự, cải tổ lại hành chính. Triều đình đang thay da đổi thịt. Người dân kinh thành cũng dễ quên và không hay tò mò đến chính sự. Họ nhòm vào bữa ăn đời sống hàng ngày và nhìn vào lòng trời mà đo tài đức của kẻ trị vì. Mà trời thì đang thuận mưa vừa vừa gió, chúng dân trúng mùa. Không có điềm gở xảy ra. Sét không đánh sập mái cung nào, quạ không bay về kêu trên điện ngọc, hoa tre không trổ trên các đường thôn . Trời như cũng thuận lòng người báo trước một thời thái bịnh thịnh trị.
    Nhưng trong triều người ta lại không dễ quên. Mật đắng đọng lại trong lòng hoàng tộc và các vị lão thần. Đem cả vận mệnh đất nước, giao phó vào tay một viên quan trẻ mà lại hoạn quan như Thái Úy, điều chưa hề có trong lịch sử nước nhà - trách sao lòng họ tránh khỏi lo âu day dứt, mà quyền hành càng tập trung vào Thái Úy thì mũi nhọn của họ càng chĩa vào Thái Úy. Họ ngồi im, chờ đợi, đưa cặp mắt không lấy gì làm thiện cảm theo dõi từng việc làm nhỏ của Thái Úy ... Những điều ấy, Hạnh Hoa đâu có biết. Nàng quay lại định nói gì thì lão Vũ đã nhanh nhẹn ném chiếc nón chóp buông tua ngũ sắc vào tay nàng.
    - Trời sắp mưa đấy!
    Hạnh Hoa ngẩng đầu nhìn lên. Trời đã xuống thấp. Những hạt mưa li ti mờ mờ như bụi ở tít tận đâu trên cao, sà xuống thành hạt, lững lờ rối rít, vương vương như vừa đủ mát cho lớp đất khô mịn bốc lên một mùi thơm nồng ngây ngất. Rồi bỗng chốc mặt trời lại ló ra. Nắng ngọt lại chan hòa ... Khướu sáo đang ru rú gù nhỏ trong cánh rừng Thái Hòa bỗng choàng dậy cất cao tiếng hót. Cả những loại chim không tốt giọng cũng cố đằng hắng dọn cổ để đua hơi. Hạnh Hoa cũng cảm thấy khao khao trong cổ họng. Nàng vụt roi cho ngựa lồng lên, vô cớ cười ngặt nghẽo rất bất thình lình nghìm cương lại.
    - Lão Vũ, lão thử đoán xem hôm nay ai là kẻ vui nhất.
    - Chim sâm cầm.
    - Ai rồi, chính ta, bé Hạnh mới là kẻ vui nhất. Còn ai là kẻ buồn nhất lão biết không? Các bà cung nhân già đấy. Vì còn lấy đâu ra lông chim sâm cầm để nhồi gối nữa phải không nào?
    Thấy lão Vũ lặng im, Hạnh Hoa lại liến thoáng:
    - Không hiểu thịt chim sâm cầm có gì ngon mà cha ta thích đến thế?
    Lão Vũ đủng đỉnh đáp:
    - Thịt chim này thơm mềm, như nhai vào miệng vị ngọt đã túa khắp chân răng
    - Còn ta thì ta chỉ thích nhai cặp giò nó thôi.
    - Thế thì cô bé ăn khôn đấy. Vì loại chim này phải bay hàng vạn dặm, đôi chân không ngớt quạt gió trên không nên chất tinh bổ đều dồn xuống ở đấy.
    - Ta chả ưa mềm mà cũng chả chuộng bổ. Ta chỉ thích nhai cái gì giòn tan trong mồm thôi - Và nàng cất lên một chuỗi cười cũng giòn tan.
    Cái vui dễ lây của cô gái khiến lão Vũ nhếch một nụ cười nửa miệng.
    - Có điều ta không hiểu tại sao cha ta nghiện ăn thịt chim sâm cầm mà bỗng dưng lại đi thả chim sâm cầm.
    Nụ cười vừa lóe lên bỗng tắt ngấm trên môi lão Vũ. Mặt lão đanh lại. Chuyện phóng thích chim sâm cầm là do một sự tình cờ ngẫu hứng của Thái úy nhưng đâu phải chuyện đem ra để tán ngẩu ... Lão Vũ nhớ lại cái hôm Thái Úy được tin triều Tống đã rút viên biên thần Tiêu Chú về kinh và bổ nhiệm một viên quan khác tên Thẩm Khởi xuống thay Tiêu Chú. Lão có cảm giác rõ rệt như làn da nhạy cảm trên người Thái Úy căng ra sẵn sàng đón nhận từng hơi gió lạnh từ phương Bắc thổi xuống. Liệu đây có phải là làn gió báo hiệu trận bão lớn sẽ ập đến nay mai. Luồng tin mật từ Hán Dương còn báo thêm có một tên Vệ Uông nào đó ở đất Việt cưỡi thuyền vượt sóng về tận Biện Kinh gặp tể tướng Vương An Thạch để hặc tội Tiên Chú đã dìm thư của y. Hắn ta còn xui giặc Tống nên đánh gấp Giao Châu vì theo hắn, đây là thời cơ thuận lợi nhất.
    - Lại Vệ Uông! Nhưng Vệ Uông là ai, Thẩm Khởi là người thế nào, điều này phải soát kỹ cho ta - Thái Úy nhìn lão Vũ rồi nói tiếp - Tên Vệ Uông này khá nguy hiểm đấy. Hắn bảo Tống đánh ta lúc này là đúng thời cơ, điều đó không phải không có lý. Nhưng hắn quên rằng liệu Tống đã có thời cơ để dự bị đánh ta chưa? Tiếp theo câu nói là giọng cười gằn của Thái Úy
    . Thái Úy hiểu rằng nhà Tống hiện nay chưa phải đã rỗi tay để nhòm ngó phương Nam. Cái nước Liêu mà người Tống quen miệng gọi một cách miệt thị là rợ Khiết Đan đã lớn mạnh và trở thành một nớc lân bang ở phương Bắc. Hai lần Tống đánh Liêu đều bại. Một lần Liêu đánh Tống cũng bị thua. Hai bên ngang tài ngang sức. Họ đành hòa hiếu với nhau. Lập đàn thể thân thiện ở Đàn Uyên. Nhưng từ trong làn sương mù dày đặc ở vùng núi phía Tây, nước Hạ lại nhô ra với gương mặt bừng bừng sát khí. Chúa của Hạ theo Liêu, lấn đất Thổ Phồn rồi xưng đế. Quân Hạ liên tiếp quấy nhiễu Tống suốt dọc biên thùy Tây Bắc. Và Liêu cũng được thể, lớn tiếng yêu sách Tống nhiều điều. Hơn ba mươi năm nay, nước Liêu như mụ đàn bà đanh đá chua ngoa, hướng về đất Tống xắn váy quai cồng, không ngớt ngoạc mồm xỉa xói nay kể nợ kể nần mai đòi tiền đòi đất. Các danh tướng và phần lớn quân thiện chiến của Tống đều bị đóng đinh trên đất phương Bắc để chống Hạ phòng Liêu.
    Hiểu rõ tình cảnh ấy, ngay từ lúc mới chân ướt chân ráo về triều, Vương An Thạch đã theo kế của Vương Thiều đưa quân đánh Thổ Phồn để chặt bớt cánh tay của Hạ. Quân Tống chiến được đất Hi Hà nhưng chinh chiến vẫn dây dưa mãi đến nay chưa dứt.
    - Chẳng lẽ việc Hi Hà đã xong rồi ư? Thái Úy thầm tự hỏi. Gương mặt ông như mờ trong sương. Hiện tình Thái Úy đang bận tay sắp xếp nội chính, chỉnh đốn quân ngũ. Không để chiến sự xảy ra. Phải nghĩ được kế sách hòa hoãn...
    Thái Úy đứng lên, lững thững bước ra cổng phủ. lão đầu bếp đi chợ về tươi tỉnh chào Thái Úy rồi đưa cái lồng chim lão đang xách trên tay:
    - Hôm nay con sẽ làm cho cụ lớn một món ăn thật thích khẩu.
    Thái Úy chăm chú nhìn lồng chim như mới thấy lần đầu:
    - Thế ngươi có biết giống chim này ở đâu ra và tại sao họ lại gọi là chim sâm cầm?
    - Dạ, thưa cụ lớn, là vì giống chim này ăn sâm ạ. Mà phàm đã ăn sâm là ở phương Bắc, nghe đâu tận nước Liêu cơ.
    - Nước Liêu! Ờ nhỉ - Thái Úy thò tay vào lồng chim bắt một con xoa xoa đôi chân vịt đỏ như son rối bất ngờ buông tay. Chim vỗ cánh bay. Người đầu bếp á lên một tiếng tiếc rẻ.
    - Ta không buột tay đâu. Nó là con chim ở tận nước Liêu đến làm khách nước ta nên ta thả đó.
    Thái Úy lại lôi thêm một con nữa ra, vuốt bộ lông cánh mịn màng một màu nhưng ánh tím - Này ta không hiểu con chim này ở bên Liêu sang ta làm gì nhỉ. Ở ta có sâm đâu?
    Được Thái Úy hỏi đến, người đầu bếp già có dịp thao thao giảng giải:
    - Dạ theo lời các cụ đời trước kể lại thì loại chim này biết ăn, biết ở lắm. Mà cái xứ phương Bắc ấy hễ mùa lạnh đến là rét kinh người, rét đến mức đưa tay vào ngọn lửa cũng không thấy nóng. Tuyết phủ kín trắng như bông không tìm đâu ra một thứ gì ăn được trên mặt tuyết cả. Vì vậy, trước khi trời rét, tuyết sắp rơi là các chú chim sâm cầm trai tráng chọn những củ sâm mập nhất tộng vào miệng các con chim con và chim già rồi ra đi trốn rét. Như vậy mỗi con chỉ ngậm một củ sâm để lấy sức bay qua miền đại lục xa hàng vạn dặm.
    - Ngậm một rễ sâm thôi - Thái Úy chữa lại.
    - Dạ vâng một nhánh sâm con thôi, các cụ cũng nói thế. Chim bay về phương Nam, hạ cánh quanh các đầm hồ ở ta để sưởi nắng ấm. Còn lũ chim non chim già ở nhà nhờ sâm mà qua được mùa tuyết vùi để gặp lại bọn trai tráng bay trở về cứu giúp.
    Con chim trên tay Thái Úy bay vụt lên. Thái úy mở rộng nắp lồng. Những con chim còn lại trong lồng lần lượt cất cánh. Lão đầu bếp sững sờ đứng đực người ra. Lão hết đưa mắt ảm đạm nhìn chiếc lồng chim trống không rồi lại lấm lét nhìn sang Thái Úy đang đứng ngẩng đầu mơ màng dõi theo cánh chim bay.
    Giây lâu Thái Úy quay lại bảo:
    - Này, ngươi đừng tiếc nữa. Chả lẽ những con chim hiếu thảo biết thương già nhường trẻ như thế lại không đáng cho ta tha tội chết hay sao?
    Thấy dáng bộ của người đầu bếp còn tiu nghỉu như mèo bị cắt tai, Thái Úy mỉm cười vỗ vai tiếp:
    - Không mất đâu cả. Lũ chim ấy sẽ là sứ đoàn mang lại thái bình cho dân ta đấy. Thôi, ngươi chịu khó tìm cho ta món ăn khác vậy.
    Mấy hôm sau có lệnh truyền cho khắp bàn dân kể cả nội đình cấm không một ai được đánh bắt chim sâm cầm. Viên tùy tướng trẻ tuổi chạy long tóc gáy đi tập hợp các phường săn chia nhau về các sông hồ giăng bẫy tìm bắt sống cho kỳ hết chim sâm cầm đem về nộp cho Thái Úy. Còn bản thân Thái Úy cũng đích thân đi chọn mấy chục viên lại ở các bộ, có hoa tay viết chữ đẹp mang về giao cho lão Vũ. Vì vậy là việc cơ mật nên lão Vũ. Vì đây là việc cơ mật nên lão Vũ nhốt họ vào ngôi nhà kín để tránh mọi con mắt tò mò. Và ngay đêm ấy tại tư phòng dưới ánh đèn khuya, ngọn bút của Thái Úy thảo vội mấy câu thơ thần:
    - Tống triều tham địa
    Mưa ư Nam Phương
    Thụ vạn tai ương
    Dẫn Liêu nhập cương
    Đại ý:
    ( Triều Tống tham đất
    Mưu sự ở phương Nam
    Chịu muôn vàn tai ương
    Đưa Liêu vào đất Tống)
    Bốn câu thơ ấy được bọn viên lại suốt ngày đêm gò lưng hí hoáy khắc trên những tấm thẻ bài nhỏ xíu bằng bia phất cậy ngoài có quết kim nhũ óng ánh. Cứ mỗi con chim. chân đeo một thẻ bài. Và từng tốp chim sâm cầm được bí mật thả ra lần lượt bay về phương Bắc.
    Không hiểu những điều phao ngôn ấy từ miệng người nào nói trước, ngay từ lúc lệnh cấm bắt chim vừa ban ra. Nhưng phe chống đối Thái Úy chỉ đợi có thế. Người ta đồn nào Thái Úy chiếm mọi quyền hành, quyền nghiêng thiên hạ, chỉ cần phẩy tay là ngôi vua lật đổ, nào ông ta thích thịt sâm cầm là không ai được mó vào chỉ để riêng nhà ông ta hưởng, nào đó là triệu chứng độc quyền sắp đổi đời vua. Câu chuyện cứ giăng giăng cửa miệng. Lời đồn đại ác độc này như làn khói mù hình lưỡi rắn trườn ra trên mặt đất lan nhanh vào tận cung đình – Nhưng rồi đám khói độc ấy cũng tan nhanh trước tin lễ phóng thích chim sâm cầm để cầu phúc cho muôn dân và mừng trăm họ được mùa. Lễ thả chim đã thực sự làm tắt ngóm mọi lời bình phẩm ác ý trên những miệng lưỡi rắn rết còn xầm xì đó đây trong các góc tối ở cung đình.
    Nhưng dụng ý thả chim của Thái Úy Lý Thường Kiệt đâu chỉ có vậy. Và cũng không một ai rõ được tác dụng của nó ra sao khi những con chim hiếu thảo ấy bay về đến đất Liêu. Không hiểu sắc vàng nhũ kim óng ánh trên chân chim có thu hút được sự chú ý của một vài dân Liêu và có chiếc thẻ bài nào mang bốn câu thơ thần của Thái Úy lọt đến tay vua Liêu không. Chỉ biết một điều là qua đầu năm sau, nước Liêu lớn tiếng đòi Tống nhượng thêm đất ở phần Thủy Lĩnh. Biết đâu trong tiếng kêu đòi đất gắt gao của Liêu lại chẳng có tiếng chim sâm cầm được thả về góp giọng? Sử sách không nhắc đến việc này và chỉ ghi vắn gọn là chuyệnđòi đất quyết liệt của Liêu cộng với nhiều nfguyên cớ khác đã buộc Vương An Thạch phải tự ý rút lui khỏi ghế Tể Tướng vào tháng tư năm Giáp Dần.
    Đó là chuyện về sau, còn lúc này lão Vũ đang gục đầu tặc lưỡi. Có lẽ lão tiếc rẻ chuyện thả chim sâm cầm thú vị đến thế mà lão biết tường tận lại không thể đem ra để mua vui cho cô gái vừa ốm dậy. Lão bực dọc đáp cho xuôi chuyện:
    -Thái Úy phóng thích chim sâm cầm là ể cầu phúc choc ô nương khỏi bệnh.
    -Lão khéo nói dối để làm vừa long ta - Hạnh Hoa cười khói chí – Ta biết tỏng cha ta thả chim để cầu phúc cho muôn dân.
    -Chẳng lẽ trong cái muôn dân ấy lại không có bé Hạnh ư?
    -Ôi! Về tài chống chế thì ta chịu lão đấy.
    Ngựa đã đến gần cái sân gạch rộng trước ngôi nhà cũ của Thái úy. Người cháu họ xa của Thái Úy hiện đang coi sóc ngôi nhà này đon đả chạy ra đón khách. Câu chuyện thù tạc trà nước qua nhanh, ông ta bắt đầu dần dà nhắc lại kỷ niệm tuổi ấu thơ của Thái Úy. Ông ta dắt lão Vũ lại gần cây cột lớn ở chái tây, trỏ tay vào vết cháy sém to tướng hình thuôn trên thân gỗ chò, thuật lại câu chuyện cũ:
    -Hôm đó, bác tạ Đức trao cho chú Tuấn nhà này mấy cuốn binh thư. Chú ôm lấy sách đọc thâu đêm suốt sáng. Đến khoảng cuối canh ba, chừng như quá mệt mỏi, chú thiếp đi. Đĩa đèn cạn mỡ bùng ngọn cháy lém lên chiếc quạt long treo cột bên án thư. Quạt cháy sạch mà chú Tuấn vẫn không hay biết gì. Sau này chú ấy lấy dây buộc tóc lên xà nhà. Hễ mỗi lần ngủ gật, tóc lại giật đánh thức chú tỉnh lại. Ôi! Lúc trẻ chú ấy ham đọc sách như kẻ máu mê trên chiếu bạc. Ông bố tôi thường mắng lũ tôi là sao không biết học gương chú Tuấn….
    Qua câu chuyện kể của người cháu Thái Úy, tuy đã già nhưng thuộc dòng thứ, lần đầu Hạnh Hoa mới được biết tên tục của cha nuôi mình. cả một mảnh đời niên thiếu trong xanh của Thái úy như hiện ra trước mắt nàng. Thì ra chú bé Tuấn ngày ấy đã sớm có chí khí hơn người. Ngày lo tập cưỡi ngựa bắn cung, lập doanh bày trận, đêm lại miệt mài đọc sách. Thấy vậy, ông Tạ Đức, chồng cô ruột Tuấn đem long yêu, gả cháu gái cho Tuấn. Tuấn lấy vợ lúc mười sáu tuổi. Nàng Tạ Thuần Khanh xinh người đẹp nết ấy, có một mái tóc đen mượt dài chấm gót. Thương vợ, Tuấn thường chỉ biết xòe tay nâng mái tóc vợ lên lúc vợ gội đầu. năm sau nàng Khanh có chửa. Theo đúng như lời cháu họ Thái Úy kể thì “người chửa là cửa mả”. Và trong lần sinh nở đầu tiên ấy, nàng Khanh không đủ sức vượt cạn. Cả hai mẹ con đều chết. Suốt đêm ấy, Tuấn ngồi ôm xác vợ gỡ từng sợi tóc rối cho vợ…
    Tuy lão Vũ đã mấy lần giục Hạnh Hoa đi xem lễ cho kịp giờ thả chim nhưng Hạnh Hoa vẫn chần chừ. Cái chết của Thuần Khanh, người vợ yêu của Thái Úy cứ ám ảnh nàng. Số kiếp mỏng manh của đời người con gái ấy làm nàng bần thần và bất giác thấy lòng buồn rượi. Nàng tha thẩn ra vườn, lần vào gian nhà sau đến ngồi xổm trước bếp. Tro tàn vung vãi, bếp núc lạnh tanh. Trên góc tường ám khói lâu năm những mảnh váng nhện không biết giăng tự năm rào đã bị ngọn gió hồ Dâm Đàm thốc vào xé rách bươm trông tả tơi, toang hoác. Đó đây lơ thơ sót lại dăm sợi tơ bền nhất còn vương. Nắng xế bơ thờ loang lổ chiếu qua song cửa rọi sang những đường tơ nhện đơn côi ánh lên một màu bạch phếch. Rầu rầu, Hạnh Hoa tự nhủ:
    -Thế đấy, bao giờ cũng còn một vài sợi. Chắc hẳn những sợi này, nhện đã rút trong ruột mình ra từ nơi sâu kín nhất nên nó bền chặt nhất. Gió mưa mấy cũng không dứt được. Nghe tiếng chân lão Vũ bước đến, Hạnh Hoa quay lại. Gương mặt buồn thiu của nàng như nói với lão:
    - Lão được tin tức gì về Lý nGân không? Chẳng biết bây giờ chàng ở nơi chân mây góc biển nào? – Trong những trường hợp như thế, lão Vũ thường im lặng gục gặc dầu.
    - Vũ nhi đâu?
    Nghe tiếng Thái Úy gọi, lão quay quả bước lên nhà trên. Vừa trông thấy lão, Thái Úy đã nói ngay:
    -Vũ nhi! Con có việc gấp phải về quê đấy.
    Hạnh Hoa đi sau lão Vũ bỗng reo lên :
    -Cha ơi ! Cha cho con đi theo lão Vũ nhé! Cha đã chẳng hứa khi nào con khỏi ốm, cha sẽ cho con đi một chuyến chơi xa ư?
    Thái Úy cùng lão Vũ, hai người cũng thấy trước rằng Hạnh Hoa cần có một chuyến đi chơi xa cho khuây khỏa để dứt hẳn bệnh tâm của nàng.
    Song chuyến đi này của lão Vũ. Hồi lâu lão Vũ ý tứ gật đầu. Thái Úy nhìn Hạnh Hoa nghiêm giọng:
    -Được, lần này ta cho con đi chơi. Nhưng cấm tự ý tự quyền mọi việc con phải tuân theo lời lão Vũ.
    Hạnh Hoa mừng rơn suýt nhảy cẫng lên. Nhưng nói xong Thái Úy quay lưng bước vội ra cáng.
    Lúc Hạnh Hoa và lão Vũ vừa lên ngựa ra về thì có tiếng trống chiêng lẫn trong tiếng reo hò ầm ĩ. Nàng ngẩng đầu lên vừa kịp thấy một bầy chim sâm cầm từ núi Thái Hòa bay vút ra hồ Dâm Đàm. Nàng nhìn theo những cánh chim lấp lóa mãi cho đến lúc chúng biến mất sau làn nước hồ mông mênh xanh nghít, rồi quay sang nhìn lão Vũ.
    Hình như lão Vũ thấy thoáng trong mắt nàng một ánh cười tinh nghịch.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 8:05 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 2


    Chuyến đi chơi xa của Hạnh Hoa bắt đầu sau chầu gà gáy canh tư. nàng đứng dưới gốc hạnh trông lên, cây hạnh trước đây gợi ý cho cha nuôi đặt tên nàng tự lúc nàng mới về làm con họ Lý. nàng nhìn những lá hạnh đen kịt như những vệt mực tàu đậm đặc nổi bật trên nền trời đêm bàng bạc.
    Nàng không biết sẽ đi đâu, về đâu, chơi ở chốn nào. Thái Úy dặn "cứ đi theo lão Vũ"! Điều ấy không hề làm nàng phật ý. Trái lại, nó khiến thêm náo nức. Thậm chí cái không khí cơ mật bao trùm lên chuyến đi này càng làm nàng thích thú. nàng tưởng tượng thấy như mỗi lần nàng bừng mắt dậy là bắt gặp ngay những cảnh lạ bất ngờ đến đón nàng.
    Lão Vũ đã thu xếp hành lý xong xuôi. Nhìn lão xúng xính trong bộ quần áo phú thương sang trọng nom lạ hẳn đi, nàng cười khúc khích. Còn lão thì vẫn cứ thản nhiên trước lối ăn vận nam trang công tử nhà quan của nàng. Trời mới tang tảng rạng đông, thuyền đã động chèo.
    Hạnh Họa ngồi trong khoang giữa. Con thuyền lướt sóng êm ru đưa nàng đi vào một giấc mơ chưa có bến. Đêm ấy thuyền đi dưới ánh trăng non. Nàng ngồi nhìn làng chạ ven sông ngủ lặng, lắng nghe tiếng chó đêm sủa bóng thuyền khuya. Sớm tinh mơ, thuyền ghé vào một bến lạ. Hình như bọn chân sào có việc phải lên bờ. Đột nhiên, ở đâu đấy một tiếng hát lạ cất lên. Điệu hát thì tươi vui réo rắt nhưng giọng hát lại quá đỗi buồn bã thê lương. Tiếng hát có sức kích thích óc tò mò, khiến Hạnh Hoa lần ra sau lái, nhẹ nhàng nhảy lên bờ theo dọc sông, men dần đến nơi phát ra tiếng hát. Một bờ tre rậm chạy thẳng ra bậc sông lở, chắn ngang lối đi. Là con nhà võ, Hạnh Hoa luôn luôn thủ trong mình một cuộn dây gân thú có móc hai đầu. Nàng ném đầu dây l^n nhành tre cong rồi đu người sang bên kia. Xa xa một cô gái ngồi trên tảng đá quay mặt ra sông tay cầm một que tre vừa đập nhịp vừa hát. Tính tình nghịch nổi lênn, Hạnh Hoa chạy sầm sầm đến trước mặt cô gái, tay chống nạnh nhìn chầm chầm vào mặt nàng ta. Thấy chàng trai lạ, cô gái hoảng hốt ríu lưỡi lùi ra xa rồi ù té chạy. Hạnh Hoa nhìn theo cười ngặt nghẽo.
    Lúc về thuyền, tuy bị lão Vũ càu nhàu, nàng vẫn vui vẻ nói:
    - Giá lão còn trẻ, ta sẽ làm mối cô gái ấy cho lão.
    - Tôi không lấy người Phật Thệ đâu!
    - Quanh đây là làng Sen nơi định cư cho các cô gái Chiêm bị bắt trong trận Tiên Đệ đánh Chiêm năm Kỷ Dậu.
    - Trông họ, chẳng khác gì người mình mấy. Chỉ phải cái môi hơi thô, mũi hơi to và tẹt hơn một tí thôi. À ra thế!
    Bây giờ Hạnh Hoa không còn ngạc nhiên về cái giọng não nùng trong tiếng hát của cô gái Chiêm Thành nhưng lại ngạc nhiên vì lão Vũ - Sao lão biết nhiều đến thế?
    Bây giờ Hạnh Hoa không còn ngạc nhiên về cái giọng ,ão nùng trong tiếng hát của cô gái Chiêm Thành nhưng lại ngạc nhiên vì lão Vũ - Sao lão biết nhiều đến thế?
    Hạnh Hoa không còn ý thức được ngày giờ nữa. Có lúc thuyền qua những cảnh khói mây núi non mịt mùng, vượn kêu chim hót, nàng cứ ngỡ sống trong mây.
    Lúc nàng rời thuyền bước lên bờ thì đã có người đem ngựa chực sẵn. Họ dẫn nàng đến một trang viện kín đáo ẩn trong hàng rào cao kiên cố cây lá um tùm. Đằng trước trang viện là một cửa hiệu thuốc bề thế của họ Vũ. Chủ cửa hiệu thuốc là một người còn trẻ, mặt mũi sáng sủa dáng dấp nho nhã và cũng ít lời như lão Vũ. Qua cách xưng hô, nàng hiểu ra người này là chú em ruột của lão. Ông em tiếp đãi nàng và ông anh quá sang trọng, chu đáo. Lão Vũ dặn nàng đừng đi chơi xa và đột nhiên lão đi mất hút liền hai ngày đêm để " thăm bà con". Nhưng nàng ở nhà cũng không thấy buồn. Nàng đã được xem cảnh lạ đến chán mắt và cũng đang cần nghỉ ngơi. Ngày thứ ba, lão Vũ trở về vui vẻ bảo nàng:
    - Ôi! Bé Hạnh thật là tốt số. Sáng mai là mở đầu phiên chợ lớn nhất trong một năm tại trạm Nghi Hòa. Khách buôn ở khắp nơi đổ về đông như kiến. Họ từ đất Ba Thục xuống, từ các đạo Đặc Ma qua, cả lái buôn Quảng Châu và quảng Nguyên cũng kéo đến. Trên thì trời dưới thì hàng hóa, thượng vàng hạ cám, tha hồ cho bé Hạnh mua sắm nhé.
    - Thế châu Quảng Nguyên họ bán những gì nào?
    - À, có vàng bạc, chu sa, diêm tiêu ...
    - Ai cần mua những thứ khỉ gió ấy làm gì?
    - Không mua bán thì ta đi xem vậy. Bé Hạnh không muốn xem chợ biên thùy sao?
    Hạnh Hoa nhoẻn miệng cười đáp:
    - Có chứ!
    Trước khi đi xem chợ, lão Vũ cắt nghĩa tường tận cho Hạnh Hoa nghe. Nơi đây là góc đất hiểm hóc kề cận cương giới hai nước Tống - Việt. Để tiện lợi việc trao đổi hóa vật giữa đôi bên và các nước láng giềng khác, hai nhà Tống - Lý cùng thỏa thuận lập trên biên giới những trạm buôn nổi tiếng như trạm Giang Đông ở ngoại thành Khâm Châu hay trạm Hoành Sơn gần châu Quảng Nguyên, trạm Nghi Hòa này là một bạc dịch trường quan trọng. Đó có mặt đủ loại người bất hảo, những tên lái buôn đầu trâu mặt ngựa ăn sóng nói gió, những phường đầu trộm đuôi cướp giết người không ghê tay và trà trộn vào đấy là những tên do thám đầu sỏ lợi hại của nước ngoài. Vì vậy cần phải ý tứ giữ gìn thận trọng.
    Hạnh Hoa ậm ừ nghe cho qua việc. Thâm tâm nàng đang háo hức muốn đi ngay.
    Chưa đến nơi mà tiếng chợ đông đã nghe ầm ì như sóng biển. Từ phút đầu tiên đập ngay vào mắt nàng là những bộ áo xiêm rực rỡ đủ màu của các bộ tộc man dân lấp lóa quay cuồng trong náng. Những mảnh xanh đỏ tím vàng đậm sắc không ngớt chuyển động ấy làm nàng đến hoa mắt. Đứng xa nhìn bạc dịch trường, Hạnh Hoa có cảm giác như đứng trước một chiếc đèn cù khổng lồ phất vô vàn mảnh giấy vụn màu sặc sỡ đang quay.
    Khu chợ rộng mông mênh mà vẫn không đủ chứa những đợt sóng người lũ lượt kéo đến. hạnh Hoa đứng tần ngần ngắm giấy bút nghiên mực bày la liệt ở các cửa hàng xén. Ôi! Giấy mịn làm sao và thỏi mực láng bóng trông ngon mắt làm sao. lại còn cả gương lược, trâm cài đủ loại. Đằng góc đình Nghi Hòa, những súc vải Vũ Duyên khổ hẹp và lụa La Vân chất lên nghễu Nghện. Ở một góc khác, những sọt muối trắng tinh từng 25 cân một xếp lại thành đống cao như núi.
    Trước đình, dãy nhà phía nam, chứa đầy tiền đồng, trầm hương, thục hương. Có cả ngà voi, trân châu, sừng tê giác. Nhưng Hạnh Hoa không màng để mắt đến mặc dù tiếng mà cả nhau ở đây vang lên như sấm. Mắt nàng dán vào những miếng gấm treo ở dãy hàng đối diện phía Bắc, nơi ngồi chễm chệ những nhà đại thương đất Thục. Hình như có ai giật nhẹ vào chéo áo nàng. Một bà già mặt mũi đen đúa chìa vào tận mặt nàng những xấp thổ cẩm:
    - Hàng vải xứ Đại Lý đấy! Quan khách hãy mua một tấm tặng ngưòi ý trung nhân. Đến đời con đời cháu, vải còn bền, sợi rách mà màu vẫn tươi nguyên.
    Hạnh Hoa lắc đầu tỏ ý không mua rồi quay sang lão Vũ:
    - Sợi rách mà màu còn nguyên. Rõ thật nói ngoa!
    - Không ngoa đâu. Họ có nhuộm phẩm đâu mà sợ bay màu!
    - Thế nhuộm bằng gì?
    - Bằng cứt cánh cam.
    - Họ tìm ra tổ cánh cam à?
    - Không, loại cánh cam này họ nuôi trong nhà.
    Hạnh Hoa thích thú hỏi tiếp:
    - Nuôi bằng gì nhỉ?
    - Bằng lá núc nác hoang.
    Lạ thật! Lão Vũ này cái gì cũng biết. Vừa nghĩ thế, nàng vừa tiến bước ra hướng bờ sông, nơi có tiếng ngựa hí vang lừng. Khu chợ ngựa chia từng ô nhỏ nằm trên bờ sông con. Bên kia sông phía bờ Bắc là đất Tống thuộc trại Vĩnh Bình. Bọn lái ngựa vừa cho ngựa uống nước vừa mà cả với khách mua. Trong bạc dịch trường, có lẽ chợ ngựa là nơi hấp dẫn Hạnh Hoa nhất. Nàng nhìn không chán mắt đàn ngựa giống Đại Lý, con nào cũng mập khoẻ, mông đầy, bốn vó chắc nịch như bốn cột sắt. Một gã khách buôn bảo lão Vũ:
    - Trông ngựa thật mà về đến nhà hóa ngựa giả. Nghe câu nói lạ tai, Hạnh Hoa chen vào:
    - Sao lại thế hả bác?
    - Quả thế đấy, tôi nói không sai - gã quay sang Hạnh Hoa với một giọng kẻ cả - Tôi đã từng mua một con ngựa béo tốt tròn căng hơn những con này. Lúc dắt về đến sân quay nhìn lại thì ôi thôi ngựa đã khụy chân, bụng tóp meo ngả rũ xuống như tàu lá rách. Thì ra cái tên lái buôn lèo lá ấy đã lấy ống trúc thổi vào lỗ đít ngựa cho bụng phình ra rồi đút nút chặt lại. Đi dọc đường nút rơi ra lúc nào không hay - Gã kể câu chuyện khó tin ấy với một bộ mặt thật thà như đếm. Nhưng Hạnh Hoa lại tưởng thật, sán lại gần chỗ mấy conngựa nòi để xem ngựa có bị đút nút hay không - Một tên lái ngựa lực lưỡng mặt mũi dữ dằn, xông ra túm lấy người nàng. Hạnh Hoa nhích mình tránh khỏi, quắc mắt để tay vào đốc kiếm. Nhưng lão Vũ đã bước ra nói một thôi một hồi những tràng tiếng lúi lo khiến tên kia thay đổi hẳn thái độ hướng về phía nàng, gượng gạo chắp tay như để tạ tội. lần này lão Vũ đã làm nàng ngạc nhiên quá đỗi. Không kịp để nàng suy nghĩ, lão Vũ đưa nàng vào một quán ăn ở ven chợ. Lão nói to:
    - Tôi đói lắm rồi công tử ạ. Phải kiếm cái gì lót bụng đây.
    Trong quán, khách ăn ngồi chật ních. Khói bếp ùn ùn tỏa ra cuộn vòng thơm lừng mùi thịt nướng. Lão Vũ khoát tay gọi gã hầu bàn đem đến một can rượu với mấy món thịt nai. Một giọng nói ồm ồm vang lên từ giữa đám khách thương ngồi ở góc nhà:
    - Ông bạn ơi! Liệu trầm của ông có tẩm muối hay đổ chì vào để nó chìm không đấy? Người ngồi ối diện cất tiếng cười ha hả đáp:
    - Thế ra bố quên mấy lần con ăn hàng thuốc giả của bố mà miệng cứ câm như hến đấy sao. sau đấy, có tiếng ghế đẩy soạt rồi hai người khách thương đứng lên bước ra đầu bàn, một già một trẻ. Họ trịnh trọng dang thẳng cánh đập chát vào tay nhau ba lần rồi cười hô hố trở về bàn, lớn tiếng gọi thêm rượu thịt.
    Lão Vũ kề miệng nhỏ vào tai Hạnh Hoa;
    - "Thế là hai bên đã ngã giá rồi. Bây giờ dù có ai trả cao bằng trời họ cũng không dám thất tín". Những cảnh lạ mắt này làm Hạnh Hoa thích thú đến quên cả ăn. nàng lại đưa mắt nhìn một mụ đàn bà to lớn, béo ị, mặt rỗ nhằng nhịt vừa đi đến trước quầy. Mụ ta nhẹ nhàng hạ cái thúng to tướng đựng đầy thịt nai ở trên đầu xuống. Gã chủ quán cởi trần trùng trục đứng sau quầy thò đầu ra hỏi:
    - Có đủ cân không? Hay lại cân gian như lần trước? Mụ ta tru tréo:
    - öi giời ơi! Ai thèm cân gian để lúc chết cái cân cái đấu chà đi xát lại trên mặt, chết không nhắm mắt được. Chỉ có nghề bụi đầu nhọ tay như cậu mới ăn bớt khách hàng nên cậu mới béo đẫy ra thế kia. Hạnh Hoa suýt bật cười. mụ ta núng nính nào có kém gì gã chủ quán đâu.
    Nàng mải mê xem chợ quên cả bóng nắng chiều đang ngả dài trên bạc dịch trường. Trên đường về, nàng tỏ vẻ thỏa thuê hồ hởi. Nhưng đêm ấy có tin Thái Úy gọi lão Vũ về gấp. Vừa ngồi vo thuyền, lão Vũ đã bưng đến cho nàng một chén sâm đặc. lão khẽ hỏi nàng với một giọng ân cần trìu mến:
    - Bé Hạnh có mệt lắm không?
    Nàng chớp chớp mi mắt, vẻ xúc động hiện ra trên nét mặt ... Không một ai biết chăm sóc nàng như lão Vũ. Suốt thời gian qua, chính lão tự tay cắt thuốc chữa cho nàng lành bệnh. Nàng không hiểu tình cảm của nàng đối với lão Vũ sâu sắc đến mức nào nhưng thiếu lão, đời nàng chắc sẽ kém vui. Không biết trong lúc này ý nghĩ thầm kín nào thúc đầy mà bỗng vô tình nàng buột miệng:
    - Ôi! Giá mà lão trẻ lại đưọc dăm mười năm nhỉ ... nàng kịp thời dừng lại và thấy thẹn đỏ đến chân tóc. May thay hình như lão Vũ chưa nghe thấy gì. Nhưng đêm ấy rồi những đêm sau, lão không ngủ trong khoang ngoài nữa. Lão ra nằm đằng mũi thuyền để "mát mẻ " hơn. Hôm đó thuyền dừng lại ở một bến làng để đợi con nước. Lão bảo nhà bếp làm một vài mâm thịnh soạn rồi ngả ra đằng sau lái cùng với bọn phu sào, chén chú chén anh. Khi mặt trăng tròn vành vạnh đã nhô lên hơn.
    Hạnh Hoa nằm trằn trọc mãi vẫn không sao ngủ được. Trong một bụi cây đâu đấy, tiếng cuốc bỗng nổi lên từng hồi như đợt sóng lan xa làm chao động bầu thinh không tịch mịch bằng lặng của bến trăng khuya khoắt. Đột nhiên nàng thấy thân thuyền rùng nhẹ rồi một bóng người lao vút lên bờ. Nàng hé cửa nhìn lên thấy lão Vũ đang thoăn thoắt đi về lối xóm. Tính hiếu kỳ thôi thúc làm nàng không kìm nổi. Nàng mặc vội chiếc áo chẽn vào người rún chân nhảy lên bờ, len lén theo sau. Lúc này trăng sáng vằng vặc tưởng chừng như ngày về với đêm. Nàng nép mình lần theo bóng lá tối sẫm ở hai bên đường, chân bước nhẹ nhàng không gây tiếng động.
    Đến một ngả ba, nàng trông thấy lão Vũ dừng lại trước một trang trại thâm nghiêm, đưa tay gõ cổng. Bên trong có nhiều tiếng chó sa rộ. Cánh cổng nặng nề hé ra đủ cho người vào rồi lặng lẽ khép lại im ỉm. Tiếng chó cuống quít sủa mừng. Nàng đoán ra đây là nơi thân thuộc của lão Vũ. nàng đã định bỏ ra về nhưng không hiểu sao nàng vẫn thẫn thờ bước theo thành rào bao quanh trang trại. hàng rào quả thật kiên cố. Ba lớp tre đực vót nhọn đầu ghép liền nhau che kín mít. nàng chọn một gốc cây cao nhất bên vệ đường, tung đầu dây gân thú rồi thoăn thoát leo lên. Ngồi trên ngọn cây nhìn vào nàng mới thấy hết tầm rộng lớn của trang trại. May mắn cho nàng, bên trong sát ngay mái nhà có ánh sáng, nàng thấy một gốc cây rậm lá. Theo thuật tung dây nàng vượt qua rào lần đến tán cây nép mình vào mái nhà, nhẹ nhàng hé ngói nhìn vào.
    Bên trong ngôi nhà rộng thông thênh, đèn thắp sáng choang. Hương trầm ngào ngạt đập ngay vào mũi nàng. Một đỉnh đồng sáng loáng đặt trước bàn thờ, từ đó khói trầm cuồn cuộn tỏa lên nghi ngút. Một bà già tuy trạc đã ngũ tuần, vóc người còn mảnh dẻ nước da đỏ au ngồi xếp bằng trên sập. Hạnh Hoa thấy lão Vũ đang đứng sát bực cửa ra vào chắp tay cung kính. Bà lão thông thả đứng lên đi lại trước lão Vũ, đưa hait ay nắn bóp bên vai lão ngắm nghía lão hồi lâu rồi bất thần đẩy mạnh. Thân hình lão Vũ tung bắn ra ngoài rồi nhẹ nhàng đáp xuống theo thế bình tấn đứng vững trên nền sân đất
    Bà lão nhanh nhẹn bước theo ra, nhìn vết đất lõm dưới chân lão - vết hằn trông rõ mồn một dưới ánh trăng khuya - rồi cầm tay dắt lão vào nhà, miệng cười hớn hở : « Chà chà ! Thái Úy quả không làm hỏng con ta ».
    Hạnh Hoa kinh ngạc đến đờ người. Tim nàng đập rộn. Nàng phải cố trấn tĩnh để theo dõi kỳ hết sự việc lạ lùng đang diễn ra trước mắt.
    Giây lâu bà ta mới hỏi :
    - Vừa rồi mẹ có nhận được quà của Thái Úy, mẹ đã gửi cho Người ít thần thảo để đáp lễ. Con nên thay mẹ tạo ơn người. À, có việc này, mẹ nói ngay sợ rồi quên. Con về bẩm với Thái Úy rằng mẹ đã luyện chế một loại thuốc độc khác đủ để ngâm được ba vạn mũi tên. Sẽ nộp đúng kỳ hạn. Thế vừa rồi đi Tô Mậu, con thấy việc làm ăn của em con thế nào ?
    - Dạ, thưa mẹ, dạo này con thấy chú ấy tinh thông y lý lắm
    - Vậy thì mẹ mừng lắm. Chính mẹ đang lo nhất điều này. Con ạ, nhà ta đã bảy đời làm thuốc. Tuy có cứu được nhiều người nhưng hại người cũng lắm. Những con bệnh, phàm tạng phủ kém yếu, tinh huyết khô kiệt, nguyên khí hư tổn mà bốc thuốc công phạt là giết người đấy. Chân thủy chân hỏa là cái gốc của phép dưỡng sinh. Hễ âm hư là hỏa thịnh, dương khí thoát đi, âm hỏa bùng bùng chạy như ngựa phi. Xưa kia, bố con sớm biết cái hư của hỏa, rỗng trong nổi ngoài, mà nức tiếng thần y một thời đấy.
    - Dạ, thưa mẹ, em con sẽ không làm hổ thẹn tiếng danh y của dòng họ Vũ đâu, xin mẹ đừng lo.
    - Con chưa hiểu hết ý mẹ. Có lo là mẹ lo về hậu vận kia. Con cứ ngẫm chuyện vợ con về làm dâu không đầy một năm, chưa kịp sinh con đẻ cái cho nhà Vũ đã vội lìa đời. Việc bày ra đó không đáng lo sao con? Lại còn chuyện mẹ vì nghĩa lớn đã nhận tìm độc dược chế thuốc dùng vào việc quân cho Thái Úy nữa. Mẹ sợ nhà ta sẽ mỏng bề âm đức. Vì vậy mà mẹ nghe theo lời trối trăng của bố con bấm bụng để con ra đi về hầu Thái Úy trả món nợ ân tình với đời. Mẹ mong con biết ăn ở nhịn nhục gánh mọi phần thiệt về mình, sinh bồi cho kẻ khác để cháu con dòng họ ta mai sau được phúc ấm. À, con còn phải lo ôn luyện đường côn họ Vũ sao cho nhuần nhuyễn để ba năm nữa làm lễ trao bảo vật của bố con - Dường như chợt thấy có gì lơ đãng trong thái độ lão Vũ, bà bỗng đổi giọng - Ôi chuyện đại sự như vậy mà mày quên rồi sao hả Thư?
    - Dạ ... dạ, con vẫn nhớ ...
    Câu nói của lão Vũ tuy cố tình nói nhanh nhưng vẫn không kịp nữa. Bà già thoắt cái đã bước đến bên bàn thờ bê ra một cái hộo dài sơn son thiếp vàng để giữa sập rồi trịnh trọng mở nắp hộp. Hạnh Hoa căng mắt cố nhòm và thấy bên trong đặt một cái quạt cũ gấp lại hình thù hi hợm, một loại quạt thước mà các bậc trưởng lão hay dùng. Không biết rẻ quạt lớn phía ngoài làm bằng thứ gỗ gì mà trông bóng loáng, ánh lên như màu thép lạnh. Bà ta trỏ vào hộp dịu giọng:
    - Thư con! Con có biết vì đâu mà Thái Úy với bố con quen nhau, thân nhau rồi đi đến ăn thề kết nghĩa đệ huynh không? Cũng do nơi cái quạt này cả. Hồi ấy ...
    Thốt nhiên có tiếng chó gầm gừ. Rồi hàng chục mõm chó dữ với những cặp mát xanh lơ châu về hướng nàng, sủa váng lên. Bà già mỉm cười:
    - Có khách lạ theo chân con vào thăm nhà ta đấy! Bà nắm đầu dây giấu kín ở đâu trên tường giật nhẹ. Tiếng chuông ánh ỏi vang khắp trang trại. Tiếp theo, tiếng bước chân rầm rập đổ ra sân. Hạnh Hoa hốt hoảng tung mình lên cây theo đường dây vượt ra ngoài rồi thu dây lại, lẹ làng nhảy xuống đất.
    Khi nàng chạy về đến thuyền, bọn phu sào vẫn ngủ say như chết. Nàng vào khoang nằm sải tay im lặng. bao nghi hoặc quay cuồng trong đầu óc nàng. Lão Vũ là ai? Bà già ấy có thật là mẹ lão Vũ không? Mẹ sao lại già ngang tuổi con thậm chí còn có vẻ trẻ hơn là khác? Bà ta gọi Thư, vậy Thư có phải tên lão Vũ không? Gia đình lão Vũ dây mơ rễ má thế nào với Thái Úy? Những câu hỏi oái oăm ấy làm nàng mệt nhoài rồi nàng thiếp đi lúc nào không rõ. Trong mơ khung cảnh trầm lặng, u nhã chứa đầy bí mật của ngôi nhà ấy lại hiện ra phảng phất hình ảnh lão Vũ lúc thì già khụ lúc thì lại trẻ măng ... Lúc này tỉnh giấc thì con thuyền đã rời bến xuôi dòng băng băng rẽ sóng. Trông về phía trời tây còn nhạt nhòa, lạnh lẽo một vầng trăng.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 9:41 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 3


    Viên quan già thủ kho quốc khố mở rộng một nụ cười nở nang:
    - Thưa quan Đô Tri, mọi thứ lễ vật đã tự tay lão cân đếm xong xuôi rồi ạ. Rồi lão khoát rộng một vòng tay về phía chiếc sập lớn, ngổn ngang các loại hóa vật như để phô phang không phải với quan Đô Tri Lưu Khánh Đàm mà với ai đó tất cả sự giàu có của triều Lý - Quan đô Tri chậm rãi hỏi:
    - Lông phỉ thúy đã có chưa?
    - Dạ, có năm mươi đôi rồi ạ.
    - Thế hương trầm?
    - Đủ năm trăm cân không sai một tiểu ly nào.
    Nhớ tới sự trễ nải của bà cung nhân già cai quản xưởng dệt Thái Hòa mà Đô Tri phải nhờ tới oai của Thái hậu Ỷ Lan để đốc thúc, ông chợt hỏi:
    - Còn món đọan?
    - Dạ, xưởng dệt cung đình vừa mang tới năm trăm tấm - Vừa nói lão vừa mở hòm lôi ra từng tấm đoạn dệt hoa rồng cuốn, màu vàng sậm.
    Cuối cùng quan Đô Tri mới hỏi đến trân châu. Viên quan già vội vớ lấy cái bình vàng cổ cao đặt ở góc sập, đổ ra trên lụa những hạt trân châu to lớn đủ cỡ vừa đếm to: mười hạt bằng hạt đào, mười lăm hạt bằng hạt mận, hai mươi nhăm hạt bằng hát táo, vị chi đủ số năm mươi hạt.
    Quan Đô Tri tính nhầm: 50 đôi lông phỉ thúy, 5 tạ trầm hương, 500 tấm đoạn, 50 hạt trân châu. Sao tình cờ lại rơi đúng vào con số 5 nhỉ, không biết con số năm này có là điềm may cho vận nước không. Thái Úy đã nói cặn kẽ nội tình nước Tống cho Đô Tri biết. Vương An Thạch từ lúc về triều đã mưu lấy biên công để kê cho vững chiếc ghế Tể Tướng của mình. Việc đưa quân sang đánh Thổ Phồn phiến đất Hi Hà là bằng chứng rõ rệt. Vương An Thạch còn lăm le xâm lấn Giao Chỉ, đánh yếu để dọa mạnh, mong lấy thắng khí ở phương Nam để kích thích chí khí ba quân ở phương Bắc rồi thừa thế đánh bại nước Hạ. Một khi nước Hạ đã thôn tính xong thử hỏi còn ai dám ho he với Tống. Giấc mộng biên công của Tể Tướng họ Vương quả không phải là giấc mộng con. Nhưng bên cạnh Thạch còn có Tống Thần Tông. Ông vua Tống này tính hay do dự và hay câu nệ. Một khi chưa có danh nghĩa đầy đủ là không dám xuất quân. Bụng thì muốn đánh Giao Chỉ mà tay rụt lại trù trừ. Biết thóp điều này, Thái úy tận dụng nó, trì hoãn cuộc chiến sớm bùng ra. Vì vậy sứ đoàn của nước Việt lần này sang cống Tống, tuy bề ngoài lấy cớ cáo ai Tiên Đế qua đời và xin kinh Phật, nhưng bên trong thực sự là một đòn ngoại giao quyết liệt của Thái Úy nhằm làm chênh lệch sự nhất trí giữa vua tôi họ. Vì vậy hơn một tháng nay, tuy lần cống này gọn nhẹ, quan Đô Tri cũng phải cuống vó để lo cho kịp số phương vật mang đi cống Tống.
    Trong lúc Đô Tri mải suy ngẫm miên man, cặp mắt lơ đãng lướt qua những hạt trân châu lấp lánh tỏa một thứ ánh sáng mờ đục trong căn nhà gần như u tối, vì viên quan già thủ kho đứng thừ ra nhìn ông một cách thỏa thích. Dường như vẻ thanh nhã siêu thoát của ông đối với lão còn hấp dẫn hơn cả những viên ngọc kia. Lão tự nhủ thầm:
    - Quả Tiên Đế có mắt tinh đời thật!
    Thời ấy có tục vua Lý thường kén những viên quan trẻ tuổi, đẹp trai nhất cho vào hầu vua; Có hai người, Lý Thường Kiệt, mặt đẹp như ngọc với Lưu Khánh Đàm, tướng mạo phi phàm, đã từng nức tiếng là hai cây vàng quả ngọc của triều Lý. Có lẽ vì số phận có điều trùng hợp nhau mà hai người rất đỗi thân nhau. Chỉ hơi khác là Thường Kiệt vào cung lúc 23 tuổi, còn Khánh Đàm vợ con đầy đàn mới bắt đầu nhập nội.
    Lão thủ kho mải mê nhìn và chỉ sực tỉnh khi đột nhiên nghe tiếng Đô Tri hỏi:
    - Còn ngựa! Số ngựa đã đủ chưa?
    - Dạ ... dạ, đủ rồi ạ. Sáu con ngựa vua với sáu bộ yên vàng khớp bạc. Đô Tri thở phào nhẹ nhõm. Bây giờ chỉ còn lo một nỗi, chẳng biết việc ông đề cử quan thiếu sư Lý Hoài Tố đi làm chánh sứ lần này có được lòng Thái Úy không?
    Vừa nghĩ đến người đã thấy mặt người. Thiếu sư Lý Hoài Tố đúng bên ngoài vui vẻ lên tiếng. Thiếu sư Lý Hoài Tố đứng bên ngoài vui vẻ lên tiếng:
    - Đệ đã gặp Thái Úy rồi. Thái Úy hẹn lát nữa sẽ đến với anh em ta.
    Đô Tri nhích bước ra cửa:
    - Thái Úy có dặn dò gì không? - Thái Úy có dặn dò gì không? - Thái Úy bảo đệ phải cố đem ba tấc lưỡi, trổ hết tài đàm biện để làm cho vua Tống, tin rằng nước ta vẫn một lòng một dạ giữ đạo phiên thần, không hề dám mơ màng đến ngọn cỏ tấc đất của Thiên triều.
    - Gì chứ tài làm thuyết khách thì đệ chắc quan huynh chẳng chịu nhường ai.
    - Thái Úy dặn đệ phải kín đáo đến vấn an quan đại thần Ngô Sung, người cầm đầu hai ty trung thư và ty khu mật rồi mới ra mắt quan ngự sử Vương Thiều. Ta phải cố lấy lòng hai vị đại quan thần thế này vì họ thuộc phe chủ hòa chống lại phe Vương An Thạch. À, tặng vật đối với mỗi người có khác đấy.
    - Quan huynh không phải lo. Với Ngô Sung thì dễ thôi. Nhưng với Ngự sử Vương Thiều, tính khó không hay ăn lễ vàng bạc đút lót của kẻ khác mà chỉ thích những vật lạ của phương xa nên phải chọn kỹ. Này, quan huynh xem thử món này đã vừa mắt chưa?
    Đô Tri gọi lão quan thủ kho mang ra một bức tượng Phật cao hơn một thước. Pho tượng này được tạc trên gỗ trầm hương với một bàn tay nghề vô cùng tinh xảo. Thiếu sư Lý Hoài Tố ngắm nụ cười bí ẩn trên môi tượng Phật một nụ cười bí ẩn trên môi tượng Phật, một nụ cười như không cười vỗ đùi thán phục:
    - Quả là món lễ vật hợp với một vị quan liêm chính!
    Như sực nhớ ra, thiếu sư hỏi khẽ:
    - Lần này đi sứ, đệ có một vị quân sư trẻ tuổi đi theo ...
    - Quân sư nào?
    - Nghe Thái Úy nói có một tướng quân họ Vũ nào đấy. Việc đến nhà Ngô Sung là do người này sắp đặt. Đô Tri có hay biết gì về người này không?
    - À, đệ cũng nghe mang máng- Đô Tri vừa ngẫm nghĩ vừa rụt rè đáp. Đó là một con người tuy còn trẻ, nhưng rất cơ trí, nghệ võ tuyệt luân. Có thêm người ấy, thiếu sư như rồng thêm cánh quả là điều đáng mừng đấy.
    Hai người ngồi đợi mãi nhưng bóng dáng của Thái Úy vẫn chưa thấy đến. Họ không biết rằng khi Thái Úy vừa định ra phủ thì Hạnh Hoa và lão Vũ đã về tới nhà.
    Thấy mặt con gái hồng hào phấn chấn; Thái Úy nhắc:
    - Lúc con đi vắng, Thái Hậu Ỷ Lan đã mấy lần cho người ra vời con vào cung ...
    - Dạ, vâng con xin đi ngay ạ.
    - Hãy gượm! Nghe cha dặn đây. Con vào ở trong cung, phàm những việc cơ mật của Thái hậu là con phải làm tất, đừng cho kẻ khác dúng tay vào.
    - Vâng ạ! Nói xong nàng lui vào nhà trong.
    Thái Úy gọi lão Vũ vào trong phòng riêng. Không để cho Thái Úy phải đợi, lão đã báo tin vui sốt dẻo:
    - Con đã tập hợp được nhiều luồng tin quan trọng. Ngoài tin của Thiện chiếu Thiền sư ở Hán Dương còn có tin ở Quế Châu. Triệu Tú cũng cho người đến gặp con tại bạc dịch trường.
    - Trường Tú à? Anh ta còn ở Đàm Châu chứ?
    - Dạ, Triệu đã chuyển xuống Tân Châu rồi.
    - Triệu Tú là người có biệt tài tinh thông mọi phép đồ trận. Sau này còn giúp ta được nhiều việc, con nên ghi nhớ điều đó - Thái Úy nhìn lão Vũ hỏi thẳng vào cái điều mà ông đang nóng lòng muốn biết: Thế Thẩm Khởi là người thế nào?
    - Dạ Thẩm Khởi là viên lang trung ở bộ hình ... Y rất được lòng vua Tống là người tin cẩn của Tể Tướng Vương An Thạch.
    - Người tin cẩn của Vương An Thạch!
    - Vì y quả quyết với Vua Tống là lấy Giao Chỉ như thò tay lấy đồ trong túi nên y được thay Tiêu Chú coi Quế Châu kiêm cả chức Quảng Tây kinh lược sứ? Y được giao toàn quyền xử lý rồi mới tâu sau một khi xảy ra biên sự.
    - Chà, chà ! Gã này được tiền trảm hậu tấu đấy!
    - Chính vì vậy mà vừa mới nhận chức, y đã hung hăng điều quân đóng doanh ở các châu Dung, Nghi và đang sửa soạn tiến đánh trại Vương Khẩu.
    - Một viên tướng nói liều mà hung hăng!
    - Triệu Tú còn cho biết thêm là khi y còn làm chuyển vận sứ Thiểm Tây, lính Khánh Châu nổi loạn kéo tới thành Trường An, y đóng chặt cửa thành không dám thò ra ...
    - Một viên tướng nhát gan. Thái Úy chăm chú dằn từng chữ.
    - Dạ, đúng vậy, nhiều người cho Thầm Khới dát. Nhưng vua Tống và Vương An Thạch lại bênh cho là Khởi có tính trực nên bị nhiều người ghét.
    - Một viên tướng dát lại được bênh! Hà, hà!
    Mỗi lần lão Vũ dứt lời, Thái Úy lại nhấn mạnh vào những lời miêu tả tính cách của viên biên thần nhà Tống như muốn khuyên đỏ vào nhũng dòng chữ ấy. Nghe xong, Thái Úy đứng dậy đi đi, lại lại:
    - Một viên tướng ăn nói vong mạng, hung hãn mà lại non gan. Non gan mà lại được bênh. Hà, hà! Hà, hà! Lần này ta sẽ làm cho không một ai bênh nổi Thẩm Khởi, kể cả Tống Thần Tông và Vương An Thạch.
    Đến bây giờ Thái Úy mới đổi giọng hỏi sang chuyện nhà, chuyện cửa ở dưới quê của lão Vũ.
    - Dạ, thưa Thái Úy, mẹ con gửi lời cảm tạ Thái Úy. Còn việc quân thì mẹ con đã sửa soạn xong rồi.
    Thái Úy đứng trầm ngâm không biết bao lâu rồi khẽ nói:
    - Vũ nhi! Lần này con phải đi công cán xa, đảm đương cho ta một việc hệ trọng. Ta đã cân nhắc kỹ lưỡng nhưng phi con ra không còn ai làm nổi việc này. ta sẽ cho con hai mươi thám tử mới ra lò để thêm tai mắt cho con ... con đi vắng lâu ngày, ắt ta nhớ lắm. Vạn bất đắc dĩ ta mới để con đi chứ lòng ta không muốn .
    - Dạ, mẹ con cũng đã nói rõ với con.
    - Thế mẹ con có nói rõ đến mối thâm tình giữa ta với bố con không? Và vì sao con lại phải cải dạng làm lão quản gia đến ở với ta không?
    - Dạ, con nghĩ vì sự cơ mật của công vụ. Con đã từng là vị danh y thuộc mặt các quan châu ờ vùng khê động.
    - Đó cũng là một nhẽ - Thái Úy trìu mến nhìn đăm đăm vào lão Vũ, nét mặt ông dịu lại và như mờ đi- nếu trong đời ta có một mối giao tình nào nồng mặn hơn cả tình thân ruột thịt thì đó là tinh bằng hữu của ta với bố con. Trước đây hai người chúng ta như hình với bóng không rời nhau gang tấc. Vì vậy khi bố con mất ...
    Giọng Thái Úy nói khẽ và như nghẹn lại. Căn phòng tĩnh mịch lạ lùng. Lão Vũ tưởng như nghe rõ từng hơi thở của Thái Úy.
    - Khi bố con mất, lòng ta thương nhớ khôn nguôi. - Ta bỏ ăn bỏ ngủ hàng tháng trời ... Chắc hẳn con không ngờ là nét mặt hóa trang của con lại hao hao giống người bạn cũ của ta. Đó là ta nhờ vào cái thuật biến hóa có một không hai của thân mẫu con đấy. Trông thấy con hàng ngày ta tưởng như bố con vẫn còn sống ở bên cạnh ta ...
    Lão Vũ bàng hoàng nhìn ra song cửa sổ. Ngoài trời, nắng cuối xuân bỗng bùng lên như để dọn đường đi thẳng sang mùa hạ.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 9:44 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 4

    Buổi chiều hôm ấy, bên trong chùa Nhị Thiên Vương bày ra một quang cảnh khác thường. Từ các chú tiểu đến hàng sư thầy sư bác đều xắn tay vào dọn dẹp quét tước sân trong sân ngoài tận đến mái tam quan. các đồ thờ tự bằng kim khí trên bàn thờ Phật cũng được kỳ cọ sạch sẽ. cả ngôi chùa giống như một chiếc đỉnh đồng bóng lộn. các tăng lữ đều vận những bộ thiền phục bằng vải nâu mới cứng.
    Trước dãy tịnh xá ở phía trong cùng cạnh trai phòng, giữa ngôi nhà lớn, các chú tiểu trịnh trọng kê một bàn hương án mới. cảnh nhộn nhịp này diễn ra một cách thầm lặng, bên ngoài không một ai hay biết.
    Ngôi chùa Nhị Thiên Vương mới dựng ở phía đông nam thành Thăng Long chưa đầy ba năm. Cũng năm ấy Thái Úy Lý Đạo Thành đích thân đứng ra chỉ bảo việc xây Văn Miếu, tô ttượng Khổng Tử, Chu Công cùng thất thập nhị hiền và lập trường Quốc Tử Giám.
    Ngày Hoàng Thái Tử Càn Đức cắp sách ra học khai tâm ở trường này cũng là ngày chùa Thiên Vương nhổ giàn giáo vôi vữa còn bề bộn chưa dọn sách.
    Lạ một điều là từ ngày về trụ trì chùa này, chưa một ai biết mặt sư ông. Họa hoằn một tháng đôi phiên mới thấy chú tiểu hoặc sư thầy đi ra chợ. Cổng chùa đóng im ỉm quanh năm suốt tháng. Thường những tối, nếu có kẻ tò mò mỏng tai vếch lên nghe ngóng thì mới nhận ra tiếng cyhân ngưòi rậm rịch, tiếng vũ khí va nhau ở bên trong. Nhưng lâu rồi cũng quen đi. Dân chúng ở quanh đấy chẳng một ai để ý đến vẻ kỳ bí của ngôi chùa nữa.
    Khi tiếng chuông thu không gióng giả nổi lên thì mọi người trong chùa ai về việc nấy, bầu không khí thanh tịnh hàng ngày lại trở về bao trùm lên những mái ngói còn đỏ tươi.
    Mãi đến tối sẵm mới nghe tiếng vó ngựa dừng lại trước cửa tam quan. Hai võ quan, một già một trẻ tiến vào chùa.
    Sư ông cùng các tăng thống ra tận ngoài thềm cung kính vái chào rồi rước khách quý vào chính điện dâng hương. Lễ Phật xong, hai quan nối gót sư ông theo vào trai phòng. Cửa phòng vừa khép khép lại, sư ông vội chắp tay cúi mình sát đất:
    - "Bần tăng Quách Thiên Phương xin ra mắt Thái Úy."
    Thái Úy đưa tay nâng sư già lên cười rộ:
    - Sao ông bạn già của ta lại lắm lễ nghi thế! Ông bạn có biết ai đấy không? - Thái Úy chỉ vào viên tướng trẻ đang đứng đằng sau mình.
    Đèn trong trai phòng sáng rỡ, soi rõ đôi mắt ngời ngời trên gương mặt khôi ngô của người trung niên; Sư già nheo mắt nhìn kỹ hồi lâu vẫn chưa nhận ra.
    - Con trai đầu của thần y họ Vũ đấy! - Thái Úy mỉm cười nói tiếp:
    - A di đà Phật! Hạnh ngộ! Hạnh ngộ! Ông nhà xưa với bần tăng là bạn cố trí. Bần tăng chắc tướng quân nối được chí cha không làm mai một đường côn họ Vũ.
    Nói xong, sư ông quay quả đi vào phía trong. Thái Úy quay lại nói khẽ:
    - Vũ nhi! Sư ông đây họ Quách, vốn xuất thân từ con nhà võ tướng ở đất Mân. Hiện thời ông đang đảm phần đào luyện thám tử cho ta.
    Quách Thiên Phương! Thì ra vị sư già này đã có thời làm giáo luyện cấm quân trong nội đình lúc Thái Úy còn ở chức Đô Tri coi sóccấm thành. Trí nhớ sắc sảo của Vũ nhi bây giờ đã trở lại nguyên dạng trong vị tướng quân họ Vũ - phanh dần từng tình tiết câu chuyện bố kể năm xưa ... Ông vua đầu của triều Lý, Lý Công Uẩn lên ngôi giữa đám mây vàng truyền thuyết. Không ai rõ gốc gác vua Lý ở đâu. Thiên hạ đồn mẹ ông nằm mộng gặp thần nhân có mang sinh ra ông. Mặc dù Lý Công Uẩn đã phong bố là Lý Tự Khanh làm Hiển Khánh Vương nhưng người ta vẫn nói đó là cha nuôi và sự việc trên không làm tan được đám mây truyền thuyết hoang đường ấy.
    Ngược lại, người Mân lại nhận Lý Công Uẩn là người gốc đất họ. Họ bảo bố vua Lý là một vị quan to của họ chạy sang ta ở ẩn khi nhà Tống đánh chiếm nước Mân. Có lẽ vì vậy mà nhiều người Mân trốn sang ta giúp vua Lý. Có người làm đến hàng công khanh. Quách Thiên Phương theo bố mưu đồ chống Tống khôi phục lại nước Mạn. Nhưng sự việc không thành. Ông bỏ sang Thăng Long cạo trọc đầu, cạo luôn cả bộ râu năm chòm lẫm liệt, vào chùa Thắng Nghiêm quy y đầu Phật. Không ai biết vì đâu trong số khách thập phương đi lễ chủa Thắng Nghiêm lại có mặt Thái Úy lúc này còn ở chức Hoàng môn chỉ hậu. Cỗ lộc vừa mang xuống để các sư sãi thụ trai thì Thái Úy vào phòng riêng gặp Quách Thiên Phương vòng tay thi lễ:
    - Thưa tướng quân, tướng quân là người văn võ kiêm toàn lại thông thạo mọi thuật nho y, lý số. Mong tướng quân đừng hoài phí tài năng về giúp rập triều đình để nước Việt này thâm rạng rỡ.
    - Ôi! Thân này đã bao năm long đong thư kiếm - Thiên Phương trút ra một tiếng thở dài - Nhưng rồi mọi việc không thành nên nay đành núp bóng từ bi.
    - Thưa tướng quân, bóng từ bi bây giờ cũng nắng dãi rồi. Nhà Tống đã nhòm ngó sang phương Nam.
    Quách Thiên Phương bỗng vụt đứng dậy. Câu chuyện kéo dài. Hai người tuy mới gặp nhau mà như đã quen lâu. Quách Thiên Phương buông lời hứa như dao chém đá. Năm chòm râu suôn đuột đen huyền lại trở về trên khuôn mặt uy nghiêm của ông. hơn hai mươi năm ròng, Quách Thiên Phương giúp Thái Úy chấn chỉnh vệ cấm binh, tăng số quân tinh thục lên đến ba bốn nghìn người. Rồi một lần nữa ông lại giã từ những chòm râu dài đã ngả sang màu hung khoác bộ cà sa, bí mật đào luyện cho Thái Úy một đội ngũ thám tử lành nghề. ...
    Quách Thiên Phương đã bê ra một mâm ngũ quả. Ông nâng cái bình hình cá với con tôm nằm vắt vẻo trên lưng, rót nước thảo quả vào cốc mời khách.
    - Bần tăng hỏi khí không phải - Ông quay về phía Vũ nhi đổi giọng thân mật - Tên cháu là gì?
    - Dạ, tên cháu là Vũ Anh Thư ạ.
    Quách Thiên Phương nhìn vào ánh men ngọc xanh lơ trên bình sứ, mơ màng nói:
    - Cháu ạ, bao lần chú đã treo gươm rửa kiếm dứt bỏ sự trần nhưng rồi vì nặng tình với quan Thái Úy ....
    Thái Úy cười rộ ngắt lới:
    - Ông bạn ơi! Ông theo dòng Thiền Tông "Thảo đường " do đức Tiên Đế sáng lập tại chùa Khai Quốc thì có dúng tay vào việc trần vì nghĩa lớn cũng chẳng sai phạm gì tới lòng từ bi của đức Phật kia mà.
    - Về lý lẽ, bần tăng chịu thua Thái Úy từ lâu rồi.
    Ba người cùng cười xòa rồi đứng lên ra phía sau chùa dự lễ. Các vị tăng thống đều đủ mặt tại đây. Đa số họ là người xứ Mân lâu ngày lưub lãng giang hồ rồi dừng chân trân đất Việt. Họ đều là bọn tay chân cũ của bố Quách Thiên Phương, được Phương tụ họp về đây giúp ông trong việc giáo luyện.
    Mỗi sáng ra các môn đồ học kinh kệ, chiều đến học nói tiếng Trung - Nguyên, tối lại tập luyện các môn võ nghệ cùng các thuật leo núi, vượt tường, cấy râu nhuộm tóc.
    Trong sảnh, đèn thắp sáng trưng. Hai hàng võ sinh, thám tử đứng im như tượng gỗ trước bàn hương án, đèn nhang nghi ngút. Bọn họ đều cùng ngang lức tuổi xấp xỉ đôi mươi, dáng người cao ráo gân bắp chắc nịch. Buổi lễ tuy đơn sơ, nhưng không kém phần trang nghiêm, long trọng. Trong đại sảnh, im lặng như tờ. hai mươi võ sinh lần lượt đến trước bàn hương án, đưa thẳng tay ra đặt trên đỉnh đồng, tuyên lời thề trọng.
    Sau buổi lễ, Thái Úy đưa Vũ Anh Thư vào một tĩnh thất riêng biệt.
    - Vũ nhi! Con đi chuyến này cứ tùy ý mà bày bố lại đường dây truyền tin sao cho thật tinh tế tránh mọi sơ hở. Duy có một điều ta cần nhắc con. Triệu Tú là người đất Mân lại là chú em bên ngoại của Quách Thiên Phương. Y theo giúp ta vì lớn nên đó là kẻ tâm phúc của ta. Còn Từ Bá Tường tuy cũng gốc ở nước Mân nhưng vì y đã đỗ tiến sĩ mà không được vua Tống trọng dụng nên sinh bất bình mới chịu giúp ta. Biết đâu rồi đây có ngày vua Tống nhìn lại, y được công thành danh toại. vì vậy sự tin cẩn của ta đối với y có khác với Triệu Tú.
    Ông dừng lại hồi lâu như để những lời ấy kịp thấm vào Vũ Anh Thư rồi nói tiếp:
    - Sứ bộ lần này của ta đi theo đường đất qua trại Vĩnh Bình. Đến sông Đào Hoa đã có phò mã Thân Cảnh Phúc đem quân hộ vệ sứ đoàn lên tận biên giới. mọi chuyện ta đã bàn kỹ với thiếu sư Lý Hoài Tố. Riêng việc đến phủ Ngô Sung là con phải tự lo liệu. Con gắng làm sao để Ngô Sung là con phải tự lo liệu. Con gắng làm sao để Ngô Sung thấy rằng nước ta là đất hiểm, đánh ta lúc này là quỷ thần không vệ, trăm họ ít theo. Rồi từ Ngô Sung tự khắc loang ra ghìm bớt tham vọng n^n nóng của Vương An Thạch.
    Thái Úy thong thả rút ra một tấm áo nhỏ, loại áo lót mình nhưng dệt bằng một thứ vải kỳ dị tỏa sáng dưới ánh dèn một màu ngọc trắng.
    - Vũ nhi, con có biết chiếc áo "đằng ti" này của ai không? Chắc thân phụ con đã nói rõ rồi chứ? Vũ Anh Thư lẳng lặng gật đầu. Tuy biết vậy, Thái Úy vẫn nhắc lại:
    - Tấm áo "đằng ti" này dệt bằng một loại cây thần mọc ở góc hiểm trên đỉnh núi Tản Viên. Cứ ba năm, sợi mây mới dài thêm một đốt. Người ta lấy về tước nhỏ sợi rồi đem ngâm nước muối ba năm. Xong phải hong nắng đủ bảy ngày, phải phơi sương đủ chín đêm mới trộn vào các sợi kim khí đem ra dệt áo. Sợi mây lúc này đã cứng lại như sắt mà lại mềm nhũn như lá liễu, dẻo dai như gấn thú. Kiếm đâm đao chém đều không thủng. Chiếc áo " đằng ti" này với cái quạt thước "thiết phiến" của bố con là hai vật gia bảo của dòng họ Vũ. Bố con đã chia chiếc áo này cho ta. Bao năm nay, ta mặc nó trong người. Nay ta trao lại cho con làm vật hộ thân trong lúc con đi làm việc lớn.
    Vũ Anh Thư quỳ xuống lạy tạ Thái Úy. Sớm hôm sau Vũ Anh Thư cùng hai mươi thám tử vừa mãn khóa ra trường, giả dạng làm phu khiêng gánh cống vật, nhập vào sứ đoàn lên đường sang đất Tống.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 9:47 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 5


    Thấy bóng dáng của quan Thái Bảo Nguyễn Châu vừa về đến nhà, người gia nhân già đã chạy đến vòng tay bẩm: - Dạ, con chưa thấy khách đến ạ.
    - Càng hay, chưa đến nỗi nhỡ nhàng làm mất lòng ông bạn cũ.
    Nét mặt rạng rỡ của quan Thái Bảo làm người tớ già sửng sốt. Đã lâu lắm, lão chưa hề thấy trên bộ mặt thâm trầm của cụ lớn một niềm vui lộ liễu như vậy.
    Thái Bảo liếc mắt qua cái kỷ chạm, trên để sẵn một bộ ấm trà chờ khách, rồi đi thẳng vào phòng riêng. Ông cầm nậm ngọc tự tay rót một chén rượu đầy. Quả trong lòng ông niềm vui cũng đang bốc lên như hương rượu quí.
    Từ sau ngày Hoàng Hậu bị giam giữ ở cung Thượng Dương và Thái Sư Lý Đạo Thành phải bạt vào đất Châu Hoan, ông nín hơi nuốt tiếng thu mình lại như con ốc nằm yên trong lòng vỏ cứng. Ông để tai nghe ngóng. Nhưng mọi mối giao dịch thầm lén của ông không bị ai phát giác. Thói kiêu hãnh hoàng gia của Thượng Dương, thà chết chứ không chịu làm liên lụy đến kẻ khác, đã đánh tan dần nỗi lo sợ lúc đầu của ông.
    Nhưng nỗi mừng thực sự của ông là được Thái Hậu Ỷ Lan bỗng một hôm vời ông vào cung để hỏi han về việc điền bạ. Rồi câu chuyện cứ lái dần sàng ý Thái Hậu muốn biết ai là kẻ đồng bọn của Thượng Dương. Ở đây, thuật đón ý lựa lời có một không hai của ông đã đưa ông đạt được một kết quả không ngờ. Ông trổ hết biệt tài ví von chế giễu tế nhị tính đài các rởm của Thái Hậu cũ bị thất thế và bóng gió tâng bốc tài trị nước của Thái Hậu mới đang cầm quyền nhiếp chính. Cuối cùng ông lấy được lòng Ỷ Lan và bà Thái Hậu mới đã cho phép ông thỉnh thoảng được vào cung Thượng Dương để dò xét bà Thái Hậu cũ. Đường dây thầm kín giữa Thượng Dương và những kẻ ưu ái bà, qua ông, được nối lại.
    Nhưng đích ngắm của ông còn xa hơn nữa. Qua Thái Hậu Ỷ Lan, ông muốn với tay đến Thái Úy, người đang có quyền uy bao trùm thiên hạ. Và một lần nữa dịp may lại đến với ông. Theo kế sách của Thái Úy, công việc đắp lũy lập phòng tuyến trên nam ngạn khúc sông Như Nguyệt để phòng ngừa cuộc xâm lăng của phương Bắc được tiến hành gấp rút. Ỷ Lan đề cử ông vào việc tuyển mộ dân phu. Trước kia ông đã từng đi cắm thẻ cho dân đói tha phương trở về quê cũ nên rất am hiểu tình hình các lộ ở ven sông. Thái Úy cũng thấy là hợp tình hợp lý.
    Có ba lộ phụ cận với sông Như Nguyệt: lộ Quốc Oai do Thái Tử Văn Chiêu cai quản, lộ Gia Lâm do Thái Tử Hoằng Chân đứng đầu, còn lộ Lạng Giang có Phò Mã Thân Cảnh Phúc. Được sự thỏa thuận của hai Thái Tử ông đã tư trát về các làng chạ bắt mỗi hộ phải đúng kỳ hạn nộp đủ số tre ngâm. Ông còn tính cả số gỗ cần lấy ở đầu nguồn để tải về làm cọc, Thái Úy khen ông mẫn cán. Ông coi trọng lời khen ấy và thấy hởi lòng hởi dạ.
    Bóng nắng đã tràn ngập cổng trước sân sau mà vị khách vẫn chưa thấy đến. Thái Bảo bồn chồn đứng lên ngồi xuống mấy lần. Khách chưa đến mà dưới bếp tiếng gõ thớt động mâm đã khua ầm ĩ. Người đầu bếp tò mò thắc mắc không hiểu vị khách của quan Thái Bảo là loại người thế nào mà hôm nay anh ta phải soạn một mâm cơm khác thường đến thế. Cơm thổi vào một nồi to. Rượu vò rót vào một bát lớn. Thịt thái vuông con cờ, xếp bằng chằn chặn trên những đĩa khố to tướng, men rạn chân chim. Miếng nào miếng ấy to bằng nửa bàn tay. Những tay phụ bếp thầm thì kháo nhau về ông khách kỳ dị. Họ đoán non đoán già mỗi người một ý.
    Nhưng rồi người khách Thái Bảo đang mong đã đến. Ông ta cứ lững thững bước vào. Khung cửa rộng lớn nhà khách sảnh bỗng như hẹp lại. Vóc người ông ta đồ sộ khác thường. Người chưa vào, tiếng nói đã oang oang: - Trần Nậm đến chậm, chắc Thái Bảo giận lắm hả?
    Thái Bảo Nguyễn Châu tươi tỉnh đáp: - Có giận là giận cớ sao lâu ngày tướng quân cứ im hơi lặng tiếng không cho bằng hữu biết chút âm hao.
    - Lão đã xin cáo lui về châu Ái. Thái Úy lại lôi ra quất roi vào đít nên con ngựa già này cứ còn phải chạy.
    Không để khách nói dài dòng. Nguyễn Châu đưa tay mời khách vào tiệc.
    Kiêu vệ tướng quân Trần Nậm và Thái Bảo Nguyễn Châu là hai bạn đồng liêu cùng thờ ba đức vua. Mọi công việc xẻ núi đào sông, mở đường lấp sông của triều đình đều đến tay ông. Hơn bốn chục năm qua, ông đã khai thông nhiều mạch máu mới trong cơ thể nước Việt đang sắp bước vào tuổi xuân cường tráng. Sức khỏe phi thường trong thời trai trẻ của ông đã thêu dệt nên nhiều truyền thuyết trong dân gian. Người ta đồn hễ nghe tiếng Trần Nậm ho là giặc Lữ Long đã thót gan bỏ chạy. Cách đây hơn hai mươi năm, lúc Nậm vâng chiếu chỉ đưa người Ngũ Huyện đi đào sông Cá Lâm có người thấy một mình Nậm đã ăn hết một thạch gạo rồi đi đầu phóng thuổng xắn những tảng đất to bằng cái bệ thờ trong chùa làng. Nhưng giai thoại được nhiều người nhớ nhất là chuyện Nậm ôm cột đình. Năm ấy, trời làm lụt lớn, nước sông Nga Giang ở châu Ái réo ầm ầm trào lên đổ vào làng Duy Tinh kéo trôi nhiều nhà cửa. Thấy nước sắp cuốn phăng cả đình làng, Nậm tức giận xắn quần áo lội ra, choãi chân ôm chặt lấy cột đình giữ lại. Không biết có một ông đồ nho nào đã miêu tả sự việc ấy như sau: “Trời nổi lôi đình, lôi đình đi. Nậm nổi lôi đình, lôi đình lại. Trời co đi, Nậm kéo lại. Trời tốc mái giộim ưa, Nậm không thua trụ mãi”. Kết quả là Nậm ôm cột đình giữ nguyên tại chỗ giúp cho Thành Hoàng đình làng Duy Tinh năm ấy khỏi phải cảnh màn trời chiếu đất.
    Khi tính kế thiết lập phòng tuyến Như Nguyệt, Thái Úy đã nghĩ ngay đến việc chọn người. Và người đầu tiên lọt vào mắt xanh của Thái Úy là Kiêu Vệ tướng quân Trần Nậm. Nậm được Thái Úy vời ra kinh, cùng Thái Úy và Thái Bảo Nguyễn Châu đi xem thực địa và trù hoạch mọi công việc dự bị tiến hành. Hôm nay nhận lời mời khẩn khoản của người bạn đồng liêu cũ, ông đến chơi nhà.
    Thấy cung cách dọn ăn, Nậm cười: - Bao nhiêu rồi mà ông Thái Bảo vẫn không quên tính ăn to nói lớn của Nậm. Rồi ông quay sang người đầu bếp đứng bên cạnh: - Chớ chủ anh nói hành nói tỏi về ta thế nào mà anh ra tay chặt to kho mặn thế này hả?
    Ông đầu bếp đang mải sững nhìn ông, quên cả việc đáp lại. Anh ta ngạc nhiên không chỉ vì khổ người kỳ dị của ông khách mà vì bộ râu rậm, xoắn tít vào nhau lấp kín cả phần ba khuôn mặt. Anh ta đang tự hỏi: - Râu ria rậm rì như rừng dày thế kia không biết rồi ông ta ăn uống làm sao nhỉ?
    Trần Nậm không để cho gã phải chờ lâu. Ông đã xắn tay áo vén ngược chòm râu dài buộc túm ra đằng sau gáy rồi bắt đầu ăn như rồng cuốn.
    - Tướng quân ơi! Nguyễn Châu nhỏ nhẻ nói – tướng quân quên nghĩ đến tuổi già của bọn ta sao mà kéo dài thời hạn đắp đê Như Nguyệt đến thế kia?
    - Thế ông bạn Thái Bảo khuyên Nậm này phải làm sao nào? Hơn hai trăm dặm đê đắp cao như núi với năm lớp lũy tre dày chưa kể đến chuyện vét lòng sông đóng cọc nhọn ở giữa. Nếu ông Thái Bảo có đủ số phu gò lưng làm ngày làm đêm thì cũng phải mất một năm rưỡi mới xong.
    - Nhưng khốn nỗi Thái Úy lại cấm đệ không được lấy người trong lúc thời vụ. Một năm hai kỳ, vào ngày ba tháng tám, khi dân chúng treo liềm cất hái thì mới được phép bắt dân phu.
    - Điều đó, Nậm tôi cũng đã tính toán kỹ lưỡng rồi. Cũng phải trên ba năm là ít.
    Nguyễn Châu xòe tay bấm đốt: - Như vậy là phải đến cuối năm Bính Thìn mới hoàn thành chăng?
    Trần Nậm quả quyết: - Không thể sớm hơn được!
    Người gia nhân già bỗng bước ra rỉ tai Thái Bảo: - Có cậu Vân đòi gặp cụ lớn?
    - Bảo hắn đợi ta ở nhà cầu.
    Những người mà lão tớ già gọi là cậu Vân dường như không đợi được đã nối gót lão xộc vào tận bàn tiệc. Hắn ta người to béo, lùn tịt, mắt sắc, mũi to, mặt vuông chành vạnh. Quả tội, hắn cũng không lùn lắm nếu hắn không đeo đằng sau lưng một khí giới cổ quái hình thù tròn như cái mâm ngoài bọc da báo làm cho khổ người hắn bè ra. Tấm áo lính cận vệ bạc màu không làm giảm bớt được phần nào vẻ ngang tàng hiện trong nụ cười ngạo mạn thường trực trên môi hắn.
    Không hiểu hắn có chút hơi men nào không mà vừa tới hắn đã sỗ sàng: - Chẳng biết có việc gì cấp thiết mà ông anh gọi thằng em này đến vậy?
    Hơi ngượng với khách, Thái Bảo phân bua: - Hắn là chú em họ xa của đệ. Hắn vốn ở nơi quê mùa, tính khí lỗ mãng, mong tướng quân đừng chấp.
    Trần Nậm cười lớn, không hiểu nói với Thái Bảo hay với người mới đến! – Về cái tính lỗ mãng thì Nậm tôi chưa chịu nhường ai.
    Đến bây giờ Thái Bảo mới quay sang quắc mắt nhìn gã Cấm Vệ: - Vì tình họ hàng, ta đã thu xếp cho chú được sung vào chân Thiên tử quân. Thế mà chú không lo tu tỉnh làm ăn, rượu chè be bét, nay gây gổ với người này mai sinh sự với người kia. Chú lại còn to gan dám hạ nhục quan Đô giám ở đội Ngự long trước mặt mọi người. May họ nể mặt ta nên mới không rầy rà to. Bây giờ muốn tốt thì ngươi phải tới ngay nhà ông ấy mà tạ tội.
    Gã ngữa mặt cất tiếng cười hô hô: “Ra ông anh bắt Vân này phải khom lưng trước lão cú vọ miệng hùm gan sứa ấy ư? Địa Vân này đầu đội mây, chân đạp đất, có bao giờ thèm quỵ lụy xin xỏ kẻ khác”.
    - Nếu mày không nghe ta thì mày có mọt xương trong lao tù, ta cũng mặc xác.
    - Chỉ vì nghe lời mẹ mà tôi phải đến với ông. Tưởng ông làm quan to thì mắt ông sáng hơn mọi người. Nhưng xem ra ông cũng là loại gà mờ, vàng thau lẫn lộn, không phân được tốt xấu, dở hay.
    - Mày quả là đồ láo xược, quân vong ơn bội nghĩa!
    - Hà hà! Địa Vân này phải mang cặp tai dày vượt qua tử cấm thành để đến đây nghe có thế ư? Thôi! Từ rày ta không thèm đặt chân vào nhà này nữa.
    Trần Nậm tủm tỉm cười, tự tay rót một bát rượu đầy đưa mời Địa Vân: “- Xin tráng sĩ hãy nguôi cơn giận!”
    - Rượu thì ta uống còn ân huệ thì ta xin trả lại!
    Gã ngửa cổ ực một hơi cạn bát rượu rồi đưa mu bàn tay lông lá quệt ngang mồm. Đoạn gã quay ngoắt, không thèm chào ai nửa lời, ngạo nghễ bước thẳng ra cổng lớn.
    Thái Bảo giận tím mặt, cục lộ hầu nhọn hoắt chạy lên chạy xuống trên cái cổ dài ngoẵng của ông.
    Chừng như để giữ thể diện với khách, ông quay mặt vờ trút một tiếng thở dài ngao ngán.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 9:50 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 6

    Trong lúc tâm trí Lý Ngân chơi vơi giữa đám mù sương thì thể xác chàng ngày đêm cũng bồng bềnh trên thuyền trôi về đâu không rõ. Khi thuyền cập bến, Đỗ đại nhân đưa chàng vào nhà, chàng vẫn còn như đang ở trong mê.
    Sau một giấc ngủ nặng nề như chết, Lý Ngân mới bừng tỉnh và thấy mình đang nằm trong một dinh cơ dãy dọc tòa ngang. Nhà lát đá phiến, mái ngói lưu ly, cửa bức bàn lồng kính buông sa, tường trước rào sau cẩn mật. Chung quanh sóng vỗ ầm ì. Đằng trước, lá cờ hiệu buôn họ Đỗ bay trong gió lộng.
    Lý Ngân sực nhớ ở cung Thượng Dương, dì mẫu có lần nói với chàng về chuyện người thương nhân họ Đỗ. Chàng đoán ra đây là thương điếm của ông ta và chàng hiện đang ở trên cửa khẩu Vân Đồn.
    Thời ấy, Vân Đồn là bạc dịch trướng lớn nhất của nước Đại Việt. Nó cũng là cửa khẩu duy nhất mở cho thương thuyền nước ngoài đến buôn bán.
    Cách đây hơn 30 năm, có người lái buôn họ Đỗ tên Sinh, quê ở Hải Đông ra đây làm ăn, trở nên giàu có lập ra hiệu buôn nổi tiếng này. Nhưng rồi vận đen ập đến thuyền đắm hàng chìm, gia tài khánh kiệt. Một buổi chiều, trong những ngày cuối năm ảm đạm, Đỗ Sinh đang ngồi thừ nhìn dây quầy hàng trống rỗng nét mặt buồn thiu. Bỗng từ ngoài bước vào một ông khách buôn sang trọng. Đó là một người to béo chân đi giày da hươu, đầu quấn khăn nhiễu tía phủ kín mang tai, lủng liểng đằng sau cổ một búi tóc vuốt sáp thơm láng mượt. Ông khách ngỏ ý muốn bán hàng. Nhưng Đỗ Sinh lắc đầu từ chối: - Hiện tôi không còn một đồng chinh dính túi, phiền ông bạn đến cửa hiệu khác mà hóa giá. Nhưng ông khách lạ vẫn điềm nhiên cười tủm tỉm: - Tôi đang có việc gấp phải về ngay. Mà lúc này tôi cũng chưa cần đến tiền. Thôi thì cứ coi như là tôi gửi lại ông bạn, mai mốt tôi sẽ ra tính toán sau.
    Chao ôi! Đâu mà lại có người lái buôn quí hóa thế này! Tuy bụng còn ngờ mà Đỗ Sinh vẫn theo chân người khách lạ. Trên bến, quả có một chiếc thuyền to chở đầy hóa vật khan hiếm, những thứ hàng quí mà nhà buôn các nước Qua Oa và Xiêm La đang tìm mua. Khi hàng đã cất hết vào quầy, người khách vội đến mức chưa kịp uống với nhau một ngụm rượu đã nhổ neo rời bến. Đỗ Sinh vẫn còn đứng ngẩn ngơ không tin đó là sự thực. Một năm rồi hai năm trôi qua, người khách lạ vẫn chưa thấy trở lại. Hiệu buôn họ Đỗ lại phát đạt hơn xưa.
    Cùng vào một ngày cuối năm, người khách lạ lại đến dẫn theo một chiếc thuyền khác đầy ắp hàng hóa. Trong thấy khách, Đỗ Sinh chỉ muốn quì xuống tạ ơn và lo soạn tiền trả nợ. Nhưng khách lạ xua tay. Lần này khách ngỏ ý muốn ở lại hẳn. Theo lời khách thuật lại thì ông ta là Đỗ Mục, quê ở Vinh An, có cửa hiệu tại trạm Giang Đông. Vì ông vừa mất người vợ quí nên không muốn lưu lại quê nhà, nơi chỉ gợi thêm cho ông cảnh đau lòng. Khách nói với Đỗ Sinh: - Trời xui đất khiến thế nào mà tôi cũng họ Đỗ. Rồi khách tỏ lời muốn cùng Đỗ Sinh kết nghĩa chi lan, kề lưng đấu cật, hùn vốn buôn chung.
    - Ôi! Thế thì còn gì bằng! – Đỗ Sinh mừng rỡ reo lên.
    Công việc làm ăn của hai người khởi sắc phất lên như lá cờ đại vừa dựng trước cửa hiệu buôn. Công cuộc doanh thương được mở rộng vào đất liền. Các chi điếm lần lượt mọc lên ở các lộ. Số gia nhân trong ngoài đông có hàng trăm.
    Rồi một hôm Đỗ Sinh đưa gia quyến về thăm quê. Không rõ vì nguyên nhân gì, Đỗ Sinh bị đắm thuyền giữa dòng Đông Kênh, toàn gia chết sạch. Chuyện ấy cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Đỗ Mục hay tin, vật vã thương khóc ngày đêm. Nhưng sự đau xót thái quá của ông em cũng không thể ngăn cản việc phải đứng ra thay thế ông anh kết nghĩa. Và Đỗ Mục nghiễm nhiên một mình làm chủ cả một cơ nghiệp kinh doanh lớn nhất ở Vân Đồn.
    Những sự việc trên đây cũng như lai lịch của Đỗ Mục không ai hay rõ. Người ta chỉ biết tuy không quan tước, mà Đỗ đại nhân ra cửa là có thuyền to ngựa khỏe, bữa cơm bưng lên có mâm son, bát quí, đũa ngà. Kẻ ăn người ở mỗi khi gặp mặt ông chủ là cúi rạp, nép mình, sợ một phép.
    Đỗ đại nhân đối đãi với Lý Ngân như một thượng khách. Ông cho Lý Ngân biết rõ những sự biến ở triều sau khi chàng trốn khỏi kinh thành. Ông dặn đi dặn lại Lý Ngân: - Hoàng Hậu Thượng Dương cùng quan Tể Chấp đều gởi lời khuyên công tử nên ẩn nhẫn tạm lánh nơi đây để chờ thời cho đến lúc có tin mới. Rồi ông lại ra đi theo một chuyến buôn xa.
    Lý Ngân ở lại một mình. Tuy hằng ngày có người hầu kẻ hạ, cơm bưng nước rót nhưng Lý Ngân vẫn buồn phiền day dứt. Sóng biển ngày đêm vẫn rầm rì vỗ mạn lòng chàng. Tình cờ chàng vớ được trên án thư một quyển sách cổ đã long bìa. Sách dạy về cách chế tạo thiết mã, mộc ngưu, cùng các loại mộc xạ. Trong cơn buồn chàng lơ đãng lướt qua vài dòng rồi dần dà chàng đọc say mê thích thú. Trước nhà, sát bờ biển, cửa hiệu có một xưởng nhỏ chuyên việc chữa thuyền và đóng các thứ xe chở hàng. Chàng xắn tay học hết nghề mộc nghề rèn và đem những điều học được trong sách ra sữa chữa lại các loại xe gỗ trước con mắt ngạc nhiên thán phục của các bậc thợ già. Chàng mải mê với công việc này không biết bao lâu. Đỗ đại nhân vẫn đi biền biệt. Cho đến lúc ông ta trở về thì chàng đã gần như quên hết tháng năm.
    Đỗ đại nhân đưa chàng vào phòng riêng. Nhìn qua nét mặt trầm trọng của vị thương gia họ Đỗ, Lý Ngân đoán có đại sự sắp xảy ra. Quả nhiên, họ Đỗ nghiêng mồm vào tai chàng thầm thì: - Nhà Tống sắp đem binh hỏi tội nước ta vì Thái Úy Lý Thường Kiệt đã tụ quân trái phép ở biên thùy. Vua Tống đã ra chiếu chỉ cho Lưỡng Quảng. Quan kinh lược sứ Quảng Tây là Thẩm Khởi đã xây thành đắp lũy ở vùng Nghi, Dung. Khởi đang lấy dân đinh trong năm mươi mốt động thuộc Châu Ung để kết thành bảo giáp, lập ra bảo ngũ, phát các trận đồ ngày đêm tập luyện. Mọi thuyền đinh dọc biển thường ngày chở muối đều bị trưng dụng để tập thủy chiến. Các bạc dịch trường từ trạm Giang Đông đến Thất Nguyên đều phải cấm chợ. Biên giới đóng cửa không ai được phép qua lại thông thương. Đỗ đại nhân thở dài nói tiếp: - Thiên hạ oán giận Thái Úy quá chuyên quyền gây ra nạn binh đao giữa hai nước. Tất cá công việc làm ăn của họ Đỗ này cũng vì chuyện ấy bị đình đốn. Hiện nay Thái Úy đang bắt dân đắp đê sông Như Nguyệt và phái tướng Lý Kế Nguyên đem thủy quân ra đóng trên dòng Đông Kênh này. Vì vậy Hoàng Hậu rất lo cho công tử. Còn Tể Chấp ở Châu Hoan thương nhớ công tử đến gầy người.
    Hồi lâu Đỗ đại nhân rầu rĩ tiếp giọng: - Có lẽ vì thế mà Tể Chấp cho lão Triệu ra Thăng Long đón công tử vào ở với Người. Có thế, công tử mới được yên lành. Công tử nên cải trang xuống thuyền ngay chiều nay thì mới kịp – Nói xong dường như không cưỡng nổi với sự mệt nhọc đường trường, Đỗ đại nhân quay mặt đi ngáp dài.
    Những tin tức vừa rồi đốt lòng Lý Ngân khiến chàng đứng ngồi không yên. Trời mới đứng trưa, chàng đã xộc đi tìm Đỗ đại nhân để xin phép ra đi cho sớm sủa. Chàng đi thông qua ba gian nhà vắng tanh. Hình như tất cả các gia nhân đang bận việc ngoài bến. Bỗng chàng nghe ở gian cuối có tiếng ngáy to. Cánh cửa nặng nề thường ngày đóng im ỉm hôm nay sao lại khép hờ. Chàng vô tình liếc mắt nhìn vào, thấy Đỗ đại nhân mặc nguyên quần áo ngoài, ngủ trên giường gấm. Chiếc khăn bịt đầu sổ tung tuột ra trên mặt gối, để lộ một vết sẹo tròn to bằng vòng đít chén vại, màu da đỏ hỏn láng lì như bôi mỡ. Chàng cảm thấy mình thất lễ, thẹn thùng lặng lẽ lui ra. Đến chiều, Đỗ đại nhân gọi một gia nhân gầy nhom mắt lác cùng đi theo chàng. Ông ta tiễn chàng ra tận bến.
    Chuyến đi của chàng song suốt. Thuyền chàng lặng lẽ cập bến kinh thành. Chàng ghé mắt nhìn lên bờ đã bắt gặp ngay dãy phố hẹp nằm dài trên lũy ven sông, nơi buôn bán sầm uất nhất ở góc Đông Bắc kinh thành Thăng Long. Thuyền đinh gặp con nước thuận, đỗ san sát ven bờ. Thuyền ngược về mành mắm ra, lô nhô ven bãi sa bồi. Trên buôn dưới bán, thượng vàng hạ cám. Sang có đoạn, gấm, nhiễu, vóc, cánh kiến, đồi mồi, hèn có bồ kếp, phèn chua, nhang thơm, rễ bài. Hàng trầu cau, thuốc lào xếp vào một góc. Ngoài hè, hàng bánh hàng quà ồn ào như sôi. Rượu đổ vào chén vại làng Dâu, men nếp cái hoa vàng, thơm lừng một góc quán. Cảnh phố phường ồn ào nhộn nhịp trong cái sớm oi nồng của ngày hè trông quen thuộc quá làm Lý Ngân cay cay ở mắt. Lý Ngân rời đất Thăng Long mới ngót năm trời, mà chàng tưởng như lâu hằng trăm năm. Bỗng dưng chàng nhớ tới thứ bánh ngỗng thời thơ ấu, đâu như bán ở khu chợ này, một loại bánh bột tẻ mịn ướt, tròn vo trắng bóc thường đặt trong lá sen xanh màu rêu mướt, trong độn nhân hạnh đào xào mỡ phần, ăn ngọt ngấy.
    Gã mắt lác đưa chàng đến một cửa hiệu tạp hóa, khách hàng sang trọng vào ra tấp nập. Nhưng gã không tiến vào mà lại kín đáo dẫn chàng đi theo lối cửa nách. Vừa bước vào chàng nghe có tiếng sênh phách đàn ca của kỹ nữ từ trên gác cao vọng xuống. Chàng chợt nhớ ra đây là một trà lâu có tiếng mà khách vương tôn công tử ở Kinh Thành thường lui tới.
    Không ai ngờ đằng sau ngôi hàng tạp hóa bình thường này lại có cả một hoa viên tráng lệ. Viền quanh là những dãy nhà cầu xinh xắn có lan can chạy triện, màu son đỏ tươi. Sau vườn hoa mới đến nhà sảnh và nhà trong. Cạnh đấy qua rặng trúc thấp thoáng một ngôi nhà im lặng đứng biệt lập. Một ổ khóa đồng lớn khóa chặt bên ngoài. Đằng cuối sát mé mông, san sát những dãy nhà kho.
    Trong nhà sảnh, một gã quả đầu dưa, mắt ti hí, cặp môi mọng đỏ chót ngồi giữa sập đang nhai trầu bỏm bẻm. Gã mắt lác khom mình báo: - Thưa anh cả, công tử đã đến. Gã đầu quả dưa đứng lên cúi đầu tủm tỉm cười, lễ phép chào qua Lý Ngân rồi khẽ vẫy tay. Gã mắt lác lặng lẽ đưa chàng vào tận nhà trong mới khép nép lui ra.
    Lão Triệu, người tớ già thân cận của ông bác chàng, Tể Chấp Lý Đạo Thành, đang ngồi quay lưng ra phía chàng. Nghe có tiếng động, lão quay ra nhìn chàng hồi lâu. Chừng như nhận được ra chàng, lão kêu khẽ lên một tiếng: - “Công tử!” rồi nước mắt lão giàn giụa. Lão mếu máo: - Công tử ơi! Cụ lớn bây giờ ở châu Hoan, sớm tối chỉ ngồi ôm bài vị Tiên Đế mà thở than. Công tử vào sớm ngày nào thì người vui ngày ấy.
    - Ta chưa vào được đâu lão Triệu ạ.
    - Chưa vào! Chưa vào! Thế công tử còn định về đâu nữa?
    - Ta đi lên sông Như Nguyệt!
    Ý định này không phải ngẫu hứng đột nhiên nảy ra trong đầu chàng. Lúc ở trên đảo Vân Đồn, khi Đỗ đại nhân báo tin Tống sắp đánh ta, bề ngoài chàng vẫn im lặng nhưng lòng chàng bảo nổi, nhiệt huyết trong chàng sôi sục. Trong một lúc chàng đã thấy hết tầm quan trọng của vành đai Như Nguyệt trong chiến cuộc và vai trò quyết định của Thái Úy. Lúc này không phải lúc nghĩ đến thù riêng. Vận mệnh tổ quốc lâm nguy, đòi chàng phải góp sức.
    - Ôi! Công tử quẫn trí rồi – Lão Triệu kêu lên – Công tử lên Như Nguyệt để làm gì? Để đắp đê ư?
    - Lão nói đúng. Ta đi đắp đê. Lão cứ về đi.
    - Công tử nói sao? Về đi! Về đi! Lão về thế nào được. Không có công tử thì lão về phục mệnh Tể Chấp thế nào được.
    - Lão cứ về trước, bẩm với bá phụ ta rằng ta sẽ về sau.
    - Không! Công tử đi đâu, lão xin theo hầu đấy.
    Lý Ngân âm thầm phát ra một câu, âm sắc khản đặc: - Được! Vậy lão đi theo ta đắp đê Như Nguyệt!
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 9:54 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 7

    Tại dinh Lý Thường Kiệt, trong một phòng khách riêng biệt, thiếu sư Lý Hoài Tổ kể lại những cảm giác còn tươi rói về chuyến đi sứ vừa qua ở Biện Kinh. Quan Đô Tri Lưu Khánh Đàm vừa nghe chuyện vừa thích thú nhấm nháp loại trà thơm hảo hạng của Trung Nguyên do Thiếu Sư mới mang về. Còn Thái Úy đang chăm chú theo dõi từng tiểu tiết trong thái độ đối xử của vua Tống.
    - Thưa Thái Úy, vua Tống Thần Tông ân cần phủ dụ rồi gọi viên quan Cung Phụng bảo phải lo nơi ăn chốn ở của sứ bộ ta cho thật chu đáog. Còn Tể tướng Vương An Thạch thì lánh mặt.
    - Thế họ sắp Thiếu Sư ở điện nào? Điện Tây Vu hay điện Đông Hóa?
    - Dạ nơi ngủ và đãi yến thì ở điện Đông Hóa. Còn gặp ngày sóc thì vào điện Văn Đức, ngày vọng thì điện Thúy Củng. Nghe đâu Vương An Thạch sắp sứ bộ ta vào điện Tử Thần nhưng Tống Thần Tông không nghe.
    Quan Đô Tri chợt hỏi xen vào: - Hệ trọng lắm chứ. Bên trọng bên khinh. Điện Tây Vu và điện Tử Thần là dành cho những sứ bộ ít được trọng vọng. Xem ra Tống Thần Tông còn có bụng kiêng nể ta phần nào.
    Nhưng điều ấy hiện đang rất trái ngược với những việc làm của quan kinh lược Thẩm Khởi ở biên thùy. Có tin vua Tống đã bí mật truyền cho Khởi sửa soạn binh nhung. Khởi đã bí mật liên lạc với Lưu Kỷ, viên tướng Man dân theo ta trấn ở Quảng Nguyên và phái thuyết khách đi chiêu dụ các tù trưởng khê động. Hiện Vũ Anh Thư còn phải nán lại ở trên ấy để tập hợp các luồng tin. Thái Úy đã điều thổ binh ở các lộ Thượng Du áp sát biên giới. Mới đêm qua, Thái Úy còn đọc lá thư của Từ Bá Tường trong có đoạn viết: “- Bá Tường này nghe rằng hiện nay Trung Quốc muốn cử binh đi diệt Giao Chỉ. Theo binh pháp dạy: “Trước khi người có bụng cướp mình thì chi bằng mình đánh trước”. Lúc nào quân Đại Vương vào đánh, Bá Tường này xin làm nội ứng”. Những loại giấy tờ này mọi khi thường xem xong là đốt đi ngay. Không hiểu sao, lần này Thái Úy để lại và lưu ở bên mình.
    Bây giờ nghe qua cung cách đối xử của vua Tống với sứ đoàn ta, Thái Úy thấy rõ sự không ăn khớp giữa vua tôi họ. Phải chăng mùi thất bại của quân Tống ở Bạch Đằng, Chi Lăng, Tây Kết cách đây hàng trăm năm còn phảng phất trong lỗ mũi Tống Thần Tông?
    Câu chuyện của Thiếu Sư Lý Hoài Tổ đang đi đến đoạn hào hứng nhất. Đây là lúc sứ đoàn ta đến dự tiệc ở nhà quan đại thần Ngô Sung. Như người đầu bếp giỏi thường cho khách thưởng thức mùi thơm của các món ăn trước lúc dọn ra mâm, Thiếu Sư giáo đầu bằng cách hết lời tán tụng tài ba của Tướng quân họ Vũ. Ông bảo: - Ôi! Thật Thái Úy có con mắt tinh đời khéo tìm ra được một con người tài nghệ hoàn hảo đến thế. Hôm ấy Vũ Anh Thư đóng vai viên quan quân tùy của chánh sứ. Trong phủ đệ của Ngô Sung đèn thắp giăng giăng như đám hội. Trong bữa tiệc, Ngô Sung có mời một số quan khách triều đình, toàn các vị lão thần râu dài đến rốn. Sau tuần rượu thứ ba, câu chuyện bắt đầu nở như ngô rang. Không biết người nào dẫn dắt mà câu chuyện lại được lái sang miếng đất phương Nam, cùng xứ Giao Chỉ đầy dẫy ma thiêng khí độc. Ngô Sung hỏi Lý Hoài Tổ: - Nghe đồn bên quí quốc có nhiều cái lạ, vật thì quái, ma thì thiêng, chẳng hay điều ấy có thật không?
    - Dạ, bản quan nói ra sợ e tướng công khó tin. Nhân đây, bản quan có vị tướng trẻ tùy tùng, xin tướng công cho phép anh ta được hầu chuyện để mua vui – Chánh sứ chỉ vào Vũ Anh Thư – tướng quân này là người có linh khiếu thông huyền, giao cảm được thần tiên trên thượng giới.
    Ngô Sung tò mò nhìn Vũ Anh Thư: - Ra tướng quân đã có lần gặp thần linh hiển hiện đấy ư?
    Lý Hoài Tổ lại đỡ lời: - Tướng quân có môn đồ của thần Tản Viên, vị thần linh thiêng nhất của nước Việt chúng tôi.
    Lần này Ngô Sung quay sang hỏi thẳng Vũ Anh Thư: Tướng quân đã là môn đồ của thần, ắt thần có truyền cho tướng quân nhiều phép lạ chứ?
    Lúc này Vũ Anh Thư mới đứng dậy vòng tay từ tốn đáp: - Dạ, bẩm tướng công, thần núi Tản đã truyền cho vãn sinh phép múa côn và thuật nhẩm độn, tướng số.
    Bây giờ mọi người trong bàn tiệc đều dồn mắt vào Vũ Anh Thư và cùng thốt lên một tiếng “ồ”! sửng sốt. Nhưng Ngô Sung đã hỏi dồn: - Thần truyền thụ cho tướng quân bằng cách nào?
    - Dạ, bằng cách đến canh ba thì thần báo mộng.
    Lý Hoài Tổ cũng đã đứng lên bảo Vũ Anh Thư: - Tướng quân hãy diễn vài đường côn thần trước để chúc mừng tướng công cùng các vị quan khách, sau để giúp vui thêm cho bữa tiệc.
    Tiếng tán thưởng thích thú trong đám quan khách nổi lên náo nhiệt. Không đợi phải giục, Vũ Anh Thư thắt áo bước ra. Ngoài sân rộng, dãy đèn treo vẫn thắp sáng như ban ngày. Vũ Anh Thư vọng về phương Nam bái thần rồi ngọn côn trong tay chàng bắt đầu vung lên. Đường côn đi có lúc linh hoạt lạ thường, có lúc lại rời rạc, ngô nghê đến chướng mắt.
    Sau vài lời cổ vũ chiếu lệ, Ngô Sung quay lại bảo chánh sứ:
    - Bản chức cũng có một tên gia tướng có học qua phép múa gươm, xin để hắn ra múa may vài đường gọi là đáp lễ quan chánh sứ.
    Tên gia tướng ấy, khổ người cao lớn vạm vỡ, hùng hổ bước ra múa một thanh kiếm dài sáng loáng. Vũ Anh Thư đứng lui về một góc sân, chăm chú theo dõi. Chàng nhận thấy phép đánh kiếm của gã tuy có nặng và chắc nhưng thiên nhiều về khoa trương. Vòng kiếm sáng của gã, lúc mở rộng tròn xoe như tán bạc, lúc thu hẹp nhỏ như cơi trầu, trông thật đẹp mắt. Múa xong gã thu kiếm chắp tay nói: Thưa tướng quân, nếu tướng quân không chê kẻ hèn mọn này mà cho bái lĩnh một vài đường côn thần của tướng quân thì thật là vạn hạnh!
    Ngô Sung vuốt chòm râu dài cười to: - Chỉ được phép đấu chơi vài hiệp, cấm làm thương tổn đến hòa khí của nhau đấy!
    Vũ Anh Thư chưa kịp nói đôi ba lời từ tạ khiêm tốn thì gã gia tướng nhà họ Ngô đã vung tít thanh kiếm dài loang loáng. Gã đâm đông chém tây, ào ạt tấn công, vòng kiếm đi rộng, uy mãnh bao trùm. Vũ Anh Thư nhẹ nhàng né phái tránh trái nhảy nhót như vượn chuyền cành, mũi côn uyển chuyển xuyên qua làn kiếm bạc, đâm trên phạt dưới. Thế kiếm của địch thủ càng cường mãnh thì đường côn của chàng càng mềm mại, phất phơ như bông ngô mới trổ, đong đưa theo gió. Nhưng thế côn của chàng bỗng dưng yếu hẳn, đường côn chậm lại. Chàng nhảy ra khỏi vòng chiến, vòng tay bảo: - Xin ông bạn hãy đợi một chút!
    Một gã trong sứ đoàn lập tức bê ra một linh vị đặt trên chiếc bàn con, Vũ Anh Thư thắp nhang rót rượu, lầm rầm khấn vái. Chàng cầm nén hương khoa thành những đường nét vòng vèo trên chén rượu. Đột nhiên chàng ngẩng cổ hú to ba tiếng ngân nga lảnh lót. Tất cả các quan khách đều nín hơi hồi hộp nhìn chàng. Chàng vẫn thản nhiên trịnh trọng nâng chén rượu tưới trên đầu côn, rồi cầm côn vuốt nhẹ. Kỳ lạ thay, dưới cái vuốt tay của chàng, mọi người cảm thấy ngọn côn cứng rắn bỗng hóa thành mềm nhẽo như chiếc roi ngựa.
    Chàng cầm côn mắt ngó thẳng, từ từ bước vào vòng đấu. Bây giờ đường côn của chàng đi nhanh, vun vút biến ảo lạ thường, tạo nên một vầng khói đen quyện lấy ánh kiếm của đối phương rồi dần dần đè bẹp xuống. Gã gia tướng, mồ hôi tướp mặt bị dồn về phía góc sân. Bỗng gã thấy địch thủ của mình hình như mải ham tấn công để hở phía vai trái. Dùng một thế kiếm hiểm độc, gã phóng kiếm chém sả xuống. Vũ Anh Thư không né tránh, rún người xuống. Ngọn côn đang đi nửa đường vụt quay ngoắt vào trung lộ, nhanh như thuồng luồng rẽ sóng, chọc thẳng vào giữa yết hầu đối phương. Trong đám quan khách, có nhiều tiếng la hoảng. Có kẻ nhắm mắt không dám nhìn. Họ như trông thấy trước quang cảnh khủng khiếp sẽ xảy ra: - một đằng bị ngọn côn đâm thủng cổ xuyên sau gáy, một đằng bị chém sạt bả vai.
    Không ai hiểu Vũ Anh Thư thu côn tự lúc nào, nhảy vụt ra xa quì xuống: - Bằng hữu kiếm pháp như thần, tiểu sinh không sao sánh nổi.
    Gã gia tướng mắt thấy hơi lạnh cái chết đưa vào tận cổ còn đang bàng hoàng đứng ngẩn hồi lâu, bỗng như chợt hiểu ra, vội vàng chạy đến nâng Vũ Anh Thư lên rồi quì thụp xuống.
    Sau lúc khách khứa ra về, Ngô Sung còn lưu Vũ Anh Thư lại: - Tướng quân quả là người của thần nhân. Lão phu muốn hỏi tướng quân một đôi điều về hậu vận.
    Vũ Anh Thư nghiêm trang đáp: - Thưa tướng công, hình chữ vương trên trán và nốt ruồi son ở sau lưng cũng đủ nói lên thân danh của tướng công phải vào hàng tướng quốc. Việc đó đến sớm hay muộn còn tùy ở tâm lực của tướng công. Nói xong Vũ Anh Thư từ tạ ra về.
    Chỉ mấy ngày sau, tiếng đồn dậy khắp Biện Kinh. Họ kháo nhau nào thần Giao Chỉ thiêng hơn thần Nam Nhạc, nào tại Giao Chỉ, quỉ ma kêu khóc đầy rừng. Có người còn nói cặn kẽ hơn rằng đất Giao Chỉ voi đi qua là cỏ mọc lấp đường, con suối lội qua là rụng sạch lông chân, rằng khí độc bốc lên là chim bay trên trời phải sã cánh. Thiếu Sư nói xong, quay lại phía quan Đô Tri: - Cho đến giờ, đệ vẫn chưa hiểu một nhát kiếm mạnh như thế mà tại sao chỉ để lại trên áo của tướng quân họ Vũ một vệt rách nhỏ.
    Quan Đô Tri cũng ngẫm nghĩ: - Đệ còn chưa hiểu họ Vũ làm cách nào để biết rõ có nốt ruồi son đằng sau lưng Ngô Sung nhỉ?
    Thái Úy tủm tỉm cười hỏi sang chuyện khác: - Thế Ngô Sung không nhắc gì tới Vương Tể Tướng à?
    - Dạ, thưa Thái Úy, Ngô Sung không hề đả động đến Vương An Thạch nhưng Vương Thiều lại nói bô bô.
    - Vương Thiều nói thế nào?
    - Vương Thiều nói toạc móng heo chả kiêng dè gì cả. Ông bảo cả vùng Lĩnh Nam mất mùa, dân đói mà họ Vương kia không nghĩ đến việc nuôi dân lực, cứ muốn gây chuyện binh đao để kiếm công trạng. Thật là bất nhân. Ông ta còn phỏng đoán ngôi Tể tướng của họ Vương sẽ chẳng được lâu bền vì các bậc lão thần ghét Thạch mà đến các danh nhân trong nước như Tư Mã Quang, Trinh Hạo… cũng không ưa.
    - Đến Vương Thiều mà cũng nói thế kia ư? Trước đây, Vương Thiều là người dâng kế với Vương An Thạch đưa quân đánh chiếm đất Hi Hà để chặt tay nước Hạ. Hai người rất tương đắc kia mà!
    - Dạ Vương Thiều cho biết không chỉ một mình ông mà còn nhiều vị khác trong triều cũng đâm ra bất bình với Vương An Thạch. Họ bảo Vương An Thạch tự ý chuyên quyền, việc gì cũng đi thẳng lên vua Tống không thèm bàn qua nửa lời với ty trung thư và ty khu mật. Vì vậy, Thạch càng bị cô lập và nhiều người gièm pha. Bây giờ Thạch như hòn đảo nhỏ đứng trơ trọi giữa sóng gió trùng dương. Ông ta cho sở dĩ Thạch lâm vào tình trạng ấy là do thói quen kiêu căng của kẻ tuổi còn trẻ mà quyền sớm thịnh.
    - Vương An Thạch không chỉ có tuổi trẻ mà tuổi trẻ lại thêm tài cao nên quyền sớm thịnh - Thái Úy như muốn kể lại cho cân bằng sự đánh giá Vương An Thạch, người mà Thái Úy muốn đưa bàn chân ra ngáng cho ngã ngựa nhưng trong thâm tâm lại phục và trọng.
    Khi câu chuyện đã vơi theo những chén trà Ô Long thơm phức và hai quan cũng sắp cáo từ Thái Úy ra về thì tiếng nói oang oang của lão tướng Trần Nậm đã dội thẳng từ cổng dinh vào đến khách sảnh.
    Vừa thấy mặt Thái Úy, Trần Nậm đã làm một thôi một hồi, giọng cứ ồm ồm chẳng ai nghe rõ. Thái Úy phải lắng tai mãi mới nghe được câu cuối: “Nếu việc công có trễ nải thì Trần Nậm này không chịu đưa cổ cho Thái Úy chém đâu!
    Thái Úy ôn tồn khuyên nhủ gần như dỗ dành người tướng già bẳn tính và hay nóng nảy. Hỏi ra thì đầu đuôi câu chuyện như sau: Năm nay lụt chậm, nếu không đủ nhân lực thưng phên đóng cọc phòng ngừa thì nước lũ bất thần đổ về có thể cuốn sập một góc đê mới đắp.
    - Thế người đi đâu hết?
    - Ôi, cái bọn phu phen mới đến đã đòi về không chịu làm. Lác đác có đứa đã bỏ trốn.
    - Phần việc này thuộc về Thái Bảo. Ông ta ở đấy làm gì mà không giúp tướng quân?
    - Dạ, quan Thái Bảo Nguyễn Châu còn ngồi trên trấn sở lộ Gia Lâm chưa thấy đến.
    Không hỏi thêm nửa câu, Thái Úy gọi đoàn tùy tùng sửa soạn và ngay sáng hôm ấy, tức tốc lên đường đi Như Nguyệt.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 9:57 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương8

    Sáng tinh mơ hôm ấy, mọi làng chạ ven sông thức dậy từ lúc canh ba. Đàn ông âm thầm chêm thuổng tra cuốc, đàn bà lặng lẽ sửa soạn cho chồng con kịp lên đường đi đắp lũy. Họ vừa bó chặt những mo cơm giắt thêm ít muối om vung để cho mặn miệng, vừa thở dài sườn sượt. Ngay đến cả những cô gái phải bán đợ làm nô tỳ cho những nhà quyền thế vừa được sắc chỉ của bà Thái Hậu Linh Nhân cho mở công khố lấy tiền ra chuộc về, nay đã thành vợ nên chồng, cũng mất hẳn cái vẻ tươi roi rói hằng ngày. Họ làm việc một cách uể oải, gượng gạo, nỗi lo lắng làm nẫu lòng họ. Người ta nói loạn lần này lớn lắm. Riêng vó ngựa giặc xéo không thôi cũng đủ trụi cả ngọn cỏ mần chầu. Giặc đông người sẽ tràn qua như nước. Dân chúng phải góp tay đắp lũy để chống nạn lũ lụt này. Nhưng họ đâu có lo buồn vì chuyện giặc giã hay vì chuyện phải đắp đê. Họ không hề có ý tham bát bỏ mâm, chỉ lo việc nhà mà quên nghĩ việc nước. Họ lo lắng vì cơn sương muối trái tiết năm nay đã làm cánh đồng nứt nẻ chân chim, ruộng trơ chân lúa. Đã có nhiều nhà phải lật sân lên làm xướng gieo lại mạ để cấy lúa tái giá. Vậy mà các trị sở bắt phu của quan Thái Bảo đặt ở các lộ, chẳng hay biết gì, cứ lùa người đi phen như lùa châu chấu…
    Đó là những điều mà một ông lão dân phu tóc dài lợp vai, lưng còn thẳng như gióng tre đằng ngà, đã mạnh dạn trình lại với Thái Úy dưới lũy Nham Biền. Thái Úy vừa nghe xong, chiếc roi trong tay ông đã vung lên. Con ngựa chiến sải vó phóng nước đại hàng giờ qua những vùng bị sương muối. Ngồi trên mình ngựa, Thái Úy âm thầm đưa mắt nhìn những cánh đồng ruộng tít tắp, xơ xác một màu lúa sém đỏ quạch như vừa qua một trận hỏa tai không có lửa.
    Thái Úy về đến trú sở Nham Biền thì quan Thái Bảo Nguyễn Châu đã ở đấy. Thấy Thái Úy, ông ta đứng dậy nở một nụ cười trơn tuột trên môi: - Xin Thái Úy yên tâm. Bọn ngang đầu cứng cổ ấy, đệ đã trị thẳng tay để răn đe bọn chúng khỏi khinh nhờn phép nước. Còn đối với những tên bỏ trốn, đệ cho tư trát về làng, phái sai dịch đi tróc nã. Thử xem bọn chúng đứa nào còn dám nho nhoe nữa!
    Nắm đấm của Thái Úy giơ lên trên không rồi bỗng giáng mạnh xuống mặt bàn, tiếp theo một tiếng quát lớn: - Dừng lại! Đình lại! – Lão tướng Trần Nậm vừa vào bắt gặp cơn giận rung người của Thái Úy cũng đứng khựng, sợ xanh mặt. Chén trà để trên bàn bị bắn tung lên, rơi nghiêng xuống rồi xoay tròn như con quay.
    - Chẳng lẽ quan Thái Bảo lại không hay biết gì về trận sương muối trái tiết kéo dài làm trụi cả ruộng đồng ven sông sao?
    - Dạ, thưa Thái Úy – Nguyễn Châu cố lấy giọng nhỏ nhẻ phân trần – đó là chuyện trời làm, người trần mắt thịt như đệ đây thì làm sao biết được.
    - Nhưng ít ra quan Thái Bảo cũng phải biết vì sao dân phu lại xôn xao đòi về và bỏ trốn chứ!
    Quan Thái Bảo không đáp vào câu hỏi, cố xoay sang chuyện khác: - Dạ, Thái Úy chắc hiểu việc cứu đê như cứu hỏa, làm sao đệ dám tự tiện cho chúng về nhà?
    Thái Úy dằn giọng: - Nếu dân đói không yên, quan Thái Bảo có đắp trăm cái đê Như Nguyệt cũng vẫn nhà tan nước mất.
    - Dạ, quả tình đệ không hiểu nổi thâm ý của Thái Úy. Ai biết được giặc Tống kia sẽ tràn sang ta lúc nào. Nếu giặc đến mà lũy đắp chưa xong, không biết rồi sẽ trách cứ vào đâu?
    - Vào đây này - Thái Úy chỉ vào mình – Thà Kiệt tôi một mình chịu trăm nghìn khổ ải, lao tâm tổn trí tìm ra cách cầm chân quân Tống trên đất Tống chứ không thể để cho dân phải bỏ ruộng hóa, không hạt thóc nuôi thân, bỏ làng bỏ xóm ra đi bơ vơ vất vưởng - Thái Úy dừng lại giây lâu, giọng trầm và dịu – Thái Bảo ạ! Bọn ta như những người thợ cả đang xây nước Đại Việt. Bọn ta đang ngồi trên giàn giáo cao vòi vọi. Chỉ cần sơ ý để rơi vãi vôi vữa hay mảnh gạch vụn thôi cũng đủ làm bươu đầu sứt trán kẻ ở dưới. Mong quan Thái Bảo đừng lấy sự nóng giận của Kiệt tôi làm điều.
    Tuy nói thế, Thái Úy vẫn điều Thái Bảo về triều và cử quan Chiêu thảo Kiều Văn Ung thay thế.
    Chiều hôm ấy, Thái Úy cho tất cả dân phu ở vùng bị sương muối về làng và phân phát cho mỗi người năm bó lúa. Bọn họ ra về hoan hỉ và hứa sau khi nhổ lúa cấy tái giá xong, họ sẽ lập tức lộn lại ngay Như Nguyệt.
    Không để cho Trần Nậm hỏi, Thái Úy rút lệnh tiễn phái người chạy ngựa về kinh thành đưa hai đội cấm quân Bảo Thắng và Vạn Tiếp lên, cùng sang lộ Lạng Giang lấy thêm thổ binh đến để tạm thời bù vào số nhân lực bị hao hụt. Thái Úy truyền nấu cơm nếp, lấy cá mắm và rượu Luy Lâu để mở tiệc khao quân.
    Bữa tiệc đã ngả ra trên đất, trước đây lều lợp lá qua quít để che tạm sương nắng. Lính cấm vệ chia ra từng tốp ngồi vào mâm. Họ ăn uống nhồm nhoàm, nói cười ầm ĩ. Thái Úy đi ngang qua tốp lính ngồi đầu lều đã nghe tiếng bàn cãi sôi nổi. Không hiểu câu chuyện vào đề thế nào mà có người cứ bô bô: - Phải nghĩ ra cách cơ. Chứ nước Tống to như con hổ. Đại Việt ta bé như chú cáo con, đánh thế nào được hổ?
    - Đã hổ với cáo thì cậu bảo làm bạn với nhau thế nào được?
    - Được lắm chứ! – Kẻ kia gân cổ cãi lại. Muốn đánh bạn với hổ, cáo phải làm cho hổ thấy rằng không có cách gì vồ được cáo cả. Lâu ngày, hổ sẽ chán và trở lại làm lành với cáo.
    - Thế thì chỉ có cách cáo leo lên cây nhòm xuống!
    - Và hổ ngồi ở dưới gốc cây nhòm lên chứ sao!
    Một kẻ khác đưa tay chỉ vào người đang nói: - Được nhé! Hễ quân Tống sang đây, tao cho mày leo lên cây, xem thử quân Tống có đánh bạn với mày không.
    Thái Úy lẳng lặng mỉm cười. Kể về tinh khôn thì ta đâu có thua chú cáo ranh mãnh. Nhưng ví như thế vẫn còn so le. Cũng có thể ta là con nhím. Nhím vẫn ở yên nhưng ai đụng vào nó là nó xù bộ lông nhọn cứng như sắt. Ông vừa suy nghĩ miên man vừa lắng tai nghe câu chuyện khác của tốp lính ngồi ăn ở góc lều. Họ đang kháo nhau về cách thịt con gà thế nào cho thật nhanh chóng.
    Một gã mặt rỗ hoa, bĩu môi kéo rê giọng: - Giết gà mà phải dùng nước đun làm lông là hạng bét. Tớ chả cần nước nôi gì mà chỉ chớp mắt rít xong điếu thuốc lào là tớ đã có thịt ăn liền.
    - Nói khoác! Nói khoác! – Nhiều tiếng nhao nhao kêu lên.
    - Tớ đã nói phải là giống gà ri chân đỏ, lông xù như bông của nhà tớ kia!
    - Ừ! Thì cứ cho là gà ri lông xù, mày làm cách nào, nói đi.
    Gã mặt rỗ chậm rãi nói, nét mặt trịnh trọng như đang sắp tiết lộ một bí mật gia truyền: - Tớ châm mồi đóm vào nó điếu rồi tiện tay ném luôn vào giữa lưng con gà. Gà càng chạy nhanh lửa càng bốc cháy bùng bùng. Đúng là tớ vừa rít xong điếu thuốc lào là thịt gà đã chín vàng hươm.
    Nhiều người cười ngặt nghẽo. Thái Úy cũng bật cười. Riêng gã kể chuyện nét mặt vẫn tỉnh rụi và còn lộ vẻ ngạc nhiên như điều mình nói thật đến thế mà sao mọi người lại cười cợt không tin.
    Khi Thái Úy bước vào trú sở thì đã thấy viên tùy tướng đang quát mắng một tên quân cấm vệ ở đội Bảo Thắng. Tên này hình thù dị hợm, hai tay bị trói giật cánh khuỷu.
    - Chuyện gì đấy?
    - Dạ, bẩm Thái Úy, tên này ăn nói quàng xiên, hỗn láo dám phạm đến Thái Úy.
    - Hắn nói thế nào?
    - Dạ, bẩm con không dám nhắc lại.
    Thái Úy quắc mắt nhìn tên cấm vệ: - Ngươi có dám nhắc lại những điều ngươi vừa nói về ta không? Nói đi!
    Tên cấm vệ thản nhiên nhìn thẳng vào Thái Úy: - Xin tuân lệnh! Nghe đồn Thái Úy có ba tội. Tội thứ nhất vì muốn lấy lòng Tiên Đế, Thái Úy đã phá tan nhân duyên của người ta, đem công chúa Thiên Thành gả cho kẻ khác. Tội thứ hai, vì ghét Hoàng Hậu Thượng Dương, Thái Úy đã hạ bệ Người…
    - Còn tội thứ ba?
    - Tội thứ ba, vì tranh quyền đoạt chức, Thái Úy đã đày Tể Chấp Lý Đạo Thành đi châu Hoan.
    Lão tướng Trần Nậm ở đằng sau nhà vừa bước ra, vội dừng lại. Từ xa Trần Nậm đã nhận ra Địa Vân, người lính cấm vệ ngang tàng mà ông đã gặp trong nhà quan Thái Bảo Nguyễn Châu. Lần này ông thực sự lo lắng cho số phận của gã. Nghe gã nói mà ông thấy tháo mồ hôi hột. Ông tưởng chừng như đã nghe tiếng quát “Chém!” của Thái Úy vang lên khi gã vừa dứt lời. Nhưng Thái Úy điềm tĩnh nghe xong lại quát quân hầu cởi trói cho gã. Đoạn Thái Úy bảo viên tùy tướng bê ra một cái mâm trên đặt hai tấm đoạn, hai tấm vải quyến và sáu trăm đồng tiền.
    - Đây, ta thưởng cho ngươi. Ngươi biết ta thưởng vì cái gì không? Về chuyện ngươi dám nói thật. Bình sinh ta rất thích những lời nói thật. Mai đây, triều đình sẽ có sắc chỉ cầu người nói thẳng, nói thật. Hơn nữa, lời nói thật này có thể làm ngươi mất đầu mà ngươi vẫn cứ nói. Vì vậy, ta thưởng ngươi gấp bội. Còn điều ngươi nói đúng hay sai thì tự ngươi phải ngẫm nghĩ, tra soát lại rồi sẽ đến trả lời cho ta biết sau.
    Địa Vân chợt như tỉnh rượu. Gã luống cuống xòe hai bàn tay vừa được cởi trói, ngập ngừng nhìn hết bàn tay này sang bàn tay nọ. Giọng Thái Úy cất lên: - Vậy ta hỏi ngươi, bão là tốt hay xấu, có lợi hay có hại, Ngươi trả lời cho ta xem nào.
    - Dạ, thưa Thái Úy, bão lụt là thiên tai thì chỉ có xấu, có hại chứ tốt thế nào được ạ?
    - Thế ví thử nước ta đang bị hạn hán. Ruộng đồng nứt nẻ toang hoác. Bỗng có cơn bão thổi, đem mưa đến. Dân có nước cày cấy. Cơn bão ấy tốt hay xấu?
    - Dạ, thế thì lại tốt ạ - Địa Vân lúng túng trả lời.
    - Dĩ nhiên là gió bão có làm đổ cây rụng lá và đôi khi làm long cửa bay ngói trên mái lầu của một vị quyền quí cao sang nào đấy. Nhưng không vì thế mà cho cơn bão ấy là xấu. Muốn biết xấu hay tốt là phải nhìn vào cái lợi chung chứ không chỉ nhòm vào cái hại riêng mà đánh giá được. Ta nói thế để ngươi suy nghĩ. Còn bây giờ… - Thái Úy nhìn thẳng vào mặt Địa Vân hồi lâu – Ngươi đã có khẩu khí như vậy, ắt phải có chút tài. Nếu ngươi quả bất tài mà dám lớn tiếng khinh mạn quan trên thì tội ngươi đáng phạt 50 trượng, lột áo cấm vệ, đuổi về quê quán.
    - Dạ, bẩm Thái Úy – Hắn nhỏ giọng xuống – Kẻ hèn này cũng có chút tài mọn đúng như cái tên thiên hạ thường gọi.
    - Vậy ngươi tên gì?
    - Dạ tên Địa Vân. Nghĩa là mây trên đất.
    - Mây trên đất! Thế là tài gì?
    - Tài loan mâm ạ!
    - Có lấy được thủ cấp quân địch không?
    - Dạ, chỉ lấy cặp giò thôi ạ.
    Nói xong, Địa Vân lần tay tháo cái vật đeo đằng sau lưng xuống, cởi lần da thú bọc ngoài để lộ một chiếc mâm đồng cổ quái. Chiếc mâm này chỉ có hai chân, giữa đúc bằng đồng thau thành mâm bằng loại kim khí khác, mài sáng quắc hơn dao cau. Đến bây giờ Thái Úy mới kịp để ý đến loại binh khí kỳ quặc này. Địa Vân bước ra ngoài và ngỏ ý mời Thái Úy đi theo gã để xem gã thi thố tài năng.
    Đến miếng đất trống chung quanh có cây cối mọc lúp xúp, Địa Vân đứng trụ bộ lún người xuống, vung mâm. Chiếc mâm loang loáng quay tít trong tay gã, mỗi lúc mỗi nhanh. Tán mâm quay sang phải tràn sang trái, loang rộng ra bốn phương tám hướng. Người gã tròn như quả cầu lăn theo bóng mâm chập chùng, lúc ẩn lúc hiện trong quầng mâm dày đặc trông xa trắng xóa như đám mây chiều lợp trên đất. Bỗng gã thét lên một tiếng, bóng mâm lao thẳng vào bụi cây bên cạnh. Dường như có tiếng thân cây khẽ rùng mình, ngơ ngác trong khắc giây rồi lặng lẽ đổ xuống. Đường mâm đi xén ngọt cây lá bằng bặn như dao tiện.
    Thái Úy cười hể hả vỗ vai Địa Vân: - Ta từng nghe mang máng có người nói đến dũng sĩ loan mâm, nay mới được thấy tận mắt. Vậy phép loan mâm này, tráng sĩ có truyền lại được cho kẻ khác không?
    - Dạ được. Nhưng phải chọn người có cốt cách.
    - Hay lắm. Ta sẽ để tráng sĩ tự ý tuyển chọn người cho hợp mắt mình nhưng con số không quá một trăm. Ta sẽ tâu lên Thánh thượng cho lập một đội dũng sĩ loan mâm, phiên chế ghép trong đội quân Cấm Thành và lấy tên đội là Bảo Vân. Tráng sĩ sẽ làm đô trưởng. Vậy ý tráng sĩ thế nào?
    Địa Vân chắp tay vụng về cúi đầu bái tạ. Điều gì Thái Úy đã quả quyết là phải làm ngay. Sau khi lão tướng Trần Nậm chạy đến ôm Địa Vân, lắc mạnh đến sái vai gã để chúc mừng, gã lững thững ra về, lo thu xếp bắt tay vào công việc mới.
    Trời chiều muộn không một hơi gió. Dải mây thành sừng sững kéo một vệt đen sậm từ chân Nham Biền đến chóp núi Tản Viên. Địa Vân thoáng nghe tiếng một cụ già bảo với ai đấy: - Có bao giờ tiết ngâu mà mây đóng thành, đóng lũy thế kia. Dễ chừng hơn bốn mươi năm nay, lão mới lại thấy nó đấy.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:06 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 9


    Đối với tướng quân Trần Nậm, những ngày Như Nguyệt là những ngày lạ lùng nhất trong đời ông, dẫn ông đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đê đắp càng cao, lũy đất càng dài, ông càng thấy sáng kiến phòng thủ này quả có một không hai. Bên trái ông là thượng lưu sông Nam Định với dãy núi Tản Viên đứng đằng sau, cao ngất, mây sừng sững như bức trường thành. Bên phải ông, có con sông Lục Đầu nằm ngang rồi đến dải Bạch Đằng giang mênh mông sông nước vỗ trời. Muốn đến được quả tim nước Việt về đường bộ, mọi cuộc tiến quân từ phương Bắc xuống, nhất thiết đều phải qua khúc sông giữa này, khúc sông Như Nguyệt. Ở đoạn này có nhiều bến đò và nhiều đường lớn qua sông. Đây là con đường cửa ngõ, thuận tiện và gần nhất để tiến xuống phía Nam. Nhưng công trình phòng ngự này đã đổi thế sông Nam Định, biến khúc nước Như Nguyệt thành một dải hào sâu và bờ nam ngạn một dãy lũy thành kiên cố. Nó che chở cho đồng bằng phì nhiêu của nước Việt, kinh thành Thăng Long và cũng ngang tầm quan trọng với kinh thành, vùng Thiên Đức, nơi để lăng tẩm các vị Tiên Đế vì ở thời ấy, mất lăng tẩm Tiên Vương cũng coi như mất nước.
    Càng suy gẫm, ông càng không ngớt trầm trồ thán phục tài ba của Thái Úy. Ông không hiểu làm sao một bộ óc người lại có thể bỗng chốc nghĩ ra được một ý đồ quân sự tuyệt diệu đến thế. Thực ra ý đồ quân sự thiên tài này không phải nảy sinh trong chốc lát. Từ ngày vua Lý Thánh Tông mới lên ngôi, Thái Úy đã dè chừng cái họa xâm lăng của nhà Tống. Hễ Tống yên được ở phương Bắc là không để cho phương Nam yên. Tuy Tống đang hai tay bận đỡ Liêu, Hạ, một chân lún sâu vào đất Thổ Phồn nhưng không vì thế mà Thái Úy dám lơ là coi khinh cái chân còn rỗi rãi. Thái Úy hiểu rằng cái chân của một ông khổng lò một khi gác qua người cũng nặng như núi đá.
    Không biết ý nghĩ đắp lũy Như Nguyệt mơ hồ lóe lên trong đầu óc ông trong một chuyến đi kinh lý nào đấy hay dưới một ngọn đèn khuya, nhưng rồi nó tắt đi như cái mầm non mọc giữa lòng cát. Hễ nhích lên được một đốt là cát lại khỏa đi. Mãi đến lúc vua Lý Thánh Tông đột ngột trút hơi thở cuối cùng, ý đồ ấy đột nhiên bừng dậy trong đầu óc ông. Dường như cái chết của vị minh quân hóa thành trận gió lớn thổi bay mọi lớp cát dày để cho cái mầm non ý đồ ấy vươn dậy mọc thành cây.
    Chưa hết ngạc nhiên về tài năng của Thái Úy, tướng quân Trần Nậm lại sửng sốt về lối xử thế của Người. Ông đem so sánh thái độ đối xử của Thái Úy với quan Thái Bảo và anh lính Địa Vân. Một đằng có sai phạm theo ông là nhỏ mà lại là vị quan to thì Thái Úy đùng đùng nổi giận và dâng sớ về triều đòi giáng chức. Một đằng, anh lính trơn mà dám hỗn hào phạm thượng thì Thái Úy lại bình thản như không, lại còn cất nhắc anh ta lên làm Đô giám. Suy đi xét lại, ông chỉ biết rút ra một điều là Thái Úy biết trọng những kẻ có thực tài.
    Lại đến viên chiêu thảo sứ Kiều Văn Ung, người điền chân Thái Bảo, cũng đem đến cho ông nhiều sự bất ngờ. Viên quan ấy trông tuổi còn trẻ mà làm việc già dặn đâu ra đấy. Hễ y đã nói là dân tình nghe răm rắp. Có phải vì y có bộ râu thưa nho nhã dễ ưa hay do khoa ăn nói rành mạch thấu tình đạt lý của y mà thuyết phục được lòng người.
    Tuy nhiên, điều làm ông không hết ngạc nhiên là tài chế tạo mộc xa của gã trai tráng bạch đinh đâu như quê ở vùng biển. Gã đang độ tuổi xuân mà tính khí lầm lì, ít nói nhưng công việc thì say sưa miệt mài thâu đêm suốt sáng. Không biết gã moi đâu trong đầu óc ra lắm loại xe gỗ thế. To có, nhỏ có, cái cầm tay, cái đẩy, cái kéo. Có cỗ xe lăn trên đất rắn, lại có cỗ trượt trên ruộng lầy. Công việc đắp đê nhờ xe chuyên chở nhanh gấp đôi. Một tay gã đã dựng lên xưởng mộc, lò rèn và đào luyện nên mấy chục người thợ giỏi giang. Vì yêu tài, ông đã mấy lần muốn tiến cử gã với triều đình nhưng lạ quá, gã cứ tìm mọi cách thoái thác. Lạ hơn nữa là bố gã cũng lắc đầu quầy quậy.
    Nhiều lần ông cố mời Thái Úy lên lũy để khoe gã trai có tài lạ này với Thái Úy. Nhưng Thái Úy đang bận việc quân. Bắc thùy đang sắp sinh biến. Nhiều đoàn quân hạ du rầm rập kéo qua sông tiến lên biên giới. Ông đành đợi một dịp khác. Dịp may ấy đã đến. Sớm nay, Thái Úy từ Vạn Xuân tạt qua Nham Biền lên thăm lũy Như Nguyệt. Thái Úy vừa về đến, việc đầu tiên của ông là dắt tay Thái Úy đi xem quang cảnh rộn rịp ở trên đê. Hàng đoàn xe tải đất thong dong nối đuôi đi qua, tiếng gỗ nghiến ken két như rít vào tai. Nhìn cảnh tượng lạ mắt ấy, Thái Úy như sững lại một giây: - Kẻ chế loại mộc xa này quả có biệt tài!
    - Nhưng hắn ta làm phách lắm. Mấy lần Nậm tôi định tiến cử nhưng hắn chối đây đẩy.
    - Ôi! Kẻ tài thường có tật như ngựa hay thường có chứng. Ta nên bỏ qua tật mà dùng tài. Tướng quân đừng quá cố chấp. Ta sẽ cho người đi mời hắn lên trú sở gặp ta.
    - Khỏi cần! Khỏi cần! Để đích thân Trần Nậm này đi gọi hắn thì mới được. Nếu lần này hắn lại giở chứng thì Nậm tôi sẽ thộp ngực lôi hắn tới đây cho Thái Úy.
    - Khoan đã! Tướng quân nên từ tốn, lấy lễ mà đãi kẻ sĩ. Đừng quá nôn nóng mà đôi khi hỏng việc đấy.
    - Vâng, vâng! Trần Nậm vừa cười vừa đáp rồi quày quả bước về phía ven đê. Tuy ngoài miệng nói vậy mà trong lòng ông khấp khởi mừng thầm. Không hiểu vì sao, ông vẫn dành cho chàng trai tính khí kỳ quặc này một sự ưu ái đặc biệt và những muốn giúp gã kiếm chút công danh. Gần đến xưởng mộc, ông đã nói to từ cửa vào: - Ta đem tin mừng đến cho bố con nhà ngươi đây. Mau mau soạn sửa lên gặp Thái Úy. Lần này là cơ hội tốt để cá hóa rồng đây!
    Gã thợ đóng mộc xa vụt đứng dậy, lúng túng hồi lâu: - Xin nhờ tướng quân về bẩm với Thái Úy, bố con tôi lâu nay sống nơi thôn dã hủ lậu, chưa quen lễ nghi cung đình nên không dám gặp Thái Úy sợ xảy ra điều gì thất thố…
    - Đừng sợ! Đừng sợ! Thái Úy không phải như người khác đâu. Gặp một cái là ngươi sẽ biết ngay.
    Để cho gã thêm yên tâm, Trần Nậm đem chuyện Thái Úy gặp Địa Vân ra kể một thôi một hồi. Gã đứng nghe, chớp chớp đôi mắt rồi nhỏ nhẻ nói: - Vâng ạ! Xin để cho bố con tôi rửa ráy qua, vuốt lại nếp áo rồi sẽ lên sau.
    - Nhớ đừng để cho Thái Úy phải chờ lâu nhé!
    Trần Nậm vừa bước ra, người bố vội bảo nhỏ con: - Công tử ơi! Thái Úy đã có mặt ở đây rồi. Ta phải bỏ trốn đi thôi.
    Người con chính là Lý Ngân và ông bố là lão Triệu. Chàng đã lên đây một thời gian khá lâu. Chàng cũng đã đem thi thố chút ít học hiểu của mình đáp lại tiếng gọi của đất nước. Bây giờ chàng đưa mắt nhìn quanh gian nhà một lượt rồi khẽ gật đầu: - Đúng đấy! Đã đến lúc ta có thể bỏ đi được rồi.
    Hai người lẳng lặng lần đường ra bến sông để đáp thuyền về Kinh. Vừa ra đến đường cái lớn, Lý Ngân nghe có tiếng ngựa phi dồn dập. Chàng vội nép mình vào đám cây lá rậm rạp, ló mắt nhìn ra. Vừa trông thấy người kỵ mã đi đầu lướt qua, chàng giật thót mình, tim chàng đập rộn. Hình dáng quen thuộc của Hạnh Hoa, mắt chàng không nhầm lẫn được. Hạnh Hoa! Hạnh Hoa! Chàng thầm gọi tên nàng. Mối thù Thái Úy giết cha lâu nay bắt chàng phải cố ghìm nén mọi tình cảm, xua đuổi bóng hình nàng đôi khi còn lởn vởn đến thăm chàng trong giấc chiêm bao. Nhưng cuộc chạm mặt thoáng giây vừa rồi như trận gió bất ngờ thổi bay lớp tro vùi mong manh và ngọn lửa yêu thương cũ trong lòng chàng lại bốc cao hơn trước.
    Một ý định táo tợn gần như tuyệt vọng đột nhiên đến với chàng khiến chàng đứng ngẩn người ra. Lão Triệu ở đằng sau giật giật gấu áo chàng: - Ta đi nhanh thôi công tử!
    Lý Ngân quay lại, nét mặt ảm đạm: - Không, ta đi gặp Thái Úy.
    - Ô hay! Công tử điên rồi sao? – Lão Triệu mở to đôi mắt tròn xoe – Tự dưng lại đem thân đến nộp miệng hùm.
    Giọng Lý Ngân rầu rầu: - Từ lâu, thân này ta đâu còn thiết nữa. Chuỗi ngày xanh của ta đã bị tiện đứt khi ta giương cung buông mũi tên thù. Dù sao ta cũng phải nhìn lại nàng một lần cuối.
    - Công tử quên mình đang là kẻ tội đồ ư?
    - Ta chả quên gì cả. Ta chỉ nhớ là ta phải gặp lại nàng.
    Nói xong, Lý Ngân quả quyết ra đi. Lão Triệu lắc đầu, lẽo đẽo theo sau…
    Trong lúc ấy, Thái Úy mỉm cười bảo con gái: - Lần này con lại vất vả đi thăm sức khỏe của cha đấy ư?
    Hạnh Hoa cũng cười đáp: - Thế lâu ngày nhớ cha, con không lên thăm cha được sao?
    - Cha biết! – Ông đưa một ngón tay lên – Cha biết Thái Hậu Linh Nhân muốn vời cha về bàn chuyện quan Thái Bảo Nguyễn Châu.
    - Không chỉ vì việc ấy đâu cha ạ!
    - Lại còn việc gì nữa?
    - Nhiều lắm. Hôm qua chú Hiển ở trong ra, co nói nước Chiêm Thành đang loạn to.
    - Thế à!
    Tướng quân Trần Nậm bước vào nói với Thái Úy: - Lạ quá! Đến giờ, vẫn chưa thấy gã đến. Rồi ông quay sang Hạnh Hoa giơ nắm đấm lên: - Chà, chà! Con bé này cũng lên đấy đắp lũy với chú Nậm à?
    Dáng điệu Trần Nậm nhắc Hạnh Hoa nhớ lại lúc còn bé khi nàng theo cha vào đất châu Ái. Hễ mỗi lần gặp chú Nậm đâu, Hạnh Hoa lại bắt chước lũ trẻ quanh nhà, vừa nhảy lò cò vừa đưa tay chỉ vào bộ râu, hét toáng lên: - Tướng Nậm rậm râu! Tướng Nậm rậm râu! – Kỳ cho đến lúc ông giơ nắm tay to tướng ra mới cười ré lên bỏ chạy. Vì vậy, giờ đây thay cho câu đáp lại, nàng chỉ vào chòm râu của ông gọi lớn: - Chú Nậm! Chú Nậm! rồi cười ngặt nghẽo. Nậm vờ xòe bàn tay lên che chòm râu rậm, cố lấy giọng giận dữ: - Con gái lớn tướng rồi mà cứ tưởng mình còn nhỏ nhoi lắm hả? – Hạnh Hoa càng ôm bụng cười khanh khách.
    Nhưng có người vào báo cha con người thợ mộc đóng xa đã đến. Trần Nậm thôi đùa, đưa tay mời Thái Úy. Trước khi đi, Thái Úy dặn con gái ở đấy chờ ông chốc lát.
    Trong nhà khách, lão Triệu đứng thu lu ở một góc, còn Lý Ngân thì đứng khuất sau lão. Thái Úy bước vào hướng về phía lão Triệu, ân cần vồn vã: - Ta được nghe tướng quân Trần Nậm nói về con trai lão. Mắt ta lại được thấy mộc xa. Ta rất mừng cho lão sinh hạ được một người con tài chí hơn người.
    Lão Triệu cúi sát xuống, lí nhí trong cổ họng: - Dạ, bẩm quan lớn quá khen, bố con tôi đâu dám ạ!
    Thái Úy quay sang hỏi Lý Ngân: - Này, chàng trai trẻ kia ơi! Chàng học ở đâu cách đóng mộc xa hay tự mình suy nghĩ tìm tòi mà chế tạo ra được vậy?
    Lão Triệu đỡ lời: - Bẩm quan lớn, bố con tôi theo nghề đóng thuyền từ lúc bé nên mọi thứ đều có biết qua chút ít, dạ chỉ quen tay thôi, chứ chẳng có gì tài cán cả.
    Trần Nậm ngứa tai nói chõ vào: - Thái Úy hỏi thì cứ để con lão trả lời, sao lão cứ tranh lời của nó.
    Tuy Lý Ngân đã cải trang nhưng lão Triệu vẫn lo ngay ngáy. Bây giờ nghe Trần Nậm nói, buộc lòng lão phải bảo Lý Ngân:
    - Con biết gì cứ nói ra cho quan lớn nghe.
    Lý Ngân vẫn cúi gầm mặt ậm ừ: - Con chỉ biết làm thôi chứ con không biết nói như bố.
    Thái Úy mỉm cười: - Ôi! Một người có biệt tài như chàng mà không biết mình tài, kể cũng hiếm thấy. Hay chàng chưa tin ta mà giấu tài chăng?
    Từ nãy đến giờ, Lý Ngân vẫn cố ghìm mình xuống. Mặc dù vì việc nước, mối thù kia chàng vẫn phải tự nhủ mình hãy tạm gác sang một bên, nhưng cơn giận sôi sục từ nơi sâu thẳm nào kéo lên phừng phừng đốt lửa trên mặt chàng. Mọi ý định đến đây gặp Hạnh Hoa đều tan biến. Chàng ngẩng phắt đầu lên, nhìn thẳng vào kẻ thù giết cha, dõng dạc nói: - Nếu tiểu sinh có giấu tài cũng vì ở đời còn lắm kẻ vì ghen tài mà ám hại người khác.
    Câu nói đầy hàm ý này hình như không động chạm gì đến Thái Úy. Ông chỉ hơi sửng sốt. Cặp mắt sắc của ông như vừa tìm thấy một điều gì. Nhưng Thái Úy vẫn thản nhiên đáp: - Về nghề mộc xa, ta tin chắc ngoài chàng ra không có được người thứ hai nên chẳng có ai ghen tài chàng đâu… Ta còn mong chàng có nhiều tài khác.
    Lý Ngân bắt ngay câu nói dường như có ý thăm dò của Thái Úy: - Tiểu sinh còn một tài nữa.
    - Tài gì, chàng hãy nói đi.
    - Tài bắn chim trời! Lý Ngân buông lời như một thách thức.
    Thái Úy vui vẻ cười to: - Tướng quân Trần Nậm! Cung tên đâu hãy mang ra đây để ta thưởng thức tài thiện xạ của chàng trai trẻ này.
    Lão Triệu run sợ khúm núm vái dài Thái Úy: - Đứa con lão non dại. Hắn biết gì nghề cung kiếm đâu. Xin Thái Úy mở lòng tha cho hắn cái tội ngông cuồng khoác lác.
    Từ nhà trong, Hạnh Hoa cũng vội chạy ra: - Cha ơi! Con xin cha hãy thôi cái chuyện cung tên đi. Cũng vì nó mà cha suýt một lần mang họa.
    Nàng quay lại bắt gặp cặp mắt Lý Ngân đang nhìn mình đăm đắm. Ánh mắt ấy như rọi thẳng vào tim nàng làm nàng bàng hoàng. Nàng thảng thốt ngập ngừng như muốn hỏi: - Hắn là ai thế hở cha? – Nhưng rồi như có chủ định, nàng tiến lại gần chàng trai. Lão Triệu vội bước ra cản đường: - Thưa tiểu thư, hắn là con trai lão. Lão là bố hắn.
    Thái Úy nhìn hai cha con lão nói như ra lệnh: - Thôi được. Ta thấy cha con lão có nhiều biệt tài nên muốn mời về làm môn khách. Hai người hãy về trại thu xếp rồi đến đây theo ta về kinh.
    Lão Triệu cảm tạ Thái Úy rồi kéo Lý Ngân ra về. Thái Úy nhìn theo họ quay sang bảo Trần Nậm: - Tướng quân hãy cho người kín đáo theo dõi họ. Nếu thấy họ bỏ trốn thì cứ để họ đi, không ai được ngăn cản phiền hà họ.
    Còn lại hai người, Hạnh Hoa hỏi nhỏ: - Hắn là ai thế hở cha?
    - Hắn là một chàng trai có nhiều tài lạ. Con nghi ngờ gì hắn chăng? Cứ đợi rồi sẽ biết.
    Khi được tin báo cha con gã thợ mộc xa đã bỏ trốn rồi, ông mới nói: - Hạnh Hoa! Điều con nghi là đúng đấy. Hắn chính là Lý Ngân.
    - Trời ơi! Lý Ngân! Thế mà cha không bắt lại.
    - Lý Ngân thì càng phải tha. Vì cha đang lo xây đắp lũy thành.
    - Chàng ta chả bỏ Như Nguyệt ra đi rồi đấy sao?
    - Không phải lũy thành này mà là lũy thành kia con ạ - Ông nhìn ra ngoài xa, nơi những người dân đất thổ mộc đứng thủ mai xắn những miếng đất to bằng cối đá lỗ. Giọng ông tha thiết xa xôi như đang bộc lộ một ý đồ đã được nung nấu từ lâu – Một thành lũy vô hình mà hóa hữu hình, còn vững chắc hơn gấp nghìn lần thành lũy Như Nguyệt. Một thành lũy kết chặt lại được mọi lòng người, chịu đựng được mọi thử thách gian lao. Đó cũng chính là điều ta sắp đem tâu trình với Linh Nhân Thái Hậu…
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:09 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 10


    Cái điều liên kết lòng người mà Thái Úy đệ trình lên Thái hậu Ỷ Lan trong năm Giáp Dần ấy thật ra phải đợi một trăm năm sau, năm Giáp Ngọ, hậu thế mới thấy hết được tầm hệ trọng của sách lược này. năm Giáp Ngọ là năm nước ta đã lớn đến độ tuổi mà vua Tống Hiếu Tông không thể không xóa chữ "quận" thay vào dấy chữ " quốc", phong cho vua Lý Anh Tông An Nam quốc vương, đầu tiên công nhận nền độc lập của nước Đại Việt. Sứ ta, Lý Bang Chính thời ấy từ đất Tống ra về, mừng chảy nước mắt đề vội bài thơ lên bưu đình trong có câu "Thử khứ ưu thành tứ quốc danh" (đi lần này thành công lớn là được ban tên nước).
    Đó chính là cái đích trong mai hậu mà Thái Úy Lý Thường Kiệt ngày đêm lao tâm khổ tứ căng mình ra để vươn tới. Ngày mai xán lạn của lịch sử ấy được bắt đầu từ một ngày xuân của năm Giáp Dần, khi quốc tướng Thái Úy, đầu óc nặng suy tư, bước vào cung Kiền Hoa.
    Thái Hậu Ỷ Lan vừa xa giá đi thăm làng quê cũng đã trở về. Bờ dâu cũ ở làng quê còn khuấy động lên trong bà những gợn sóng xanh của guồng xoay quá khứ. Bà như lùi ra xa đứng mỉm cười trìu mếm nhìn cô gái Ỷ Lan tươi rói trong ruộng dâu, lanh al"nh hát bài "Đông đào Tây liễu". Tiếng hát nửa chừng bỗng nghẹn khi xe vua dừng lại trước rèm dâu ...Cô gái hồn nhiên trong bà lúc ấy không một thoáng đăm chiêu, sống vô tư như con chim trới cất cao tiếng hót.
    Vậy mà giờ đây, việc nước nặng trĩu hai vai. Bà phải chăm lo nghề chăn tằm dệt vải, làm gốm, đánh cá, trồng hoa quả, đốn gỗ và cả mọi việc trong công thương nghệ. Đến việc làm muối dưới biển, săn tê tượng trên rừng, bà cũng phải để mắt đến.
    Hạnh Hoa đang sửa lạc các biểu tấu trên án thư, ngẩng đầu thấy trước Thái Úy, vội reo lên:
    - Cha ơi ! Thái Hậu về thăm làng thấy dân tình khốn quẫn vì bọn trộn trâu. mấy nhà phải cày chung một con traû. Thái Hậu ra sắc chỉ mới.
    Thái Hậu nối lời:
    - Trước đây ta đã ra lệnh cấm giết trâu. Nhưng nay việc giết trâu lại nhiều hơn trước. Sắc chỉ này ra phải phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ con hàng xóm về tội không tố giác. Thượng phụ thấy thế nào?
    - Thấy được con trâu đứng đầu trong cơ nghiệp nhà nông, cái tài nhìn xa ấy, quả chỉ có Thái hậu mới có. Ngay Kiệt tôi cũng chưa nghĩ được thấu đáo như Thái Hậu. Duy có phạt thì nên có thưởng, có chê cần phải có khen. lão phu nghĩ Thái Hậu nên khen thưởng những người nuôi được nhiều trâu để khuyến khích họ.
    Thái hậu Ỷ Lan hớn hở:
    - Hạnh Hoa! Em nhớ ghi thêm những lời của cha nói vào sắc chỉ.
    Đoạn Ỷ Lan quay sang Thái Úy:
    - Đã lâu ta muốn gặp Thượng phụ để bàn lại việc quan Thái Bảo Nguyễn Châu ... - Nguyễn Châu có lần đến vật nài than phiền với Thái hậu về thái độ đối xử quá đáng của Thái úy đối với ông ta - Ta không biết Nguyễn Châu tội nặng nhẹ thế nào nhưng ỷ Lan tôi nghĩ quan thái Bảo đã phò ba đời vua, Thái Úy nên châm chước.
    Thái Úy vui vẻ:
    - Lần trước, sau khi nghe Thái hậu nói, lão phu có nghĩ lại cũng thấy mình quá xét nét. Thái hậu rộng lượng với bề tôi như vậy là phải.
    Được lời của Thái Úy. Ỷ Lan thấy nhẹ nhõm người. Câu chuyện bà tưởng sẽ gay gắt lại hóa ra nhẹ nhaàg trôi chảy. Bà hơi ngỡ ngàng trước sự dễ dãi của vị quốc tướng nổi tiếng nghiêm minh này. Nhưng cảm giác ấy chỉ thoáng qua và bà tiếp tục nói:
    - Sáng qua, quan chiêm tinh vừa bước xuống vọng tinh đài lập cập đến báo cho ta biết điềm sao Thái Hạt đã xâm phạm vào sao Chẩn, tính phận của phương Nam, e trong nước sắp có nạn binh đao, dịch tật. Ta lại nghe ở Bắc thùy xảy nhiều chuyện lôi thôi, còn mặt Nam thùy, nước Chiêm đang có loạn lớn. ỷ Lan tôi thật lo lắng vô cùng.
    - Điềm trời báo quá chậm - Thái úy hóm hỉnh - theo tin nội dịch, lão phu biết nhà Tống có bụng đánh ta từ lâu rồi - Ông dừng lại đắn đo như cân nhắc từng lời - Theo ý lão phu thì hiện tình, sự đáng lo lại không phải ở biên thùy.
    Quả thật chuyện biên thùy, Thái úy đã tính toán kỹ lưỡng. Ở phía Nam, nước Chiên Thành có loạn tranh ngôi, quốc vương Chiêm Thành có loạn tranh ngôi, quốc vương Chiêm Thành là Chế Củ cùng
    vợ ba con và ba nghìn quân cưỡi thuyền chạy ra đất ta xin tị nạn. Để đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra. Thái úy hạ lệnh cho em trai là Tán Kị tướng quân Lý Thường Hiển gấp rút chiêu dân ờ hai châu Hoan, Ái đưa vào nơi đất mới củng cố đường biên giữa hai nước. Còn ở Bác Thùy, dã tâm của nhà Tống càng ngày càng lộ dần. sát khí đao binh bừng bừng ở hai phía. Nhưng qua nhiều lần thăm dò. Thái Úy biết tính vua Tống thường mềm nắn rắn buông. Vì vậy, trong việc biên giới, ông rất cứng rắn nhưng trong bang giao thì lại hòa dịu. Hai bên đang ở thế giằng co.
    Ỷ Lan hơi ngạc nhiên về nhận định khác thường của Thái Úy:
    - Vậy theo ý Quốc công, sự đáng lo ấy nằm ở đâu?
    - Thưa Linh Hậu, việc đáng lo ấy không phải ờ biên thùy mà ở triều đình, không ở triều đính mà ...ở ....
    Ỷ Lan vội hỏi tiếp:
    - Ở đâu hở Quốc công?
    - Sự đáng lo ấy ở lòng Linh Hậu.
    Ỷ Lan đứng lên;
    - Ôi! Ta chỉ là một người đàn bà buông rèm chấp chính, mọi việc lớn nhỏ đều trông nhờ vào thượng phụ kia mà!
    - Lão phu muốn nói đến lượng rộng của Linh Hậu có dung nạp được những lời đề đạt của lão phu chăng?
    - Vậy ý thượng phụ muốn nói gì với ta nào?
    - Lão phu mong Linh Hậu đứng ra làm cột trụ cho bức thành đông nhân tâm của cả nước.
    Thái Úy hiểu rằng toàn bộ kế sách của ông sẽ lệch đi và mất hẳn hiệu lực mầu nhiệm nếu thiếu sức mạnh tinh thấn ấy. Đó là sự đồng lòng nhất trí của Vương triều, của những nhà minh kinh bác học, cuả các bậc rưởng lão và của toàn dân. Hiện nay vụ lật đổ Thượng Dương và Lý Đạo Thành vẫn còn để lại nhiều ấm ức thầm lặng trong lòng hoàng tộc và sự ngờ vực trong các nhà minh kinh bác học, những bông hoa trí tuệ của đất nước.
    Ỷ Lan bỗng tươi tỉnh:
    - À, ta hiểu ý Thượng phụ rồi. Có phải Thượng phụ muốn mời Đạo Thành về triều, điều mà Thượng phụ có lần đã nói với ta.
    - Dạ, quả có thế. Có Đạo Thành về thay thì lão phu mới rảnh tay mà lo việc quân.
    - Thời Tiên Đế đi phạt Chiêm, ta ở nhà cầm quyền nhiếp chính. Ta biết Đạo Thành trong thì được lòng các vị thần, ngoài thì được sư tăng và các nhà nho kính phục. Nhưng ... bà vẫn ngại Đạo Thành về lại lôi bè kéo cánh - chẳng lẽ trong hàng bách quan văn võ không có ai thay thế được cho Thưọng phụ chăng?
    - Nếu có thì Kiệt tôi, chẳng lạm phiền đến Linh Hậu. Chắc Linh Hậu còn nhớ lúc Tiên Vương còn sống,
    Người vẫn thường mơ ước xây dựng một nền văn hiến cho nước nhà để kẻ kia không còn coi khinh ta là kẻ man di. Công việc ấy phi Đạo Thành không ai làm nổi
    - Quả thật, có điều ta không hiểu - Ỷ Lan mỉm cười nhớ lại chuyện đã qua - Trước đây ta muốn để Đạo Thành ở lại triều thì Thượng phụ khăng khăng đòi đưa Đạo Thành vào Châu Hoan, bây giờ thì...
    Ra đến bây giờ mà Ỷ Lan vẫn chưa thấy hết được những sự đổi mới trong triều chính. Hai năm trời nay, ông đã bỏ công tìm những tăng quan có năng lực, tuyển những kẻ thông hình luật bổ sung cho các việc và các bộ. Guồng máy hành chính quay nhanh hơn, có sức trẻ hơn. Bây giờ Đạo Thành có về triều thì cỗ xe nhân chính cũ kỹ ọp ẹp trước đây trong tay ông đã được Thái Úy tân trang rồi, đủ sức thích ứng với dặm đường gồ ghề gian nan của thời chiến. Biết vậy, ông vẫn trả lời cho xuôi chuyện:
    -Thưa Linh Hậu, thời nào việc ấy, lúc ấy thế thì cần phải thế.
    Không hiểu sao Ỷ Lan bất giác nhớ lại chuyện Nguyễn Châu vừa rồi. Thì ra sự dễ dãi của ông có chỗ dụng tâm đấy. Bà mỉm cười ranh mãnh:
    - Này, Thượng phụ nên nhớ về tội trạng Đạo Thành khác với Nguyễn Châu đấy.
    - Còn về tài đức Nguyễn Châu khác với Đạo Thành.
    Ỷ Lan cười xòa:
    - Thôi được, vì Thượng phu, ta bằng lòng đưa Đạo Thành về.
    - Xin Linh Hậu hãy nói vì nước Đại Việt mà đưa Đạo Thành về ngôi Tể Chấp.
    - Nhưng nên cử ai cáng đáng việc này?
    - Lão phu nghĩ nên cử Thái tử Chiêu Văn vì Thái tử là người tính tình mềm mõng vô tư.
    - Như vậy là xong, Thượng phụ còn có việc gì cần nói nữa không?
    - Còn một điều, thần mạo muội nói ra mong Linh hậu đừng chấp - giọng ông trở nên trịnh trọng khẩn khoản - Linh hậu đã tha cho Đạo Thành, xin tha luôn cho cả Thượng Dương.
    Ỷ Lan bỗng cảm thấy như chạm phải lửa:
    - Ôi! Thượng phụ, người quá lẫn rồi. Thượng phụ đòi thả con rắn độc ấy ra khỏi lãnh cung ư?
    - Tha một Thượng Dương, Linh hậu được lòng cả hoàng tộc.
    - Không, không thể được! Ỷ Lan giãy nẩy - Thượng phụ tha ai cũng được nhưng đừng bắt Ỷ Lan tôi thả Thượng Dương.
    - Thưa Linh Hậu, trước đây thần cũng đã suýt chết hụt về tay Dương hậu. Nhưng thần trộm nghĩ việc nước là trọng. Thần không dám để cái giận riêng làm mất cái khôn chung.
    - Nhưng ai dám bảo Thượng Dương một khi được tha lại chẳng quen nết ngựa theo đường cũ.
    - Thượng Dương bây giờ được tha khác Thượng Dương trước. Linh hậu hãy lấy đức mà trị. Nếu bà ta tật cũ vẫn không chừa thì lúc ấy xin Linh Hậu cứ lấy pháp mà trị. Thật danh chính ngôn thuận, không ai chê trách vào đâu được.
    Ỷ Lan cười gằn:
    - Tha thì dễ thôi; ta chỉ cần một đạo sắc chỉ.
    - Một đạo sắc chỉ thôi chưa đủ nói lên tấm lòng của Linh Hậu.
    - Thế ta còn phải làm gì nữa?
    - Linh hậu hãy đến tận cung Thượng Dương, tự tay tháo cũi sổ lòng cho bà ta.
    - Lại đến thế kia ư?
    Bà cảm thấy uất lên tận cổ. Đầu óc choáng váng, bà lững thững bước ra phía hành lang, hỏi một câu bâng quơ:
    - Thể nữ! Ngươi làm gì đấy?
    Tiếng thể nữ thưa:
    - Dạ bẩm bà, con đang thay nước cho bồn sen.
    - Nhớ vớt sạch bèo đấy!
    - Dạ! Thể nữ đáp.
    Bà quay lại, ý tứ:
    - Thượng phụ ạ! Giống sen Tịnh Đế này hễ còn để sót một cánh bèo trong bồn là nó chết héo. Nó không chịu sống lộn với bèo. Đấy là tính nết riêng của loài sen Tịnh Đế.
    Thái Úy đáp khẽ:
    - Nhưng cánh bèo khô thì không can gì đâu ạ!
    Im lặng giây lâu, Ỷ Lan ngần ngừ cười nhẹ:
    - Thượng phụ này, cái việc thả Thượng Dương ấy, Thượng phụ hãy để ta có thời gian suy xét.
    Nói xong chừng như mệt mỏi, bà gieo mình xuống đôn.
    Từ cung Kiền Hoa ra về, Hạnh Hoa tiễn Thái Úy đi một quãng đường. Thái úy nhìn con, bảo:
    - Con xin phép Thái hậu đi giúp cho ta một việc. Con phải vào châu Hoan gặp quan Tể Chấp Lý Đạo Thành.
    - Việc này đã có Thái Tử Chiêu Văn rồi kìa mà.
    - Đó là việc sắc chỉ triều đình, còn đây là thư riêng của cha, con phải trao tận tay - Ông dừng lại - ta dặn con một điều, phải biết quên hận nhỏ để lo việc lớn.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:19 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 11

    Trong ngôi biệt thất dành riêng để thờ Tiên Đế tại trấn sở châu Hoan, chậu cúc xuân của quan Tể Chấp Lý Đạo Thành năm nay nở muộn. Có phải vì thời tiết giá lạnh kéo dài điềm hoa muốn báo cho ông biết trước điều ông mong ước cũng phải chậm chạp xòe dần từng cánh. Ông vào đất Hoan đã được hai lần cúc nở. Và hai lần ông nhìn cúc với tâm trạng khác nhau.
    căn biệt thất này bốn bể kín bưng không để một khe hở cho ánh mặt trời lọt vào. Trong nhà đèn nến thắp sáng ngày đêm. Chậu cúc để trước bàn thờ trên đặt bài vị của Tiên Đế. trước bài vị, tỏa sáng chén ngọc dạ quang, của báu vua ban, cống vật của một nước nhỏ lân bang hay tặng phẩm của một thương nhân Qua - Oa nào, ông không còn nhớ rõ.
    Tiếng sóng rầm rì của biển đời, trần tục dừng lại trước căn phòng này. Bên trong là thế giới tinh thần riêng biệt của ông. Đó là thaàh trì cố thủ giữ gìn cho sự yên tĩnh yếm thế đượm đầy nỗi tiếc thương ngậm ngùi của vị lão thần thất thế. Chiều chiều, vào lúc hoàng hôn, ông thơ thẩn đến đây, đốt trầm thắp nhang, chuyện trò với Tiên Đế. Ông sờ vào cái chén ngọc dạ quang, di vật thiêng liêng ấy như chạm phải một cơ thể sống để làm dịu đi bao điều u uất trong lòng mình hay đúng hơn là làm khuây khỏa niềm nhớ tiếc mơ hồ, nhớ tiếc một thời vàng son trong ấy có pha lẫn nỗi nhớ tiếc quyền hành ... Qua tâm trạng buổn nản của mình, ông như nghe thấy tiếng nói Tiên Vương theo làn khói hương từ bàn thờ tỏa xuống cuộn vòng quanh chậu hoa cúc, vọng về:
    -" Ta biết, ta vừa nằm xuống là triều chính đảo lộn, công sức mười tám năm làm Tể Tướng của Khanh cũng chẳng ai kẻ đoái hoài. Người ta để Khanh sống vất vưởng cảnh xế chiều mây đông khói hạ ... "
    Một giọt nước mắt nóng hổi vô tình rơi đúng vào trong chén ngọc dạ quang.
    Nhưng năm nay, giữa đêm trừ tịch, Lý Ngân, đứa cháu trai cuối cùng trong chi tộc ông cùng lão Triệu từ Như Nguyệt trốn về mang đến cho ông một tin nóng hổi: Nhà Tống sắp động binh.
    Tin dữ ấy như sét đánh, kéo ông ra khỏi cơn mơ yếm thế. Ông như muốn quát to lên với quân giặc vô hình: - "Hay cho nhà Tống! Các người ỷ đất rộng, cậy người đông. vạt áo các người nối lại đã thành mây, mồ hôi các ngưòi vẩy ra đủ làm mưa bốn cõi. Nhưng sao vua tôi các người chóng quên hai phen thất bại ở Bạch Đằng. Chuyện Hoằng tháo của nhà Hán đành là chuyện cũ. Nhưng trận Hầu Nhân Bảo mất đầu ở ải Chi Lăng, Thẳm Khâm Tộtan quân ở Tây Kết, xác quân Tống làm nghẽn khúc sông Bạch Đằng còn sờ sờ ra đó kia mà!
    Ông tức tối nhìn những nụ hoa cúc lì lợm rắn lại trong chậu đá. Ông giận dữ quát mắng một cách vô lý đứa cháu của ông sao thời buổi này làm tài trai mà chịu ì ra như nụ cúc cụp cánh kia. Lý Ngân vòng tay đáp:
    - Thưa bá phụ, cháu đâu học thói phong lưu rởm của lủ công tử mượn áo hào hoa suốt này chỉ chọi gà, đua ngựa! Chí cháu cũng muốn đem thân giúp nước, ra chốn ba quân đoạt ải cướp thành. Nhưng hiềm vướng phải tội tình nên cháu đành cam trói tay chịu cảnh thuyền nằm trốn sóng. Ngay đến bá phụ kia cũng đang bất lực đấy thôi.
    Câu nói của Lý Ngân nhắc ông quay về với sự thực. Đúng thế, thân ông hiện giờ có khác gì con ngựa già gặp khúc đường hẹp lầy lội mưa sa, khó lòng rong ruổi. Nhưng rồi có sứ triều đột ngột mang sắc thư triệu ông về kinh. Lúc đầu, một cơn dỗi không đâu kéo đến khiến ông lắc đầu từ chối phắt. Ông như muốn ghẹo tức thêm số phận mình. Thái tử Chiêu Văn phải năm lần bảy lượt lựa lời mới thuyết phục được ông già tưởng như khó tính này. Nhưng ông vẫn phân vân. Về triều đình lúc này dữ lành thế nào, ông chưa rõ. Lúc sứ triều đến, để tránh mọi phiền phức, Lý Ngâu đã lên ngựa bỏ đi. Giờ ông đang đợi cháu về để bàn tính thêm mọi việc. Và ông vào biệt thất để hỏi han thêm Tiên Đế.
    Chậu cúc vàng muộn màng trong biệt thất đang độ nở mãn khai. Nhìn cúc bất giác những ý nghĩ sớm nở tối tàn, buồn bã của năm trước lại trở về trong đầu ông. Nó làm ông cảm thấy thấm thía sự thăng trầm trong biến hoạn và tính chát phù du của công danh. Nhưng lần này, qua khói hương, tiếng nói của Tiên Đế vọng về nghiêm nghị:
    - Hỡi Đạo Thành lão khanh! Khanh đã quên lời dặn của ta chăng? Một nước không có văn hiến thì sao gọi là nước, cũng như con người không có bộ mặt thì sao gọi là người. Công việc ngươi làm dở dang sao đã vội nản chí;
    - Tiên Đế ơi! Người ta đã buộc tay thần lại.
    - Sông có khúc, người có lúc, khanh giận ngưòi này người nọ sao lại đem lòng giận cả nước non?
    - Nhưng liệu người ta có thật bụng dung nạp thần chăng?
    - Khanh đừng quá chấp nên chuyện cũ. Khanh cứ tin vào việc mình làm là có ích cho dân cho nước, còn thiên hạ tin trước hay tin sau điều ấy không can hệ gì ...
    Trong lúc cuộc hội thoại này chạy nhanh trong đầu Đạo Thành thì Lý Ngân, trên đường về từ bìa rừng quặt ra bất ngờ gặp Hạnh Hoa. Cuộc gặp gỡ này không nằm trong dự tính của Lý Ngân. Chàng vội ghìm cương, quay ngoắt về phía bìa rừng. Nhưng Hạnh Hoa chợt trông thấy chàng rượt ngựa theo sau, gọi giật lại. Chàng miễn cưỡng xuống ngựa, ngượng nghịu, đứng yên cúi mắt ủ rũ nhìn sợi dây cương nằm trong tay chàng. Cuộc chạm mặt đột ngột này cũng làm Hạnh Hoa đứng ngẩn người ra. Trong đầu óc hai người chất chứa lâu nay bao nhiêu điều muốn nói. Nhưng họ vẫn đứng im, lặng nghe biển sóng vỗ dào dạt trong lòng. Hồi Lâu, Hạnh Hoa mới lên tiếng:
    - Bây giờ chắc hẳn công tử chẳng có chuyện gì để nói với ta nữa đâu.
    - Ta chỉ muốn nói, ta là kẻ có lỗi với nàng.
    Bao hờn dỗi theo câu nói Lý NGân như đưọc dịp trào lên, nàng to giọng:
    - Công tử làm một việc tày trời đến thế, công tử tưởng chỉ cần một tiếng lỗi là xong chuyện ư?
    Lý Ngân vẫn rũ rượi cúi gầm mặt xuống:
    - Ta đã làm một việc mà lòng ta không hề muốn.
    Hạnh Hoa vốn biết Lý Ngân là con người chính trực, không làm việc gì khuất tất bao giờ. Điều nàng muốn biết là nguyên do bí ẩn nào dẫn chàng vào đường lầm lạc ấy. Nàng mơ hồ cảm giác thấy có bàn tay Thượng Dương nhúng vào nên cố gặng hỏi:
    - Công tử không muốn thì ai muốn ở đây mới được chứ?
    - Chẳng ai muốn cả. Nhân nào thì dẫn đến quả ấy. Nàng không thể hiểu được nỗi khổ tâm của một người con bị kẻ khác giết cha mình.
    - Ai giết cha công tử?
    - Thái Úy Lý Thường Kiệt!
    Hạnh Hoa sửng sốt kêu lên:
    - Không! Không thể có được! Ngay đến công tử là người đi ám hại cha ta mà cha ta vẫn không muốn bắt tội kia mà. Hay trong việc này công tử có điều gì lầm lẫn chăng?
    - Tình thương cha đã làm nàng mờ mắt. Ta biết ta không thể nào làm nàng tin được lời ta.
    - Vậy công tử có bằng chứng gì để ta tin được?
    Nhắc đến chứng cớ, chàng chợt nhớ lại lời thề với di mẫu Thượng Dương, chàng ấp úng không nói được.
    - Vậy công từ đã nhận rõ sự lầm lẫn của mình rồi chứ?
    Lý Ngân ngẩng phắt đầu lên, mặt đanh lại:
    - Không! Ta không lầm. Ta còn sống thì sau này ta sẽ trả thù!
    Cơn giận bốc lên trong mắt Hạnh Hoa, tay nàng để vào đốc kiếm từ bao giờ không rõ, bỗng run lên bần bật. Lý Ngân vươn cổ ngẩng mặt lên:
    - Tốt nhất nàng xuống kiếm đi để sau này khỏi ân hận.
    Nhìn rõ khuôn mặt Lý Ngân bị cào xé biến dạng hẳn đi trong một nỗi đau tuyệt vọng. Hạnh Hoa thấy tan nát cả lòng. Nàng cố gắng gượng lấy giọng khinh bỉ:
    - Thời loạn này, công tử có thể đi tìm một cái chết xứng đáng hơn nhiều.
    Lúc này Hạnh Hoa mới sực nhớ đến công việc Thái Úy giao phó cho mình. Nàng rút bức thư đưa đến tận tay Lý Ngân :
    - Đây, có phong thư riêng của cha ta gửi cho Tể Chấp. Nhờ công tử chuyển lại cho Người và gíup ta khuyên Người nên quên hận nhỏ để làm việc lớn.
    Lý Ngân chưa hết kinh ngạc, thì Hạnh Hoa đã nhảy lên mình ngựa, ra roi như trốn chạy.
    Lý Ngân về đến nhà bước vào biệt thất trao bức thư cho Đạo Thành. Ông sững lại một giây tồi từ từ mở phong thư ra đọc. Lý Ngân chăm chú cố theo dõi từng nét thay đổi trên gương mặt ông qua làn khói hương mờ ảo. Xem xong thư, ông trầm ngâm nhìn lên bàn thờ Tiên Đế:
    - Thái Úy mời ta về làm Thái phó, bình chương quân quốc trọng sự để cùng ông ta lo toan việc triều đình (chức Thái phó đứng thứ nhì trong hàng Tể Chấp) - nhưng ta đang lưỡng lự chưa biết hay, dở thế nào.
    - Ôi, việc tốt lành đến thế nào bá phụ còn lưỡng lự?
    - Cháu ơi! Một chiếc bình vỡ khéo gắn cũng còn đường rạn nứt, một vết thương đã liền da, vết sẹo vẫn còn ghi, những hiềm khích cũ giữa ta với Thái Úy tuy bức thư này đã giải xong nhưng ta ngại mối hiềm nghi còn lớn vởn như bóng theo người ...
    Lý Ngân dường như sốt ruột:
    - Ôi, giặc đang ngấp nghé ngoài cửa ải mà bác còn ngồi tính đến chuyện hơn thiệt.
    - Không, ta đang tính làm cách nào để ta tin được ở bụng người mà người cũng tin được ở bụng ta. Nếu được vậy thì việc cộng sự của ta với Thái Úy mới có cơ đắc dụng.
    Một ý định bất ngờ chợt nở ra trong đầu chàng như bông cúc kia tới kỳ đại đóa:
    - Bác ơi ! Cháu vừa nghĩ ra được một cách này!
    - Cách gì, cháu thử nói xem.
    Mắt chàng long lanh cố nhìn xuyên qua làn khói hương như để tìm ra một lối thoát:
    - Bác cứ đưa cháu ra nộp cho Thái Úy thì Thái úy sẽ hiểu được lòng bác và tin bác ngay.
    Giữa cái lặng thinh của căn phòng, Đạo Thành như nghe rõ tiếng rì rào của từng đợt khói hương đang cuộn vòng tỏa rộng. Lời Lý Ngân như còn vọng lại bên tai ông. Nhưng ông vội lắc đầu, xua tay:
    - Không được, không thể được! Cháu quên cháu là giọt máu cuối cùng trong chi tộc nhà ta đấy ư!
    - Bác ơi! Cháu đang là kẻ tội đồ. Có sống cũng bằng thừa - Chàng chợt nhớ đến lời của Hạnh Hoa - Biết đâu kẻ kia thực lòng muốn quên hận nhỏ để mưu việc lớn thì mạng cháu ...
    - Thôi, thôi! Đạo Thành gạt phắt lời Lý Ngân. Cháu đừng giục giã thúc bách ta. Hãy để ta có thời gian cân nhắc!
    Ông đứng lên gọi lão Triệu, bảo lão lo thu xếp nhanh để kịp sáng mai lên đường về kinh.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:23 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 12

    Linh nhân Thái Hậu Ỷ Lan sắp xa giá đến cung Thượng Dương!
    Không biết từ một ngõ ngách nào trong thâm cung, tin này bay ra lọt vào tai một tỳ nữ ở cung Thượng Dương. Lập tức, tin tức bất thường này được thầm kín sang tai trong đám cung nữ. Nó loang nhanh đến chóng mặt và cứ mỗi lần truyền tai từ người nọ sang người kia lại mang thêm nhiều câu bình phẩm bất tường, nhiều lời tiên đóan hung dữ. Nó được thêu dệt thêm nhiều tinh tiết rợn người trong khối óc hoang tưởng của những kẻ mà cái chết ám ảnh lâu nay thường xuyên treo lơ lửng trền dầu họ ... Chính những điều ấy đã biến cái tin lúc đầu như tia nước bình thường này ra con ngòi chảy xiết rồi chóng vánh thêm thành thêm nhánh để hóa thành một dải sóng nước hung hãn đổ ập vào cung Thượng Dương, đánh thức cung Thượng Dương bừng dậy kinh hoàng sau một cơn ngủ dài mê mệt.
    Đám cung nga túm năm tụm ba ở những hành lang tối, rỉ vào tai nhau những tiếng thầm trong cuống họng. Họ cùng chung một ý nghĩ:
    - Ôi cái bản án kéo dài dai dẳng gần hai năm trời, phải chăng nay đã đến giờ hành quyết?
    Một cô cung nữ đánh bạo hỏi bạn:
    - Họ sẽ bắt ta chết theo cách nào nhỉ?
    - Cách nào thì cũng chết!
    - Nếu họ ban cho mỗi người một chén thuốc độc thì em khổ lắm; Tính em hay lợm giọng mà!
    Một cô khác góp lời:
    - Ông Thái giám già bảo họ sẽ ban cho chị em ta mỗi người một tấm lụa bạch đấy.
    - Không đúng đâu! - Một tiếng nói khác khẽ đáp lại - Em nghe nhiều người nói họ sẽ chôn sống lũ chúng mình theo Tiên Đế.
    Quả có thể, tin đồn này nhiều ngưòi hay biết nhưng không một ai dám mở miệng nhắc lại. Bây giờ có kẻ nói ra, mọi người đều kinh hoảng, tưởng như mới nghe thấy lần đầu. Nhiều tiếng rú khẽ chợt tắt, nhiều làn môi run lên trong một lúc, nhiều giọt nước mắt đọng thành ngấn. Tuy nhiên lòng họ vẫn còn tựa vào một điểm hồ nghi mong manh là lời đồn ấy chưa rõ thực hư thế nào. Mãi đến lúc viên quan Thái giám vào chính thức báo tin này và bảo cung Thượng Dương sửa soạn nghênh giá Thái Hậu Ỷ Lan thì chút hy vọng cỏn con của họ tan như bèo bọt.
    Sự náo động thầm lặng này trong cung phút chốc đã đến tai Dương Hậu. Bà sai Thanh Nga đi gọi tất cả cung nhân lên phòng bà. Nhìn những khuôn mặt tái nhợt đi vì sợ hãi, bà hơi cau mày nhưng rồi bình tĩnh nói:
    - Các con! Các con làm gì mà nhốn nháo lên thế? Sự việc này ta hằng trông đợi từ lâu. các con cùng bà sắp sửa được đi hầu Tiên Đế. Hôm nay là ngày vui của bà, sao các con lại buồn bã thế? Giọng bà nói mỗi lúc mỗi bình thản đến lạ lùng. Các cung nữ đều gục đầu im lặng. Bà lên tiếng gọi Thanh Nga:
    - Thanh Nga! Con hãy đem tất cả đồ trang sức và phấn son của bà còn thừa thãi ra phân phát cho mọi người.
    Bà quay lại :
    - Các con hãy nghe đây lời ta nói. Hôm nay các con mỗi người phải ăn vận cho thật sang, trang điểm cho thật đẹp, xứng đáng với người của cung Thượng Dung, để làm vừa lòng đẹp ý Tiên Vương.
    Những lời nói lạ lùng trên đây không phải là những lời mầu mè kiểu cách ở đầu lưỡi. Đó là những lời thực của lòng bà, những ý nghĩ thực trong đầu óc bà. Gần hai năm trời nay, bà thực sự sống bên cạnh Tiên Đế. mọi chuyện đời, bà gác bỏ ngoài tai. Quan Thái Bảo Nguyễn Châu thận trọng cho bà biết tin nhà Tống sắp kéo quân sang đánh ta, bà cảm thấy tin ấy đối với bà quá xa lạ. Tống Lý có đánh nhau hay không, ai được ai thua, điều ấy có can hệ gì đến đời sống tâm linh của bà. Ngay đến việc các lão thần hoàng tộc còn giữ nguyên lòng tôn kính tin yêu đối với bà và đồng lòng muốn xin xá tội cho bà theo lới Nguyễn Châu thuật lại, bà cũng thản nhiên chẳng chút mảy may xúc động. Những chuyện ấy như những hạt bụi trần bay tới đổ vào rồi trượt đi trên lần áo hải ly trơn mượt của bà.
    Trong giờ phút này, tâm trí bà chỉ dồn vào việc trang điểm, công việc bà làm cả một đời người mà vẫn chưa lúc nào xong. Cung nga tíu tít bận rộn chung quanh bà. Đứa chải tóc, đứa soi gương, đứa thoa phấn kẻ mi, đứa trau chuốt ngón tay, gót chân. Bà chọn mặc chiếc triều phụng rực rỡ nhất. Còn sống, bà còn phải đẹp. Có chết bà cũng phải đẹp trong cái chết. Quân Vương có gặp lại bà dưới kia cũng phải tấm tắc khen bà xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ. Ngắm nghía mình trong chiếc gương đồng, bà nhoẻn một nụ cười thỏa nguyện và tự nhủ:
    - Trông ta hôm nay quả đúng là một cô dâu mới. Ỷ Lan có ganh tức thì cứ chết theo ta rồi cùng xuống dưới kia mà đánh ghen! Ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy khiến bà cười thành tiếng.
    Trong lúc này, không phải chỉ riêng bà mà tất cả mọi người trong cung Thượng Dung đều bận rộn về việc trang điểm. Các cung nữ như những con rối bị giật dây, thẫn thờ giở từ đáy hòm lên mớ áo quần lâu ngày không sờ tới. Không khí trong cung Thượng Dung bỗng rộn rịp hẵn lên nhưng cái giá lạnh của chết chóc vẫn như bao trùm lên mọi vật. Rồi mọi thấp thỏm chờ mong trong cung Thượng Dương bỗng lắng xuống. Phút nghênh giá Thái Hậu Ỷ Lan đến rồi. Dương Hậu ngẩng cao đầu cố lấy dáng đường bệ bước ra khách sảnh. Ỷ Lan đặt chân lên bậc thềm. Hạnh Hoa đi sau, cắp gươm theo hầu. Cuộc chạm trán giữa hai tay bà Hoàng tuy diễn ra khaỏng khắc mà dài vô hạn.
    Khuôn mặt của Thượng Dương như được đẽo gọt nhô ra từ một phiến đá. Làn da trắng ngần tựa như đông lại đóng thành băng tỏa lạnh. Bà ngẩng mặt nhìn vào một điểm sáng vô hình nào trên bức tường cao. Thanh Nga đứng sau bà lại tò mò chăm chú nhòm vào Hạnh Hoa, người nàng biết là ý trung nhân của chàng trai tuấn kiệt mà nàng từng có dịp trong giây phút giây gần gũi.
    Ỷ Lan im lặng đứng ngắm Thượng Dương. Ngay từ đầu, bộ xiêm y lỗng lẫy với dáng điệu kiêu sa, cao đạo của Thượng Dương đã làm bà tức lộn ruột. Nhưng bà kịp nghĩ đến công việc bà đến đây. Ỷ Lan điềm tĩnh nhìn lại Thượng Dương và lần đầu bà nhận thấy nhan sắc của Thượng Dương quả hiếm có. Bà bỗng thấy tiếc hộ cho vẻ đẹp cao sang ấy bây giờ chẳng để lung lạc được ai như bông hoa sặc sỡ đậu giữa biển cát hoang dấu chân người.
    Ý nghĩ mỉa mai ấy giúp giọng bà trở nên điềm đạm.
    - Ta có lời chúc mừng Dương Hậu. Ta đến cho Dương Hậu một tin vui.
    Ôi! Cái tin chết người mà ả gọi tin vưi, sự độc ác không sao lường nổ. Vừa ngẫm nghĩ, Thượng Dương vừa đáp:
    - Tin vui này, ta biết từ lâu.
    Đến lượt Ỷ Lan lại ngỡ ngàng. Làm sao bà ta biết trước đuợc tin này, ai nói cho bà ta hay? Ỷ Lan thầm nhớ lại sau khi Thái Úy ra về, bà thấy toàn thân rã rời mệt mỏi. Bà nằm trằn trọc hàng mấy đêm liền. Tiếng trống sang canh trên lầu Chính Dương chốc chốc như điểm vào từng phút giằng co day dứt trong tâm sự của bà. Nhưng vốn nhiều năm đã ở ngôi cao cầm cương chính sự bà đã tạo được cho mình cái tính cứng rắn đối với bản thân, không dễ dàng cho phép mình buông thả theo ước muốn riêng tây. Cuối cùng trong bà, cái khôn chung đã trỗi giọng át tiếng cái giận riêng. Không chần chừ, bà quyết định đến ngay cung Thượng Dương.
    - Ta không hiểu làm sao Dương Hậu lại biết được tin vui này. Ỷ Lan thử ném một câu thăm dò.
    - Sĩ sư ở phủ Đô hộ đã ghi rõ ràng cái chết của ta vào bản án. Bây giờ người mới đến thi hành án quyết, kể ra khi chậm đấy. Câu nói này đã giải được mối hồ nghi trong lòng Ỷ Lan. Bà kiêu hãnh dõng dạc nói:
    - Ta biết sử sách đã ghi cái chết của bà, nhưng nay Ỷ Lan ta lại đến đây tha cho bà sống.
    Lại đến thế kia ư? Thì ra trước lúc đem giết, ả còn vờn vỡ trêu cợt mình. Nhưng ta đâu phải chú chuột nhắt để con mèo cái kia vờn cho thỏa thích? Khí giận bốc lên trong mắt Thượng Dương:
    - Tha ta ư? - Bà cười gằn - Ta với ngươi cùng là kẻ đàn bà. Mà phàm đã là đàn bà thì làm sao tha cho nhau được - Bà phất tay áo - Ta không tin!
    - Bà không tin cũng phải. Bà lấy bụng bà ra đo thì làm sao hiểu được bụng ta. Thề có trời xanh chứng giám, ta đến đây là để ân xá cho bà.
    Trong giây lâu Thượng Dương còn bàng hoàng; Ỷ Lan đã thề. Như vậy biết đâu đây chẳng phải là sự thực. Cái cơ sống trỗi mầm dậy trước mắt bà. Nhưng không hiểu sao, bà lại lạnh lùng buột miệng:
    - Bây giờ ta lại muốn chết! Có chết ta mới gặp mặt được Tiên Vương.
    Và cũng không hiểu sao Ỷ Lan bỗng quát lên:
    - Gặp Tiên Đế để Người mắng cho bà một trận ư? Bà có hiểu vì sao ta muốn tha bà không? - Đáng lẻ theo dự định, Ỷ Lan sẽ nói vì giáo sắp cung giương của giặc dữ đang kề bên cửa ngõ nên bà phải quên hiềm xưa để mưu lợi cho nước non. Nhưng bất thần bà lại nói:
    - Vì ta đã gặp Tiên Đế!
    Hai người cùng nhìn thẳng vào mắt nhau. Bóng Tiên Đế như lãng đãng giữa họ. Và Ỷ Lan nói tiếp như có một luồng cảm hứng thông linh nào đặt lùi vào miệng bà:
    - Quả vậy, ta đã gặp Tiên Đế. Người về đứng trên đầu giường gọi ta: Ỷ Lan! Sao nàng lại chấp nê đến thế. Đành rằng Thượng Dương nhưng hai năm nay sống cảnh cung son lạnh lẽo đã cùng ta giải tỏ mọi nỗi niềm. Nay nhà Tống vô cớ đem binh gây hấn mà hai mụ Hoàng còn lục đục chuyện nhà. Cái mầm loạn này từ chốn cung vi lan ra thì thử hỏi làm sao yên lòng ba quân tướng sĩ. Các người nhìn lại chị em bà Trưng, bà Triệu xưa cũng quần vận yếm mang, tay phất ngọn cờ đào mà không thấy hổ thẹn ư?
    Bà ngừng lại :
    - Nay ta vâng lời Tiên Đế báo mộng, thực lòng đến tha tội cho bà, sao bà còn muốn phụ lòng ta? Ỷ Lan dứt lời mà bà vẫn còn ngạc nhiên về những lời mình vừa thốt. Thượng Dương đứng ngẩn người nửa tin nửa ngờ. Bà quay lại hỏi nhỏ Thanh Nha:
    - Chuyện này có thực đấy ư? Ta đang mê hay đang tỉnh?
    Thanh nga kéo áo bà kín đáo rỉ tai:
    - Hoàng Hậu mau quỳ xuống tạ ơn Người đi!
    Mất hẳn tự chủ, bất giác bà rủ người quỳ thụt xuống, bà nghe như giọng bà từ đâu vọng lại:
    - Cảm tạ ơn Người mở lượng tha cho, Thượng Dương này xin ngậm vành kết cỏ.
    Ỷ Lan liếc nhìn thân hình Thượng Dương đổ xuống quỳ mọp dưới chân mình, ý tứ quay đi, mát lòng hởi dạ. Bà cho gọi ngay viên Thái giám đến ra lệnh:
    - Mọi thứ cần dùng từ xe tứ mã, áo phỉ thúy, khoác hồ cừu, hài cẩm ly đến chăn chiên bạch lạp, các thứ hương liệu đều phải cấp phát đầy đủ cho cung Thượng Dương nguyên như cũ.
    Nói xong, bà quay ra ngoài:
    - Thị nữ! Xe loan cho ta hồi cung nghe!
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:28 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 13


    Theo lệ thường, Thái Úy dậy sớm hơn mặt trời. Cũng theo lệ thường, gã lính hầu dậy sớm đun nước tắm cho Thái Úy. Và mỗi lần vợi nước vào bồn, gã vẫn lấy làm lạ về tính khí ngược đời của Thái Úy; Vào tiết hè nóng kinh người thì Thái Úy tắm nước nóng, lúc trời đông rét run cầm cập thì ông lại tắm nước lạnh. Gã chỉ biết đoán non đoán già rằng vị tướng sóai của gã làm vậy là để luyện rèn sức bền chịu đựng của ông khi gặp những trường hợp gian nan bất trắc thường xảy ra trong trận mạc. Lúc gã ở buồng tắm bước ra, gã mới nhận thấy hôm nay không chỉ có riêng gã mà mọi người trong nhà đều dậy sớm hơn lệ thường. Gia nhân tấp nập quét dọn từ cổng phủ trở vào. Cả gian khách sảnh như một chiếc bàn được lau chùi bóng loáng không vương một hạt bụi. Từ sớm viên tỳ tướng của Thái Úy trọng vọng đến thế. Khi chiếc cáng xanh dừng lại bên ngoài; ông khách đi bộ qua cổng phủ, gã tò mò chạy ra lén nhìn. Gã thấy viên tỳ tướng đưa vào một vị lão quan râu trắng chùng ngang bụng cùng đám tùy tùng theo sau. Nghe tiếng xì xầm của gia nhân, gã mới biết người ấy là quan Tể Chấp Lý Đạo Thành.
    Thái Úy đã ra đợi Lý Đạo Thành ngoài bậc cửa. Hai người vái chào nhau rồi Thái Úy rước khách vào nhà. Chủ khách vái chào nhau, Đạo Thành đã lên tiếng trước:
    - Thưa Thái Úy, Thành tôi hôm nay xin để lòng trên bàn tay mà nói chuyện với Thái Úy. Vì Thành tôi nghĩ trong cộng sự phải có được lòng tin.
    - Quả chí lý! Còn lòng của Kiệt tôi, tưởng cũng đã bộc bạch hết trong thư riêng gửi cho lão huynh rồi.
    - Một phong thư thôi làm sao nói hết được nỗi niềm.Xưa nay lão phu biết Thái Úy không ưa thích gì tính khí của lão phu, còn lão phu lâu nay cũng chưa đồng tình với Thái Úy trong nhiều việc. Mối tị hiềm theo tháng năm cứ dài ra chưa giải tỏ ...
    Lời nói thẳng của Đạo Thành khiến Thái Úy thích thú. Ông cất lên một tràng cười dài sảng khoái:
    - Lão huynh ơi! Nếu mai đây quân Tống chiếm được Đại Việt thi thiên hạ sẽ hỏi tại sao lũ ta để mất nước chứ có ai hỏi Thường Kiệt thích hay không thích Đạo Thành. Như lão huynh đã biết tiểu đệ bận lo làm việc cái nắm đấm, căng tay quần nhau với địch bên ngoài. Còn phần điều hòa khí lực bên trong, đệ trông nhờ vào lão huynh đấy.
    - Thưa Thái Úy, lão phu lâu nay ở Châu Hoan như ếch trong đáy giếng, sự bang giao giữa ta với Tống ra sao, lão phu còn mù mịt.
    Đây là câu hỏi đầu tiên của Đạo Thành dò xem mức tin tưởng của Thái Úy đối với ông đến đâu. Thái Úy không ngần ngại cho Đạo Thành biết cặn kẽ mọi việc bên triều Tống và tình thế căng thẳng hiện nay ở Bắc thùy.
    - Hiện thời họ đang dồn lương tích thảo ở Ung Châu, ráo riết luyện tập quân sĩ, ra sức chiêu dụ các tù trưởng khê động - Thái Úy nói tiếp - vừa rồi viên kinh lược Quảng Tây Thẩm Khởi đã rủ rê bọn Nùng Thiện Mỹ đem theo 700 bộ thuộc sang hàng Tống.
    - Nùng Thiện Mỹ là tên nào, lão phu nghe lạ tai quá.
    - Hắn tên thật là Ma Thái Dật, người châu Định Biên ở đất ta. Thánh thượng sắp dâng biểu lên vua Tống xin đòi lại tụi ấy.
    - Như vậy là cái bụng nhà Tống đối với ta đã rõ ràng - Đạo Thành nhìn thẳng vào Thái Úy - Còn kế sách phá địch của Thái Úy, lão phu có nghe được chăng?
    - Kế sách ba phòng tuyến của tiểu đệ, chắc lão huynh đã rõ. Quân thượng du sẽ dồn vào giữ cửa ải địa đầu. Ải Chi Lăng có đội tượng binh cùng Phò mã Thân Cảnh Phúc với đội thổ binh khá mạnh. Riêng quân Hạ du án ngữ trên vành đai Như Nguyệt.
    - Lũy Như Nguyệt chẳng biết đã làm xong chưa?
    Đạo Thành hỏi dồn;
    Thái Úy ngẫm nghĩ:
    - Cũng phải một năm rưỡi nữa mới xong.
    Đạo Thành kêu lên:
    - Đây là điều lão phu lo ngại ngay từ lúc ở Châu Hoan. Lão phu e rằng thời hạn trên sẽ không đuổi kịp vó ngựa quân thù.
    - Xin lão huynh chớ ngại - Thái Úy điềm nhiên nói - Nếu gặp tình thế quá bức bách, Kiệt tôi sẽ xin dẫn quân phá tan thế công của địch đang chuẩn bị từ trước trên các cứ điểm địa đầu. Như vậy, ít ra cũng phải trên một năm nữa binh Tống mới đủ sức phạm vào bờ cõi .
    Thái Úy nhìn ra xa, cặp mắt trầm ngâm, giọng hạ khẽ nhưng rành rọt từng lời, như cố diễn giải những điều ông đã nghiền ngẫm từ lâu:
    - Lão huynh ạ! Một nước nhỏ muốn phá được thế quân quá mạnh của một nước lớn thì phải biết dùng ít đánh nhiều, dùng chậm thắng nhanh, lấy nhu chế cương, lấy trí khắc dũng. Cầm quân trước hết phải biết rõ nơi quan yếu, hiểu thấu chỗ lợi hại, tiến đánh những nơi giặc không ngờ phải giữ, về thủ những chỗ giặc tưởng như bỏ trống. Đánh địch bằng mọi thứ, bằng cái nhọn của cây vót, cái độc của gió sương, cái nồng nực của nắng hạ, cái lầy lội của mưa đông. Ta phải đánh bằng tất cả khí thiêng của núi sông nước Việt.
    Những lời nói của Thái Úy như rót vào tai Đạo Thành với một sức mạnh thuyết phục lạ thường khiến ông bất giác đứng dậy nghiêng mình xá Lý Thường Kiệt:
    - Bái phục ! Lão huynh xin bái phục!
    Đạo Thành muốn nói nhiều, muốn tạ ơn đất nước anh linh đã sinh ra được một người con kiệt xuất; lòng ông xúc động sâu xa, ông cảm thấy như lâu nay ông có gì không thật công bình đối với người bạn đồng triều này. Và từ chỗ phục đến chỗ mến chỉ trong gang tấc.
    Nhưng Thái Úy đã đưa một ngón tay lên, cả tiếng cười to:
    - Xin lão huynh nhớ việc đánh giặc chỉ là một vế. Một con người chỉ có một vế thì đi đứng thế nào cho cân phân được. Tiên Đế thường phán:
    " Các khanh phải cùng trẫm lo cho dân ba việc: cơm áo, chữ nghĩa, lễ nghi."
    Đó là vế thứ hai mà cũng là vế chính. Lão huynh chắc đã hiểu ý tiểu đệ.
    - Vâng, lão phu hiểu rằng về công việc này lão phu phải giúp Thái Úy gánh vác một phần lớn nhưng theo ý Thái Úy, lão phu nên làm việc gì trước đây?
    Câu hỏi này Thái Úy đang chờ đợi, ông đáp liền:
    - Tiểu đệ đã làm ngọn giáo nhọn giết giặc thì lão huynh nên làm chiếc sàng để sàng lọc người tài cho đất nước.
    Đạo Thành ngẩng mặt lên:
    - Lão phu nghĩ những người chữ nghĩa uyên bác đều nằm trong chốn thiền môn, ta cứ chọn lọc trong hàng tăng quan là được.
    Câu chuyện trao đổi giữa hai người sắp đi vào đoạn mấu chốt.
    Quy chế tăng quan từ thời Đinh, Lê để lại đã làm Thái Úy nhiều lần vướng tay trong việc tuyển lựa nhân tài. Bất giác ông nhớ lại câu chuyện thú vị giữa ông với một vị lão nho kiến văn quảng bác ở thư xá trong một chiều cuối năm. Hai người đàm đạo say sưa về gốc gác tổ tiên nước Việt.
    Dân tộc Việt long đong từ buổi sơ sinh. Cái nôi nằm chưa lúc nào ấm chỗ; Thế mạnh của các nước phía Bắc lấn xuống buộc tổ tiên ta lùi mãi về hướng Nam. Buổi bình minh trong tuổi ấu thơ bằng lặng được bắt đầu từ lúc vua Hùng đặt vũng chân trên miếng đất châu Phong, nơi tụ hội của ba nhánh sông lớn, cửa ngõ nhìn xuống khoảng đồng bằng bao la, đỏ ngầu màu đất phù sa của sông mẹ Nhị Hà. Rồi đến cái đêm mù mịt nghìn năm của thời Bắc thuộc. Mãi đến lúc Ngô vương chĩa ngọn dáo sắc trên sóng Bạch Đằng mới mở ra nền tự chủ đầu tiên cho dân tộc. Bộ mặt phong hóa của dân Việt do hấp thụ đạo Lão, đạo Nho trong thời Bắc thuộc đã thay đổi sắc diện. Tiếp theo đấy là đạo Phật từ xứ Tây Vực ở Tây Bắc Ấn Độ sang. Theo con đường nước Đại Dương, các thuyền buôn Tây Vực chở đạo từ bi của xứ Thiên Trúc ghé lại Giao Châu, trước khi vào đất Trung Nguyên. Vì vậy, trong lúc nước Tề ở Giang Đông chưa biết mặt Phật thì tại Luy Lâu, kinh đô Giao Chỉ đã xây hơn hai mươi ngôi chùa, chọn hơn năm trăm vị tăng, tụng mười lăm quyển kinh. Nhà sư Khang Tăng Hội, người Tây Vực, theo cha buôn bán đã học đạo Phật ở đất Giao sang nước Ngô, giảng đạo cho Ngô Tôn Quyền trong thời Tam Quốc.
    So với đạo Lão và đạo Nho thì đạo Phật đi sau mà đến trước. dần dần nó chiếm ưu thế và đứng đầu trong tam giáo. Các vua ta phần lớn xuất thân là những bậc võ hiền, học hành ít. Người biết chữ trong nước chưa đông. Chỉ có tăng đồ là có đủ thì giờ rỗi rãi, đủ phương tiện sinh sống để đọc nhiều hiểu rộng. Họ thường được các vua vời vào cung để bàn việc nước. Sư Khuông Việt giúp Đinh Tiên Hoàng, sư Pháp Thuận giúp Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh giúp Lý Thái Tổ, Tăng đạo cũng có phẩm hàm chức phận như bên võ triều đình nên gọi là tăng quan. Thời ấy, được làm sư không chỉ là một vinh hạnh. Đời sống của họ được bổng lộc của dân chúng cung phụng và vua ban. Ruộng chùa có điền nô cày. Tên họ được rút ra khỏi sổ bạ. Không phải làm xâu bắt lính. Địa vị của tăng già được cả nước coi trọng.
    Đời Lý là đời đạo Phật toàn thịnh. Các bậc cao tăng ảnh hưởng không ít đến chính sự các triều vua. Những giáo dụ từ bi của đức Phật đã làm rụng dần lông lá nguyên thủy trên gương mặt tinh thần của dân tộc. Nó đã đổi dần cái triều đình võ biền mộc mạc của các đời Đinh, Lê đóng ở nơi đầu ngàn cuối sóng ra một triều đình có quy mô, có kỷ cương lễ tiết ở giữa, bình nguyên. Những cực hình thường dùng ở thời trước như cột đồng đốt nóng, vạc dầu đun sôi, chuồng hổ báo, cũi ngâm sông được bãi bỏ. Trước kia, có bao giờ thấy một vị vua tha chết cho kẻ thù, dù kẻ thù đó là anh em ruột thịt? vậy mà Lý Thái Tông đã xá tội cho viên tướng phản tặc Nùng Trí Cao, Lý Thánh Tông tha chết cho vua Chiêm là Chế Củ. Tuy mối từ tâm ấy đã khiến vua Chiêm dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh ở phía Nam dãy Hoành Sơn, đẩy ra xa tầm tay quấy nhiễu của giặc Chiêm,, mở đầu cuộc Nam tiến cho các đời vua sau, nhưng phải nhận thấy ở đây, đức độ khoan dung của tấm lòng từ bi đã thấm sâu vào vị vua nổi tiếng nhân từ nhất trong lịch sử dân tộc.
    Vua tự coi như cha, triều thần là đứa con gần,chúng dân là đứa con xa, dân miền Thượng là bà con họ hàng, kẻ tội phạm là đứa con hư hỏng. Vì vậy, mới có việc vua Thánh Tông bảo đem chăn, gạo cấp phát cho tù nhân.
    Lòng thương dân ấy được biểu hiện qua chữ "khoan" đứng đầu trong phương lược trị nước của vua Lý. sau đến chữ "giản" nhằm giảm bớt mọi sự đóng góp phiền hà cho dân. Khoan, giản là hai chữ vàng chói lọi được viết trên bức hoành phi treo trên đầu các vị vua thời Lý. Nó làm cho đời Lý trở thành đời thuần từ nhất trong sử nước nhà.
    Không phải Thái Úy chưa thấy rõ hết được tác dụng to lớn của đạo Phật, hay vì mức độ sùng tín đạo Phật trong ông còn kém Đạo Thành. Ông chỉ nhận thấy rằng theo quy chế cũ, cửa Phật đã trở thành cửa ải khống chế việc chọn nhân tài cho đất nước. Dù kẻ nào thông minh sáng láng đến đâu mà không ở nhà Tăng, cửa Phật ra thì khó lòng được chiềng mặt lộ đầu ở chốn triều quan. Quy chế tăng quan tạo ra một lớp đất cừng không để cho một mầm non nhân tài nào mọc nổi. Chuyện này, trước đây Thái Úy đã nhiều lần đề đạt với Đạo Thành lúc ông ta còn ở ngôi Tể Chấp, nhưng lúc ấy Đạo Thành đã phũ phàng gạt phắt. Liệu bây giờ ông có bớt được chút cứng nhắc nào chăng? Để làm dịu bớt không khí gay gắt có thể bùng ra trong cuộc tranh biện, Thái Úy lựa lời dè dặt nói:
    - Thưa lão huynh, Kiệt tôi trộm nghĩ, hiện nay trong nước ta đã có nhiều người để tâm đến sách vở, có chí ở học vấn. Nhiều thầy đồ nho đã về các hương trấn mở trường dạy học. Số người biết chữ khá đông. Nhiều bậc kinh sử làu thông, văn hay chữ tốt lại không xuất thân từ cửa Thiền. Chẳng hay lão huynh có cách nào tuyển chọn họ chăng?
    Trái với dự đoán của Thái Úy, nét mặt của Đạo Thành vẫn giữ vẻ trầm tĩnh, ôn hòa. Ông như đang cố lục soát những ý nghĩ trong đầu và sắp xếp lại cho có mạch lạc. Chẳng hiểu do lòng cảm phục đối với Thái Úy vừa mới nhóm lên trong lòng ông hay vì ông đã suy nghĩ kỹ lời đề bạt từ trước của Thái Úy, ông đáp như một lời giãi bày tâm sự:
    - Thưa Thái Úy, thú thật trong lúc ở châu Hoan, lão phu mới có thì giờ suy gẫm lại những lời trước kia của Thái Úy. Quả lúc ấy lão phu có phần vội vã. Muốn tuyển chọn được công minh, khỏi phao phí tài năng của đất nước, lão phu nghĩ chỉ có cách mở khoa thi ...
    - Ôi! Lời lão huynh thật hợp với ước nguyện của tiểu đệ.
    Thái Úy kêu lên, nét mừng hiện rõ trên mặt
    - Và việc này chỉ có người đủ tài đức như lão huynh mới đáng nổi.
    - Lão phu còn nghĩ ngoài khoa thi phải mở thêm những cuộc sát hạch tuyển những kẻ chuyên về viết chữ tốt, làm toán giỏi bổ vào thư xá và hộ Bộ. Có một điều Thái Úy thường quan tâm đến bây giờ lão phu mới thất tâm đắc - Ông ngừng giây lâu như nhớ lại cái nắng ấm tháng Ba của năm Nhâm Thìn, ngày đức Thái Tông treo chiếc chuông lớn trước thềm rồng để dân chúng ai có oan ức gì không bày tỏ được thì đến đánh chuông tâu lên Thánh Thượng - Lão phu thấy các quan giữ việc hình ở phủ Độ hộ xử kiện còn hà khắc, câu nệ luật văn, thậm chí có người bị oan uổng. Phàm thân oan có chuông, việc hình có luật. Nên cần phải chọn thêm những người thông hình luật bổ dụng vào bộ Hình. Có thế mới tu bổ được nội trị.
    Mỗi lời nói của Đạo Thành làm Thái Úy nở nang từng khúc ruột. Hai tiếng nói, hai tâm tư, hai vòm trời tư tưởng bỗng như xích lại gần nhau.
    Không biết đến từ lúc nào, Thái Hậu Ỷ Lan đang lặng lẽ bước lên thềm. Có lẽ bà đã ra lệnh cho thị nữ và gia nhân Thái Úy không được tâu báo gì làm kinh động đến cuộc đàm luận giữa hai người. bản tính vốn tinh nghịch và không hay câu chấp lễ nghi, Ỷ Lan đi thẳng vào khách sảnh. Chợt trông thấy Thái hậu, Đạo Thành bối rối đứng lên thi lễ. Dường như có dự kiến từ trước, Thái Úy bình tĩnh vái chào:
    - Thái Hậu đến thật là đúng lúc.
    Thái Hậu tươi cười:
    - Ta lại e rằng chưa đúng lúc. Ta thấy hai lão khanh, câu chuyện đang say sưa.
    - Dạ, quả có thế. lão phu đang mê mải nghe kế sách phá địch tài tình của Thái Úy - Đạo Thành lúng túng đáp.
    - Điều ấy ta đã tường. Duy phương sách trị nước của Tể Chấp, ta chưa được biết. Chẳng hiểu, nhân đây Tể Chấp có vui lòng cho Ỷ Lan tôi nghe qua chăng?
    Đạo Thành liếc mắt thấy nụ cười tủm tỉm khích lệ của Thái Úy, vòng tay tâu:
    - Linh Hậu đã hỏi, Thành tôi xin nói thẳng có gì khiếm khuyết xin được chỉ giáo. Nhớ các Tiên Đế xưa thường dạy, trị đạo phải coi việc nuôi dân đủ ăn làm kíp, chính sự phải lấy phong hiến làm đầu. Trong nước muốn cho của lắm vật nhiều, phải khuyến khích người cày làm hết cái lợi của đất, biểu dương người công nghệ trổ hết cái tinh của nghề, trong triều cấm mọi kiêu sa hoang phí, ngoài dân giảm bớt mọi phiền nhiễu. Rồi lấy thi thư mà biến đổi tục nước, lấy lễ nhạc, để sửa lòng người, gây dựng nên thuần phong mỹ tục - Ông hướng về phía Thái Úy - Nay Thái Úy sắp ra đi ngồi trên yên ngựa. Thành tôi ở nhà xin hứa lấy lòng ngay mà đứng trước cán cân để điều hòa nặng nhẹ, cất nhắc người có tài, bồi đắp kẻ có chí, khơi dòng nước dẫn về được cái khôn của muôn dân, mở khoa thi chọn ra được cái chí của kẻ sĩ, làm cho mọi người biết trọng người hiền, quý người tài, bao dung với kẻ dưới, trung trực với người trên. Trong triều ngoài nội, phải lấy nhân để cố kết, lấy uy để sửa trị, lấy trí để trông coi, lấy tin để ngăn phòng, thưa Linh Hậu, đó là cái phép làm dân yên nước thịnh.
    Đạo Thành nói liền một mạch. Sự khôn ngoan già dặn tích tụ qua 18 năm làm tể tướng của ông làm Ỷ Lan bội phục. Bà đưa mắt hết nhìn Thái Úy lại đến Đạo Thành tấm tắc:
    - Thì ra, đến nay Ỷ Lan tôi mới biết có Thái Úy Thường Kiệt, không thể không có Tể Chấp Lý Đạo Thành!
    Như sực nghĩ ra, Đạo Thành quỳ xuống:
    - Thưa Linh Hậu, trước đây lão phu cùng Dương Hậu phạm lỗi ...
    Ỷ lan vội ngắt lời:
    - Theo lời thỉnh cầu của Thái Úy đây, ta đã xóa tội cho Thượng Dương rồi ...
    Thái Úy cười nụ, nhìn Đạo Thành ý tứ:
    - Tiểu đệ nghĩ việc tha Thượng Dương đối với lão huynh lại là một gánh nặng đấy.
    Sự khoan hồng bất ngờ của Linh hậu và Thái Úy đối với Thượng Dương rõ ràng làm Đạo Thành xúc động mạnh. Ông ấp úng:
    - Lượng rộng mênh mông của Linh Hậu và Thái Úy đã soi sáng đến nơi tăm tối.
    Nói xong, ông vội lui ra. lát sau ông dẫn Lý Ngân vào. Ông hướng về Thái Úy nói:
    - Đa tạ Thái Úy đã tin ở Thành tôi. nay xin đem lòng tin đáp lại lòng tin. Đây, Lý Ngân, đứa nghịch đồ trước đây đã mưu sát Thái Úy. Thành tôi xin đem nộp Thái Úy, sống chết tùy Thái Úy định đoạt.
    Sự có mặt của Lý Ngân dấy lên trong Thái Úy một tình cảm trái ngược vừa giận lại vừa thương. Ông bước lại gần:
    - Lý Ngân, nghe ta hỏi, tại sao ngươi muốn hại ta?
    Lý Ngân ngẩng đầu nhìn chầm chập vào Thái Úy đáp:
    - Vì ông đã hại cha tôi!
    - Ta mà đi hại Lý Quán ư?
    Trên gương mặt chính trực của Thái Úy thoáng qua một chút kinh ngạc nhưng trong mắt ông Lý Ngân đọc thấy một niềm thương hại xót xa như đối với một đứa trẻ thơ lầm lạc
    - Ôi! Vầng trán ngươi thanh khiết, đôi mắt ngươi trong trẻo thế kia, vậy mà kẻ nào nỡ lòng xui đầu óc ngươi tăm tối?
    Lúc này, tình cảm Lý Ngân cũng mơ hồ như đầu óc chàng. Chàng chưa thấy ân hận vì sự cả tin mù quáng của mình, cũng chưa hề biết căm ghét một cách chính đáng con người hiểm độc đem thí chàng như một quân cờ cho sự vị kỷ của họ. Chàng thản nhiên đáp:
    - Cha tôi xưa là một vị tướng giỏi nên vì đố kỵ ghen tài, ông đã ám hại cha tôi.
    Thái Hậu Linh Nhân đập bàn quát:
    - Ô hay! Sao thằng bé này ăn nói như một kẻ mất trí? Ai ám hại cha ngươi? Chính Lý Quán, cha ngươi đòi đem hậu quân chặn giặc Chiên để tranh thế với Thái Úy nên làm giấy cam đoan trước mặt rồng. Sau để giặc thóat vào Nam mới xấu hổ rút gươm tự sát. Bức thư Tiên Đế, ta còn giữ đó, sao ngươi lại mơ hồ làm vậy?
    Lâu nay Đạo Thành cứ ngỡ cháu mình vì một chuyện riêng tư nào với Thái Úy và trong một cơn bực tức không nén được đã làm một điều thiếu suy xét. Nay hiểu ra nguyên nhân, ông sững sờ lắc đầu:
    - Lý Ngân, trong chuyện này cháu đã nghe lầm rồi!
    - Không lầm đâu, bá phụ ơi! Chính cháu đã đọc được bức thư của cha cháu gửi về.
    - Bức thư nào? Ai giữ? Ta đây là anh ruột của cha cháu mà lại không biết có bức thư ấy ư?
    Sự hận thù ngay từ lúc đầu đã đốt bỏng Lý Ngân như vệt chu sa xăm đỏ trên ngực, khiến chàng bấy lâu không kịp suy đi xét lại. Nay bỗng dưng trong đầu óc chàng, mọi sự việc đã qua, trở về rõ nét: chiếc kiệu son mời Thái Úy, bàn hương án nghi ngút khói hương, bức thư đốt, lời thề, mũi tên ... Một thứ ánh sáng khắc nghiệt bắt đầu len qua các khe hở, rọi vào từng chi tiết của mối tử thù, phanh phui trước mắt chàng đó đây một vài vết rạn hồ nghi. Chàng mơ hồ nghe thấy tiếng Thái Úy hỏi chàng:
    -" Thế bây giờ ý ngươi muốn gì? "
    Chàng mệt mỏi buông xuôi.
    - Bây giờ tôi chỉ muốn chết!
    - Vậy mà ta muốn ngươi sống, sống liền ở cạnh ta. Ta sẽ giữ ngươi làm hiệu úy bên người ta như giữ một lưỡi gươm giám thị bên mình - Thái Úy với tay lấy lưỡi gươm treo trên án thư xuống trao cho Lý Ngân
    - Nếu ngươi thấy ta là người như ngươi nghĩ thì ta cho phép ngươi dùng lưỡi gươm này mà trừng trị ta. còn nếu ngươi thấy sai thì ta tin rằng tuổi thanh xuân trong trắng của ngươi sẽ giúp ngươi tự xử lấy.
    Thì ra con người độc bụng hiểm lòng như dì Thượng Dương đã nói là thế này ư? Và nếu chuyện khoan dung này chỉ là cái vỏ ngoài thì sự hiểm độc của con người còn sâu xa khôn lường ... Tiếng Đạo Thành giục bên tai cắt đứt luồng suy nghĩ trong đầu chàng:
    - Kìa! Thái Úy đã mở lượng cháu còn đợi gì không quỳ xuống cúi đầu tạ tội Người đi!
    Lý Ngân ngoan ngoãn vội vàng quỳ xuống.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:31 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 14


    Vũ Anh Thư trong vai lão tổng quản của Thái Úy, từ biên ải, theo ngọn gió may đầu tiên trở về nhà, đúng vào lúc cây hạnh trước cổng phủ rùng mình trút vội đợt lá thu.
    Tiết thu nắng mưa xen kẽ, lúc mây đen tối sầm, lúc nắng phơi vàng óng. Thái Úy ngồi bên án thư đọc lại cuốn tân Pháp của Vương An Thạch. Không có cuốn sách nào vừa làm ông thích thú vừa phải bận tâm nghiền ngẫm đến thế. Càng đọc, ông càng phán phục bộ óc tân kỳ của họ Vương. Ông lướt qua các phép trợ dịch, quân thâu, nồng điền, thủy lợi, miệng lẩm nhẩm:
    - Ý tốt đấy! Làm được thì tiện lời cho dân biết mấy! - Ông dừng lại đăm chiêu suy nghĩ về các phép thanh miêu, thị dịch, những phép nhà nước đứng ra cho dân vay nhẹ lãi và buôn bán với dân. Đến phép phương điền - phép đo ruộng để đánh thuế - Ông chép miệng lắc đầu:
    - Khó lắm! Khó lắm!- Bằng vào sự hiểu biết lịch lãm của ông về chính sự, ông như góp lời bàn với người viết sách:
    - Mọi việc tốt xấu ở đời đều do ở con người. Có quan tốt mới làm được việc tốt cho dân! Ông mỉm cười với người địch thủ ở xa hàng vạn dặm:
    - Đó là một khe hở, nếu ngài không biết cách dùng người thì các phép tài tình này sẽ gậy ông đập lưng ông và ngài Tể tướng sẽ ngã ngựa đấy! Rồi ông cúi đầu chăm chú đọc lại phép bảo giáp và bảo mã, phép làm cho binh nhiều nước mạnh.
    Là một vị tướng soái, dĩ nhiên ông chú trọng nhiều đến phần này. Phép bào giáp nhằm giảm số quân ăn lương thay bằng dân binh ghép thành bảo đối với ông không lạ lắm. Ông nghĩ với một vị tướng giỏi, thì không chỉ dân mà đến cây cỏ mưa nắng cũng thành binh. Nhưng phép bảo mã của họ Vương quả làm ông kinh ngạc. Nếu phép này được thi hành tốt thì chẳng bao lâu kỵ binh nhà Tống sẽ làm chấn động hoàn vũ.
    Giữa lúc ông như nghe thấy vó ngựa của quân nhà Tống tràn qua tựa thác vỡ bờ, Vũ Anh Thư lặng lẽ bước vào phòng. Vẫn như lão Vũ ngày nào, chàng khẽ đặt lọ rượu " mộc trùng sâm ", quà của mẹ chàng gửi biếu Thái Úy, lên mặt bàn, nét mặt bất động. Đây là thứ rượu Thái úy thường ngày rất ưa thích; Người ta phải tìm cho đủ ba thứ sâu của ba loại cây: cây dâu tằm, chanh đào và phật thủ, sao tẩm công phu với một vài vị thuốc quý trước lúc đem ngâm vào rượu. Nước rượu sánh, vị rượu ngậy mà thơm.
    Thấy lão Vũ, Thái Úy trìu mến hỏi:
    - Vũ nhi! Con về đấy ư?
    Mỗi lần gặp lão Vũ, ông thấy lòng như ấm lại. Ông cảm kích nhìn lọ rượu quý, rót ra một chén con:
    - Ta uống trước một chén để tạ lòng bà chị của ta.
    Và để mừng tin mới, lão Vũ tiếp lờ:
    - Vua Tống đã gọi Thẩm Khởi về kinh và y đã bị bãi chức.
    - Thẩm Khời bị bãi sớm thế kia ư?
    Thái Úy mỉm cười nhớ lại các cuộc điều binh của ông như những nắm đấm dứ trên biên giới. Như vậy là ông đã nắn gần được nhà Tống.
    - Vua Tống cũng đã chính thức lấy Lưu Di thay Thẩm Khởi.
    Lần này lão Vũ tập hợp được mọi luồng tin của triều đình nhà Tống và câu chuyện của lão chất đầy mọi tình tiết chi li xác thực đến mức như vẽ ra trước mắt Thái Úy cảnh cãi vã giữa vua tôi nhà Tống. Trong óc ông hiện rõ nét mặt, cử chỉ của từng vị đại thần từ Vương An Thạch, Ngô Sung đến quan ngự sử Vương Thiều. Ông hình dung rõ mồn một vẻ mặt thiểu não nặng trĩu lo âu của Thẩm Khởi dưới ánh nắng xuân yếu ớt của vòm trời Biện Kinh và dáng bước sợ sệt khép nép của y, khi đi vào Đông Phủ. Ông nghe tiếng quát to của vua Tống từ trên long án vọng xuống như cố ý để cho mọi người nghe thấy:
    - Thẩm Khởi! Ngươi làm biên thần, mình mang trọng trách vậy mà ngươi dám tự tiện xây thành đắp lũy ở Nghi Dung, gây cái loạn trong Man dân làm hàng nghìn thổ binh, quan tướng bị giết hại, Người còn phao ngôn nói dối rằng trẫm có mật truyền giao cho ngươi lo việc đánh Giao Chỉ. Tro,ng lúc ở Hi Hà dụng binh còn chưa xong mà ở phương Nam, ngươi đã làm nhiều điều xằng bậy.
    Thái Úy như cảm thông được tâm trạng khó nói của Thẩm Khởi . Lời nói như gió bay, chiếu chỉ trong tay không có. Biết vin vào cái gì mà biện bạch đây. Y đưa mắt cầu cứu họ Vương nhưng Tể tướng lơ chỗ khác.
    - Muôn tâu bệ hạ - Thẩm Khởi đành nuốt cay đắng vào lòng đánh bạo tâu - Hạ thần đã đem hết tâm can làm theo lời của Tể tướng. Thần không dám tiếc tiền tiện của mua chuộc Man dân. Nhờ vậy thần đã lung lạc được Lưu Kỷ, dụ dỗ được Nùng Thiện Mỹ.
    - Chiếu chỉ của Trẫm đâu mà ngươi tự ý nhận bọn Nùng Thiện Mỹ? Đã thế mà ngươi còn dám mở miệng kể công với Trẫm ư?
    Ngô Sung cười khẩy, điểm nhẹ:
    - Ra lòng Hoàng Thượng chưa muốn mà ý Tể tướng đã quyết rồi.
    Vương An Thạch ở cái thế phải đứng lên nhìn Khởi, mắng:
    - Ta chỉ dặn ngươi kín đáo dụ dỗ bọn tù trưởng Man dân, để chúng nằm phục đấy chờ khi hữu sự. Ngươi làm tướng phải biết phép giấu quân chứ đâu lại thổi kèn đánh trống, rung cây cho thỏ chạy, đạp cỏ cho rắn bò để sinh ra kết óan với người Giao Chỉ?
    Vua Tống than:
    - Ôi! Trẫm những tưởng ngươi là viên trí tướng hay đâu Trẫm đã chọn nhầm phải một gã thất phu vụng về làm hư việc lớn. Thôi, cho ngươi lui ra dịch đình, chờ xét xử sau.
    Thế là trăm dâu đổ vào đầu tằm, bao tội lỗi ở Nam thùy, một mình Thẩm Khởi phải hứng chịu.
    Thẩm Khởi lủi thủi lui ra thì Vương Thiều lại tâu:
    - Trước đây, bản triều mỗi khi có việc biên phòng đều sai quần thần bàn bạc, lấy ý kiến của các quan trong ngoài để rộng đường bình luận. Bệ hạ không nên định trước một mình. Ngu thần trộm nghĩ Giao Chỉ là mảnh đất sơn cùng hải tận, nước độc ma thiêng, lam chướng mịt mù lại có thần linh yểm trợ. Đường sá Giao Chỉ hiểm trở bịt bùng, voi đi qua cỏ đã mọc. Đại quân ta vào đất ấy như ngựa hay ruổi vào đường hẹp. Doanh trại không chỗ đóng, vận lương không chỗ thông, binh nhiều không chỗ dàn, xe to không chỗ chạy.
    Vua Tống cả cười, ngắt lời:
    - Khanh quá lo đấy! Một khi muốn đánh là Trẫm đã có phương sách. Vậy khanh cho rằng thần Nam Nhạc của ta không thiêng bằng loại quỷ ma phương Nam chăng? Khí độc thì đã có thuốc thang của viện Thái y. Còn đường sá hiểm trở thì chỉ một tờ chiếu của Trẫm sức cho trăm họ ở Lưỡng Quảng nhà nào có người làm ăn buôn bán bên Giao Chỉ cho gọi về bổ dụng làm hướng đạo thì đại quân ta lại không có trăm tai nghìn mắt đấy ư? Khanh chỉ thấy nghịch mà chưa thấy thuận. Chân Lạp đang có ý theo ta, Chiên Thành lại có huyết thù với Giao Chỉ. Xứ Chiêm cách kinh đô Giao Chỉ non một nghìn dặm. Ta dụ Chiêm diệt Giao Chỉ, trả đất Tượng, cho thêm họ đất Nhật Nam, Cửu Đức. Lấy đất mà nhử, lấy vàng mà vỗ, thử hỏi bọn Man hám lợi ấy lại không là lưỡi dao đâm vào sau lưng Giao Chỉ đấy sao? Nhưng lúc này chưa phải lúc dụng binh mà ta cũng chưa có đầy đủ danh nghĩa để mở cuộc Nam chinh nên ta tạm gác lại đó.
    Qua trí tưởng tượng, Thái Úy như nghe vang lên tiếng đáp sỗ sàng của Vương An Thạch:
    - Binh, không có lúc nào là không dụng được. Danh nghĩa là tự ở ta. Bệ hạ quả muốn dụng binh, khắc có danh nghĩa.
    Lúc này Ngô Sung mới lên tiếng:
    - Vương sư đã xuất quân lấy tất được Giao Chỉ. Nhưng đem đại quân đánh lấy một miếng đất man di nhỏ bé, xét cho cùng cũng chẳng ích gì. Nó như khúc xương khô, cầm được chỉ thêm vướng tay.
    - Sao lại nói chẳng ích gì? - Vương An Thạch trả lời thẳng Ngô Sung - Giao Chỉ dưới biển có ngọc trai, trên núi Thất Nguyên có mỏ vàng mỏ bạc. Xây cung điện có thợ giỏi, đóng chiến thuyền có nghề hay. Vả chăng, lấy được phương Nam thì Liêu hạ ở phương Bắc mới kiêng dè không dám dòm ngó Trung Nguyên, sao nói là không có ích?
    Vương Thiều vẫn cố tâu:
    - Đã gây việc binh đao thì làm sao nuôi được sức dân, xin bệ hạ xét lại.
    Ngô Sung tiếp lời:
    - Thầm nghĩ cứ theo phương sách cũ của tiên triều cho Giao Chỉ làm một xứ ràng buộc là hay hơn cả.
    Vua Tống, mặt rồng kém vui, xua tay:
    - Thôi! Thôi! Hai khanh đã nói dài mà còn nói dai quá.
    Vương An Thạch cười ruồi:
    - Đó là cái tật của kẻ râu dài.
    - Ha Ha ! Vì râu dài nên không theo kịp sức trai trẻ của Vương Tể tướng. Ha Ha! - Cái cười nhọn hoắt của Ngô Sung như chĩa thẳng vào bộ râu ngắn lưa thưa của Vương An Thạch ...
    Tiếng nói của lão Vũ kéo Thái Úy trở về với thực tại:
    - Nhưng số phận của thầy cũng không hơn tí gì tớ. Chỉ một tháng sau khi Thẩm Khởi bị bãi chức thì Vương An Thạch cũng nối gót Thẩm Khởi xin rút lui khỏi ngôi Tể Tướng.
    - Vương An Thạch đã từ chức rồi ư? Tại sao lại từ chức? - Thái Úy sửng sốt hỏi.
    - Dạ vì Thổ Phồn đang quấy nhiễu, Liêu đòi đất gắt gao, lại thêm việc Thẩm Khởi ở phương Nam. Triều thần nhao nhao lên tiếng công kích Vương An Thạch. Chiếc tán rồng không đủ bóng che cho họ Vương nữa.
    Vương An Thạch từ chức! Tin đột ngột này làm Thái Úy cảm thấy như bị hẫng. Trên bàn cờ vô hình rộng lớn hàng vạn dặm giữa hai nhà Tống - Lý, ông đã quen quá với người địch thủ số một đáng sợ của mình. Bây giờ bỗng dưng trước mặt ông, tay cao cờ nhất bỏ đi để lại một khoảng trống. Như vậy là kẻ chủ mưu mở cuộc Nam chinh đã bị loại ra khỏi đấu trường. Và biết đâu hai nước Tống - Việt lại chẳng có cơ tránh được một trận đao binh đẫm máu, mà sự thắng bại còn là một ẩn số. Vương An Thạch đó có nghĩa là tân pháp đổ. Cũng lại là điều may mắn cho số phận các nước nhỏ láng giềng. mặt khác, tin ấy cũng khuấy động lên trong ông một tình cảm trái ngược do lòng luyến tiếc tài năng của người Tể Tướng lỗi lạc này. Ông cảm thấy hình như lịch sử có điều gì chưa thật công bằng đối với Vương An Thạch. Ông rót thêm rượu và cạn chén không hiểu để mừng thất bại của đối phương hay để chia buồn với một kẻ sĩ kỳ tài bị thất thế.
    - Ai lên thay Vương An Thạch?
    - Dạ, một người trong tân phái tạm thời lên thay thế.
    - Còn Lưu Di thế nào?
    - Dạ, hình như Lưu Di cũng theo sách cũ của Thẩm Khởi mà làm thôi.
    Thái Úy đứng lên nhìn về phía cuối chân trời, nơi mây chiều tướp ra, xếp từng cụm trắng xốp, tạo thành những lỗ tròn xanh thẳm. Một phương kế mới chợt nảy ra trong đầu ông, tưởng chừng như ông vừa mới vớt được tận đâu trên trời thu, từ những hố mắt mèo trong leo lẻo như đáy giếng thơi
    - Phải dứ thêm một nắm đấm nữa để hất cẳng Lưu Di ra khỏi Quế Châu, nếu nhà Tống còn do dự trong việc chinh Nam. Phải gửi ngay một tờ biểu tâu lên Tống Thần Tông, đòi trả lại bọn đào vong Ma Thái Đật, nay đổi tên là Nùng Thiện Mỹ, hiện đang làm thủ lĩnh châu An Tình của nhà Tống. Qua đó mà đo được ý định vua Tống muốn đánh ta còn quyết liệt nữa không?
    Thái Úy vừa tự nhủ vừa nhìn lão Vũ:
    - Vũ nhi! Lần này con phải đi cho ta một việc. Con lên Thất Nguyên gặp Lưu Kỷ tìm cách xui giục Lưu Kỷ kiếm cớ kéo quân vào Quy Hóa.
    - Dạ, cớ thì có sẵn rồi. Lần trước người của Lưu Kỷ sai đi mua ngựa ở các khê động bị cha con Trí Hội cản đường hỏi tội. - Nùng Trí Hội là con Nùng Trí Cao, hiện là biên tướng của nhà Tống coi châu Quy Hóa thuộc đất Châu Ung. - Lưu Kỷ tức Uất đang định tìm cách trả đũa.
    - Vậy thì càng hay! Xong việc Lưu Kỷ, con đi đón tin Triệu Tú cho ta.
    - Dạ, Triệu Tú có hứa nếu có việc gì quan trọng hết sức cần kíp thì y sẽ đích thân sang gặp Thái Úy.
    - Triệu Tú đến Thăng Long à?
    - Y cũng muốn thăm lại ông anh bà con cô cậu ở bên này.
    - À, sư ông Quách Thiên Phương ở chùa Thiên Vương!
    Lão Vũ động môi định nói gì với Thái Úy nhưng kịp thời dừng lại. Ngày mai chàng đã phải trở về với dáng dấp vị danh y thân tín của các tù trưởng khê động, lên ngựa đi Quảng Nguyên gặp tướng Lưu Kỷ.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:34 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 15


    Mùa xuân Ất Mạo năm ấy chẳng đem lại một hứa hẹn nào tốt lành cho vua Tống Thần Tông. Hơn tám năm ngồi trên ngôi báu, chưa lần nào vua Tống đón Xuân với một tâm trạng cô đơn đầy lo âu bối rối như thế. Thế mạnh lất át của nước Liêu ở phía Bắc đã biến tiếng đòi đất của họ thành một lời đe dọa thực sự. Ở Tây thùy, nhà Tống vẫn còn hao quân tổn tướng trên đất Thổ Phồn. Tại phương Nam, sự vụng về của Thẩm Khởi đã kéo quân Giao Chỉ lên áp sát biên giới. Vừa đây ba nghìn quân của Lư Kỷ, viên tướng giữ việc quan sát buên thùy cho nhà Lý đang đánh nhau với Trí Hội ở Quy Hóa, cửa ngõ của Châu Ung; Còn Vương An Thạch, người sủng thần ưu ái của vua đã vắng bóng sân rồng từ dạo tháng Tư năm ngoái.
    Nếu ở Biện kinh, mặt rồng nước Tống kém vui thì ở Thăng Long, nét mặt người dân kinh thành lại hớn hở hơn bao giờ hết. Họ lũ lượt nô nức rủ nhau đi xem trường thi như ngày hội. Khoa thi nho học tam trường đầu tiên của dân tộc Việt mở vào tháng Hai năm Ất Mão. Đã là lần đầu thì cái gì chẳng mới lạ. dân chúng trầm trồ nhìn những tấm cót dài quạy kín trường thi. Họ chỉ trỏ lên các chòi canh cao chót vót và những chiếc ghế chéo doãi bốn chân đứng ngất ngưởng ngoài cửa trường, nơi ngồi của các vị khảo quan. họ tụ tập trước cổng tiền, tấm tắc khen nét chữ già dặn trên bức hoành biển khoác nhiễu điều gấp thành sóng lượn. Họ tò mò nhìn mặt các anh khóa từ bốn phương náo nức đổ về kinh sư. Ai trong bọn họ sẽ là người " vượt vũ môn " một bước lên ông nghè, ông trạng?
    Đêm nhập trường của các thí sinh vui như hội hoa đèn. Quanh trường thi thắp sáng những hàng đình liệu. Đèn lồng phất lụa màu, buông tua ngũ sắc, phất phới bốn phía nhà các quan chủ khảo. Lính hoàng thành rầm rập theo vó ngựa quan giám trường giễu từ cửa Ất sang cửa Giáp. Dân kinh thành thức gần trọn đêm để xem cho được cảnh nhập trường của các sĩ tử. Họ trố mắt nhìn từ chiếc chõng tre cỏn con, bộ gọng lều đến đôi chiếu cói, chiếc ống quyển. Họ cười rộ khi thấy quả bầu be đựng nước đang toòng teng trước ngực một thí sinh bỗng sút dây đeo tụt xuống quá gối. Dứt mấy tiếng yết hậu của trống đồng, họ chen lấn nhau, kiễng chân nhón gót, cố nghển cổ nhòm cho rõ chóp mũ gấm cánh chuồn của quan chánh chủ khảo Tể Chấp Lý Đạo Thành, nhấp nhô giữa hai hàng bóng đèn lồng, từ từ tiến vào cửa Giáp.
    Nhìn cảnh hội hè tưng bừng này, người dân Thăng Long tưởng như đời sống thái bình thịnh trị của kinh thành sẽ kéo dài hàng vạn kỷ. Họ đâu rõ phương lược tay sách tay gươm của Thái Úy Lý Thường Kiệt. họ không biết Lưu Di, viên Kinh lược Quảng Tây đang ngày đêm mài nanh giũa vuốt, dọn đường trước cho cuộc Nam chinh của nhà Tống. Và cũng không một ai ngờ rằng chỉ bảy tháng sau, ở Bắc thùy bùng lên khói lửa đao binh. Trận sát phạt lớn lao này thực sự được nhen nhóm ba tháng sau khoa thi vào một ngày hè nắng lửa. Ngày ấy dân kinh thành nghe được một tin vui: vị thủ khoa Lê Văn Thịnh, ông trạng nguyên đầu tiên của nước ta, được vời vào cung dạy vua Càn Đức. Cũng đúng vào buổi chiều tà hôm ấy, Triệu Tú, cả người như tắm trong bụi cát đường xa, hấp tấp dừng ngựa trước cổng chùa Thiên Vương giữa tiếng ve sầu cất lên râm ran trên cây đại hết mùa hoa còn lác đác một vài khóm muộn đầu cành.
    Cũng trong trai phòng của sư ông Quách Thiên Vương, Thái Úy ngồi nghe những tin tức mới nhất từ bên kia Triệu Tú mang sang. Mối thù mất nước vì người Tống như lóe lên trong mắt người tráng sĩ đất Mân.
    - Dạ, thưa Thúy Úy, vua Tống vì chuyện Liêu đòi đất, đã mời Vương An Thạch về Biện Kinh và phục chức cho ông ta. Vương An Thạch trở lại làm tể tường từ cuối tháng hai năm nay.
    Tin đột ngột này làm Thái Úy như không tin ở tai mình nữa. Sau mười tháng vắng bóng, người đối thủ của ông lại trở về với nước cờ đang bỏ dở.
    - Vừa về đến triều, Vương An Thạch khuyên ngay vua Tống nên nhượng đất cho Liêu.
    Triệu Tú thủng thẳng nói tiếp:
    - Ông ta bảo với vua Tống: "Kẻ kia đòi ta cứ cho. Có lấy thì phải có cho. Muốn lấy thì phải cho đi trước đã". Vua Tống nghe lời, cắt 700 dặm đất Hà Đông biếu không cho nước Liêu.
    Như vậy là họ muốn tạm yên ở phương Bắc để rảnh tay đánh chiếm phương Nam. Xong xuôi họ sẽ quay lại tính chuyện sau với phương Bắc. Thái Úy như đi guốc vào bụng của đối thủ của mình. Vừa đây là biểu đòi nhà Tống trả lại tụi Nùng Thiện Mỹ của vua ta bị Lưu Di dìm đi lấy cớ trong biểu có chữ phạm húy. Và vua Tống cũng chẳng thèm đoái hoài đến việc ấy. Quyết ý đánh ta của họ đã rõ ràng. Thái Úy ngẫm nghĩ lại các biên thần nhà Tống từ Tiêu Chú, Thẩm Khởi đến Lưu Di và càng thấy rõ vua tôi họ lâu nay vẫn trăn trở với việc đánh Đại Việt nhưng chưa lần nào tìm ra được cơ hội thuận lợi. Bây giờ phút quyết liệt ấy đã đến rồi. Biết vậy, Thái Úy vẫn hỏi Triệu Tú:
    - Chắc tướng quân có biết được một vài triệu chứng xảy ra ở biên thùy?
    - Dạ, vua Tống đã ngầm bảo ty Kinh lược Quảng Tây dự bi binh lực vì vậy mà tiểu sinh phải gấp rút đi ngày đêm sang báo tin cho Thái Úy hay.
    Rồi Triệu Tú thuật hết mọi việc nào Lưu Di thu thuế má vùng Tả, Hữu giang bằng thóc gạo để tích trữ quân lương, bỏ trát binh thay thế quân thương trượng, nào tập lính, đóng chiến hạm, cấm bạc dịch trường, cả đến việc Lưu Di viết thư hặc tội Tô Giam, viên quan coi Ứng Châu dám can ngăn ông ta và cám Tô Giam không được bàn đến biên sự nữa.
    - Thế dân chúng Quảng Tây có bàn tán gì không?
    - Lòng dân rất oán ghét Vương Tể Tướng vì chính sách tân pháp của ông ta đang làm dân tình xiêu điêu, khốn khổ.
    - Lạ nhỉ, lão phu tưởng đó là những phép làm ích nước lợi dân chứ?
    - Khốn khổ nỗi bọn quan lại trẻ của Vương Tể Tướng sớm nhiễm thói tham nhũng xa hoa nên biến tân pháp thành phản tác dụng. Lấy một thí dụ như phép thanh miêu, triều đình đứng ra cho dân vay khi lúa còn xanh để ăn những ngày giáp hạt. Nhưng thực ra kẻ nào đút lót quan trên mới được hưởng ân sủng ấy. Còn phần đông dân chúng năm lần bảy lượt đến cửa quan chỉ xách bị đi không về rồi. Đói quá họ đành phải đến lạy van nhà giàu xin vay với giá cắt cổ.
    Thái Úy mắt sáng lên, vỗ đùi đắc chí:
    - Quả trời đã ban Kiệt tôi một danh nghĩa lớn cho cuộc tiến binh sau này!
    Rồi ông đăm đăm nhìn về phương Bắc giọng trầm ngâm:
    - Tân pháp của họ Vương bị dân oán. Đó là cái không may cho nước Tống. Mà xưa nay ở đời cái không may của nước này lại là cái may cho một nước khác, biết làm sao được!
    Tự nhiên trong đầu óc ông nảy sinh một sự so sánh giữa việc nước người với việc nước mình. Ông nhớ trước đây các Tiên đế chăm lo vun đắp phẩm hạnh các quan lại trẻ, nhất là những người đảm nhiệm những chức trách có quyền hành, như bồi thêm chất mầu cho cây lúa. Một viên lại ở ty quyến khố nhận riêng một thước lụa phải chịu đánh 100 hèo. Nhận nhiều thước phải nhiều năm đày khổ sai. Một viên quan coi ngục sai tù làm việc riêng cho mình bị xử 80 hèo, thích chữ lên mặt, giam vào lao. Các sĩ sư coi việc kiện tụng ăn hối lộ bị xử phạt rất nặng. Nhưng muốn cho hươu khỏi chạy bậy không chỉ có việc bịt đường ngăn lối. Có thực mới vực được đạo. Tiên Đế không để cho đời sống của họ phải chịu nhiều thiếu thốn. Trong triều duy nhất chỉ có các quan lại trong phủ Đô hộ, những người giữ cán cân công lý là được thêm lương bổng riêng. Tiên đế cấp phát hàng năm cho mỗi sĩ sư 50 quan tiền, 100 bó lúa và mọi thứ cá, muối đầy đủ. Mỗi ngục lại được lĩnh 20 quan tiền, 100 bó lúa. Đó là một thứ "thanh liêm phí" để giữ gìn phẩm cách trong sáng của bề tôi.
    Thái Úy mỉm cười tự nhắc thầm câu nói ông thường chiêm nghiệm:
    - Muốn làm việc tốt cho dân phải có quan tốt! Nhưng cái tốt của quan đâu phải là bông hoa dại ven đường không trồng mà mọc. Vương An Thạch thất bại trong tân pháp chỉ vì ông vụng dùng người, không thị sát việc thừa hành của kẻ dưới lại không biết đường giữ gìn sự thanh liêm của họ.
    Triệu Tú đã đứng dậy xin phép Thái Úy trở về gấp Quế Châu cho đúng kỳ hạn. Anh ta đến ôm ông anh thiền sư trong vòng tay trìu mến của mình, giữ lại hồi lâu rồi để nguyên bộ quân áo phủ đầy bụi cát lên ngựa ra roi. Thái Úy cảm khái tiễn người tráng sĩ đất Mân ra khỏi cổng chùa.
    Vương An Thạch đã trở về chức cũ. Nhà Tống muốn đánh ta gấp. Công việc phòng ngự còn dở dang. Phòng lũy sông Như Nguyệt cũng phải đến cuối năm sau mới làm xong. Tình thế bức bách đẩy Thái Úy đến một quyết định gần như liều lĩnh. Phải đánh chặn trước nhà Tống, phá sạch mọi đường tiến quân của giặc, đường bộ từ Ung Châu xuống, đường thủy từ Khâm, Liêm sang. Quả đấm lớn này phải đánh ra nhanh, rút về chóng. Muốn thế phải hết sức giữ được sự bất ngờ đối với địch.
    Đêm ấy Thái úy ngồi tự tay thảo tờ lộ bố dưới đèn khuya. Danh nghĩa chính của cuộc hành binh được nêu ra ngay từ những dòng đầu:
    - Có những người Giao Chỉ làm phản trốn sang đất Tống được các quan lại bên ấy dùng nạp và giấu đi. Nhiều lần ta đã sai sứ sang tố giác với các quan coi Quế Châu và Quảng Châu. Các quan ấy đã không thèm trả lời mà còn tuyên bố rõ ràng muốn sang đánh Giao Chỉ. Nay ta đem quân sang đuổi bắt bọn đào vong ấy ... Nhưng danh nghĩa nêu sau mới là chỗ đắc ý của Thái Úy và cũng là mũi dao sắc đâm trúng tim Vương An Thạch:
    - Ta nghe nhà Tống thi hành các phép thanh miêu, trợ dịch làm dân chúng Trung Nguyên khổn khổ, điêu linh. Nghĩ tình anh em, ta đưa quân sang cứu giúp nhau, giải cho trăm nhà khỏi ách lầm than ...
    Sáng hôm sau, Thái Úy cho người vào châu Ái gọi gấp quan Tán kỵ Lý Thường Hiển ra để bàn chuyện cơ mật. Cuối tháng bảy năm ấy, ngựa lưu tinh thầm lặng chạy ngày đêm? Thái Úy bì lệnh cho các đội quân man động ở dọc biên giới từ Quảng Nguyên đến Châu Tô Mậu sửa soạn cuộc khởi công. Lưu Kỷ cầm quân ở Quảng Nguyên, Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu, Phò mã Thân Cảnh Phúc ở Lạng Châu, Vi Thủ An ở Tô Mậu nhất tề sẽ tiến lên đánh úp các trại Hoàng Sơn, Thái Bình, Cổ Vạn, Thiên Long, hàng tiền đồn phiên giậu che chở thành Ung.
    vào đúng ngày Mồng Một Tháng Tám, ngày dân kinh thành ra đứng trước sân xem gấu đen ăn mặt trời, hai anh em Thái Úy rầm rộ ra quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Nhưng đến địa phận Trường Yên thì lá cờ nguyên nhung vắng bóng nguyên soái. Quan Tán kỵ Lý Thường Hiển đội danh nghĩa ông anh, lấy thêm quân ở hai châu Hoan, Ái vào Nam thùy, họa địa đồ hình thể núi sông, sắp xếp lại hành chính, đổi châu Đại Lý ra châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, chiêu mộ thêm dân vào sinh cơ lập nghiệp vùng đất mới. Còn Thái Úy lặng lẽ về Vạn Xuân, tập hợp đại quân, sửa soạn thuyền bè, chấn chỉnh thủy binh, định ngày kéo sang đất Khâm Liêm. cái jế thoát xác này của Thái Úy nhằm cùng một mũi tên bắn chết hai chim. Một mặt uy hiếp được Chiêm Thành, vỗ yên Nam thùy, mặt khác đánh lạc tai mắt dọ thám của nhà Tống.
    Tháng Mười, Thái Úy trở về kinh sư, bái biệt Thánh quân lên đường đi phạt Tống. Vua Càn Đức mới lên mười tuổi vịn tay xe theo tiễn Thái Úy, chúc Thượng phụ lên yên gặp vạn sự lành, Lý Đạo Thành xúc động cầm tay Thái Úy:
    - Lão phu kính chúc Thái Úy đem quân vào cõi không người dám địch, lúc rút về không ai dám đuổi theo, nhanh chóng đánh tan quân ba Châu làm rạng danh đất Việt.
    - Kiệt tôi ra quân lần này cốt làm nhụt bớt mưu xâm lăng của giặc, phòng ngừa trước việc sắp xảy ra - Ông hướng về Ỷ Lan nói tiếp:
    - Mong Linh Hậu cùng Tể Chấp ở nhà lấy lòng khoan mà đãi hào kiệt, đem bụng nhân thương lấy sinh linh để cho gió ân, mưa huệ mát mặt muôn dân, gội nhuần đất Việt.
    Thái Úy lặng lẽ lên yên. Đêm ấy năm vạn quân Hạ du tinh nhuệ, người ngặm tăm, ngựa tháo nhạc, đạp trăng đêm, tiến về phía Vĩnh An.
    Trên bàn cờ vô hình, quân đôi bên đã dàn xong thế trận, Thường Kiệt kiên quyết đưa tay nổ trước nước pháo đầu, giành lấy tiền cơ
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:37 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    PHẦN III - Chương 1


    Gần một năm rưỡi nay, Lý Ngân sống trong một tâm trạng hai mặt. Càng thân cận Thái Úy, chàng càng có dịp thấy rõ đức độ của người mà chàng thầm gọi “Kẻ tử thù đáng kính” của mình. Chàng hồi tưởng lại câu chuyện kể của lão tướng Trần Nậm. Cho đến nay ông ta vẫn còn ngạc nhiên trước cách cư xử của Thái Úy với quan Thái Bảo Nguyễn Châu và tráng sĩ Nguyễn Địa Vân. Mà ngay đến lối xử sự của Thái Úy với chàng lại không đáng kinh ngạc hay sao? Phải là con người tự tin cao độ vào lòng ngay thẳng và sự trong sạch của mình mới có được thái độ ấy. Đứng bên ngoài, người ta dễ qui vào tính khí thất thường của Thái Úy, lúc quá nhân từ đại lượng, lúc lại cứng nhắc gắt gao đến tàn nhẫn. Nhưng ở gần Thái Úy, Lý Ngân nhận thấy đó là một điều ngộ nhận. Chàng biết rõ rằng Thái Úy sẽ dễ dàng bỏ qua những gì làm tổn thương đến bản thân ông nhưng lại kiên quyết không khoan thứ những việc làm có phương hại cho dân cho nước, dù kẻ ấy có chức trọng quyền cao đến mấy. Một con người bản chất liêm khiết như vậy không thể có ý nghĩ hèn hạ đặt bày những mưu mô quỷ quyệt để ám hại kẻ khác…
    Toàn thân Lý Ngân run lên khi sắp chạm phải cái kết luận khủng khiếp ấy. Chàng hoảng sợ thực sự vì cứ theo lý lẽ ấy mà suy thì bao gánh nặng tội lỗi trước kia đành trút lên vai chàng. Chàng cố vùng vẫy như con ong sa vào lưới nhện. Chàng gợi lại sức cám dỗ đã nhạt dần của lá thư và những dòng chữ bị đốt. Chàng tìm mọi cách biện bạch cho sự chính đáng của mối thù cha. Ừ, thì cứ cho là một con người cao cả như Thái Úy không bao giờ thèm đem lòng đố kỵ đối với kẻ dưới. Nhưng biết đâu cha chàng lại không phải là một viên tướng lỗi lạc ngang tài với Thái Úy? Và lúc ấy liệu hai con hổ ở chung chuồng có chịu sống yên lành với nhau không?
    Chút biện luận mong manh ấy cũng nhanh chóng lu mờ trước tài năng trác tuyệt của Thái Úy trong cuộc hành quân đánh sang đất Tống.
    Trước lúc lên yên, Thái Úy có ngỏ lời với chàng về trận tấn công bất đắc dĩ này:
    - Phàm là kẻ có trách nhiệm với vận mệnh nước nhà, không ai muốn kéo sinh linh vào vòng đao binh cả. Nhưng nếu ta không chặn trước họ trong lúc họ đã có bụng đánh ta thì với tình thế phòng bị dở dang của ta hiện nay, chỉ trong vòng năm đến mười ngày, nước ta sẽ mất vào tay họ.
    Dưới bầu trời âm u, gió rét thổi căm căm của tháng một, Lý Ngân theo Thái Úy bước xuống lâu thuyền cắm cờ soái. Thủy binh được lệnh nhổ neo đưa chàng vào những cảnh tượng mà ngay trong mơ chàng cũng không thấy được…
    Chiến thuyền ta ập vào bờ đổ quân lên như vào chỗ không người. Thành Khâm Châu bị hạ trong nháy mắt không tốn một hòn đạn mũi tên. Trước mắt Lý Ngân, những kho khí giới đầy ắp, những đụn lương thảo cao ngất, hàng nghìn thuyền chiến xếp san sát như lá tre – những thứ quân dụng mà nhà Tống đã tốn bao công sức để dự bị cho cuộc chinh nam – bị tan biến đi trong khoảnh khắc. Ba ngày sau, thành Liêm Châu cũng chịu chung một số phận, sau một cuộc chống cự yếu ớt của Lỗ Khánh Tôn. Đạo quân đánh châu Liêm kéo thẳng qua châu Bạch, án ngữ phía Nam thành Ung Châu. Lúc đầu thế đánh chẻ tre của quân ta làm Lý Ngân sửng sốt. Nhưng cuộc hành binh từ châu Khâm lên châu Ung càng làm chàng kinh ngạc hơn. Trên con đường dài hơn hai trăm dặm ấy, đại quân đi giữa hai hàng đèn hương nghi ngút như đi giữa ngày hội. Dân chúng đứng hai bên đường, đem trâu bò đến khao quân, đặt hương án đón mừng cha Lý. Đến thành Ung, chàng thấy quân Thượng Du của ta đổ vào đã vây kín bốn mặt. Lại có tin quan Đô Giám Quế Châu, Trương Thủ Tiết, đem quân xuống giải vây cho thành Ung. Thái Úy xuất kỳ bất ý xộc thẳng lên ải Côn Lôn để diệt viện binh của địch. Mới xáp trận, quân Tống đã nửa bỏ chạy, nửa xin hàng.
    Rõ ràng có nhiều sự việc ra ngoài sự hiểu biết và phỏng đoán của chàng. Chàng không hiểu Thái Úy làm cách nào mà tạo ra được những chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Thực ra cuộc tấn công thần tốc này đã được Thái Úy bày bố rất công phu. Ông đã gài thành Ung vào một thế dở cười dở khóc. Với một lối đánh nửa hư nửa thực, quân Man động nhởn nhơ đốt phá các trạm biên thùy buộc lòng Ung Châu phải cho quân đi tiếp ứng. Đợi cho quân Ung đổ xô vào phía Tây và Tây Nam, Thái Úy mới đủng đỉnh rời Vĩnh An kéo đại quân theo đường biển đổ bộ lên Khâm Liêm. Lúc ấy đường từ Khâm đến Ung gần như bỏ ngỏ. Và điều quan trọng là Thái Úy đã giữ kín được sự bất ngờ. Bất ngờ đến mức quan Thừa Chỉ Trần Vĩnh Thái coi Khâm Châu, bỏ ngoài tai mọi tin cấp báo, ngồi nhởn nha uống rượu trong hậu dinh cho đến lúc quân ta kéo vào thành. Lưu Di chưa biết nguy cơ thành Ung bị vây vẫn còn xin vua Tống cấp cho bốn vạn quan tiền để mua lương trữ cho cuộc Nam chinh. Cả quan lớn quan bé của Tống đều đinh ninh Lý Thường Kiệt kéo quân đi đánh Chiêm Thành chưa thể về ngay được.
    Cũng không ai nói cho Lý Ngân biết rõ sức thu hút kỳ diệu của tờ lộ bố yết dọc đường hành quân, tờ lộ bố đã khiến Vương An Thạch tức lồng lên nhưng lại được chúng dân Quảng Tây vui mừng chào đón như một vị cứu tinh từ phương trời Nam đến. Và dĩ nhiên Lý Ngân không thể biết Triệu Tú đã làm nội ứng trong quân Trương Thủ Tiết, giờ đây đóng vai hàng binh, đang cùng Thái Úy bàn kế phá thành Ung.
    Nhưng làn sóng thần ồ ạt ấy bỗng bị chặn đứng trước thành Ung, một trong những thành nổi tiếng kiên cố nhất của nước Tống. Đây là cứ điểm bàn đạp chính của nhà Tống để tiến quân sang đánh Đại Việt. Nhổ được thành Ung, mọi công cuộc sửa soạn chiến tranh của Tống coi như phải làm lại từ đầu. Và tại đây, Lý Ngân được mục kích cuộc đọ sức thi gan giữa mưu trí của Thái Úy với lòng kiên dũng của Tô Giàm, viên quan trấn giữ Ung Châu.
    Dựa vào thế lũy cao tường dày, với non ba nghìn quân còn sót lại, Tô Giàm biết trấn an lòng dân, tổ chức khéo cuộc phòng thủ, chống trả quyết liệt những trận hãm thành dữ dội của đối phương. Dò biết trong thành thiếu đến cả nước ăn, Thái Úy dùng kế hỏa công của Triệu Tú. Từ trên những cao điểm ở phía ngoài, cung thủ của ta bắn vãi vào thành những chất dẫn lửa gây nên những đám cháy lớn. Nhưng ngọn lửa hỏa công ấy chưa nung mềm được chút nào lá gan sắt quyết tử giữ thành của Tô Giàm. Hơn một tháng trời nay thành Ung khói lửa vẫn đứng vững giữa vòng vây.
    Bao nhiêu tâm trí dồn vào chiến trận, Lý Ngân như quên bẵng cả ngày tháng. Mãi đến hôm qua, ngày Tết Nguyên Tiêu, Thái Úy ban cho chàng một chén rượu bồ đào, thưởng công chàng chế ra “thang Vân Thê” – một loại thang ghép, bắc nối nhau lên cao để quan sát bên trong thành – chàng mới hay mùa xuân Bính Thìn đã về trên đất nước người.
    Sáng nay chàng mới kịp chú ý đến gốc đào hoang trong vườn ai vắng chủ, lơ thơ còn sót lại một vài nhành hoa cuối mùa. Xác hoa đào phơi hồng trên mặt đất gợi lên cái màu bình yên hây hây trên môi, má thiếu nữ măng tơ. Một nỗi nhớ thương day dứt bỗng nhói lên mà lại như êm ái ngoạm vào tim chàng tựa hàm răng ai nõn nà hoa cau ngoạm vào trái đào hồng năm ấy… Xuân Thăng Long năm nay ấm lạnh thế nào? Cây đào cạnh vườn Ngự có nhạt bớt sắc hồng vì cái đông giá vừa qua? Người chàng thương không biết có lần nào ghé lại gốc đào cũ để thăm một dáng hồng đã chìm sâu trong nỗi nhớ… Giữa tiếng ầm ào trận mạc vây quanh, tựa như đứng trên một hòn đảo nhỏ, chàng bỗng bắt gặp ở đây cái vắng lặng mỏng manh của khu vườn cây, của màu đào, của tình duyên ngang trái. Một tảng đá to, từ cái máy bắn đá nào trong thành Ung, vù vù bay lạc ra xa đánh sầm bên bờ giậu khiến cây đào giật mình để rơi những món trang sức cuối cùng.
    Tiếng lão Vũ như nói bên tai:
    - Công tử lại nhớ Thăng Long rồi.
    Lý Ngân mỉm cười:
    - Ôi! Chỉ có lão là hiểu thấu lòng ta – Nhớ thì làm thế nào được bây giờ hả lão Vũ?
    Lý Ngân và lão Vũ là hai người được Thái Úy mang theo dưới trướng, sống kề cận bên Người. Không hiểu trong trường hợp nào đã đan kết nên mối tình thân gắn bó giữa họ. Có lẽ vì vắng bóng Hạnh Hoa, Lý Ngân coi lão Vũ như một chứng tích thân yêu còn lại trong mối tình đau thương của chàng. Cũng có thể vì không biết trang trải tâm sự cùng ai, chàng đem ký thác nỗi niềm vào lão, một con người lầm lì, kín đáo mà thật tốt bụng. Mỗi tiếng lòng chàng thốt ra đều được lão Vũ đáp lại bằng một sự cảm thông trầm lặng. Đã có lúc chàng không còn cảm thấy vị sống ở trên môi. Trong nỗi tuyệt vọng mịt mùng của chàng, lão Vũ thỉnh thoảng khéo nhóm lên một vài điểm sáng le lói. Dần dà lão hé cho chàng thấy những khoảng xanh của một trời ước mơ. Không ai biết trong thâm tâm lão nghĩ những gì nhưng rõ ràng lão mong muốn chắp nối mối duyên tình dang dở của chàng, vun đắp nó sinh hoa kết trái.
    Nghe Lý Ngân hỏi, lão Vũ đưa tay chỉ thành Ung, vui miệng đáp:
    - Công tử nhớ thì hãy nghĩ cách hạ thành Ung sớm được ngày nào ta về sớm Thăng Long ngày ấy.
    - Vậy thì lão nghĩ cách đi, ta cùng nghĩ với lão đây.
    Vừa nói chàng vừa nhìn vào bức tường thành cao vút đứng trơ gan như thách thức. Trong thành những đám cháy không dập tắt vẫn ùn ùn đùn khói lên, trông xa như miệng chiếc lư trầm khổng lồ đang tỏa khói.
    Không phải đến bây giờ có lão Vũ nhắc chàng mới nghĩ đến cách phá thành. Điều ấy lâu nay vẫn ám ảnh chàng cả trong giấc ngủ. Tâm linh chàng thầm mách chàng rằng cách phá ấy chàng đã có sẵn và nó đang ẩn nấp ở một ngõ ngách nào đấy trong người chàng. Bao lần chàng đã hoài công gõ vào đầu chàng như gõ vào một chiếc thùng rỗng. Trí óc chàng bịt bùng như một bầu trời vần vụ lúc mờ đục lúc tối sầm. Chàng muốn đưa tay vén bớt lớp mây dày tìm cho ra một khe hở. Có lúc tưởng chừng như nó đã đến gần chàng khiến chàng nín thở, tim đập phập phồng, người chàng run lên vì vui sướng. Nhưng khi chàng đưa tay đón bắt thì nó đã tan biến trong lớp mây mù, không để lại một âm vang. Trò chơi hú tim này đã nhiều đêm làm chàng không chợp mắt được.
    Lão Vũ đứng bên chàng bỗng chép miệng:
    - Tường cao thế kia, sức người làm sao mà nhảy lên được!
    - Lão Vũ! Lão nói gì thế? Chàng vụt sững sờ kêu lên.
    Câu nói vô tình của lão như một cơn gió mạnh bất ngờ xé toang lớp mây dày che trí nhớ, để hở một khoảng trống cho ký ức xa xôi ào ạt đổ về… Thời ấy chàng còn nhỏ dại đâu như trước ngày chàng gặp bé Hạnh ở xưởng dệt Thái Hòa và được ăn một ngọn roi trúc đào quắn đít. Không biết nghe lời ai, chàng túm ông quần, đổ cát vào, tập nhảy cao để vượt qua bức tường đất sau nhà. Bố chàng trông thấy bảo: - Con chẳng cần phải nhảy mà vẫn qua được đấy! Rồi ông vào bếp, ném ra cho chàng mấy bó củi – Thấy chàng còn đứng ngơ ngác, bố chàng cười bảo: - Ngốc ơi! Sao không biết chồng củi lại cho cao mà bước qua…
    - Cần gì phải nhảy qua, cứ chất củi bó mà trèo lên thành có được không? – Chàng buột miệng nói – Ơ, củi thì tên mang lửa của địch sẽ bắn cháy mất!
    Mắt lão Vũ sáng lên: - Củi bó thì cháy nhưng bao đất thì chắc được công tử ạ!
    - Ừ nhỉ! – Chàng nói như reo lên.
    Không để cho chàng kịp nghĩ thêm, lão Vũ đã kéo tay chàng chạy bay về đại doanh gặp Thái Úy.
    Lúc này Thái Úy đang ra lệnh cho Phò Mã Thân Cảnh Phúc và Thiết Nỗ rút thổ binh và đội quân voi về trước, án ngữ hai ải Quyết Lý, Chi Lăng để phòng ngừa mọi bất trắc. Tin thám tử vừa cho ông biết nhà Tống rục rịch động binh. Tể tướng Vương An Thạch lợi dụng lúc ta đang bận vây Ung Châu, định thừa hư kéo quân sang đánh úp Giao Chỉ. Vua Tống đã chọn Triệu Tiết làm đô tổng quản đạo quân đi chinh Nam.
    Hai người vừa về đến nơi, Thái Úy chưa hỏi, lão Vũ đã bẩm trước:
    - Thưa Thái Úy, công tử Lý Ngân dâng kế phá thành Ung!
    Lý Ngân buộc lòng phải trình lên Thái Úy những điều chàng vừa nghĩ được. Thái Úy lắng nghe, vẻ trầm tư tan biến. Nét tươi tắn phảng phất như làn gió đầu xuân, lướt qua gương mặt ông mà nụ cười còn ghim lại nơi khóe miệng. Xong câu chuyện, ông hoan hỉ đứng lên: - Kế hay, hay lắm! Ta mừng cho cháu. Kế này là một loại thuộc về phép thổ công trong binh pháp. Trước ta đã thử đào hầm dưới chân thành nhưng bị địch phá. Nay cháu lại bồi đất bắc cầu lên thành, thử xem Tô Giàm lần này có phá nổi không?
    Bảy ngày sau, buổi sáng vừa ửng lên qua làn sương mù dày đặc, lính trong thành Ung Châu trố mắt đứng ngây nhìn một dòng sông chuyển động nhấp nhô những hòn những tảng cứ lừng lững trôi vào sát đến chân thành. Hàng vạn bao đất chồng chất lên nhau cao dần như núi. Thành Ung Châu bị hạ theo kiểu ấy.
    Đạt được mục đích của mình, Thái Úy hạ lệnh cho toàn quân rút ngay về nước.
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:41 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 2

    Thời buổi chinh chiến này mà tướng quân có thì giờ rỗi rãi về thăm nhà đấy ư?
    Vừa thấy bóng lang tướng Nguyễn Căn bước qua ngưỡng cửa, quan Thái Bảo Nguyễn Châu đã đánh tiếng hỏi con, giọng đùa nhưng có pha chút nghi ngại.
    - Dạ, Thái Úy phái con về kinh sư có việc ạ!
    - Việc gì thế?
    Nhớ lại những lời ân cần dặn dò của Thái Úy, Nguyễn Căn ngập ngừng nhìn bố: - Dạ một việc quân cơ mật.
    Một thoáng vui lướt qua như gợn sóng trên khuôn mặt quắt queo của Thái Bảo. Ông mừng vì mặc dầu mối giao hảo giữa ông và Thái Úy không lấy gì làm đẹp lắm, con trai ông vẫn được Thái Úy giao phó những việc tin cẩn. Nhưng ông vẫn ỡm ờ hỏi: - Cơ mật gì? Lại chẳng đi mộ sương binh ở lộ Quốc Oai đấy chứ?
    - Dạ, không mộ quân mà mộ con hát – Nguyễn Căn buột miệng đáp.
    - Hả! – Thái Bảo bật lên một tiếng sửng sốt, ông tưởng đâu mình nặng tai nghe nhầm – Con nói gì thế?
    - Con đi tuyển mộ bọn con hát trong các vương phủ và các trà điểm ở kinh thành.
    - Mộ con hát để làm gì? Để chuốc rượu ba mươi vạn quân Tống sắp kéo sang chăng? Hay Thái Úy nhà ngươi đã dở hơi rồi đấy? Hay vì việc cơ mật con nói dối bố chăng?
    Những câu hỏi dồn dập của bố chứa chất một sự ngờ vực đáng sợ, tới tấp bay xuống đầu khiến người con bối rối, lúng túng đáp: - Mộ bọn con hát để làm gì ư? Quả tình con cũng không biết.
    - Đi mộ con hát mà cũng là việc quân cơ mật!
    - Điều này con chỉ nói riêng một mình bố biết. Xin bố giữ kín cho.
    - Không giữ kín để nói ra cho thiên hạ cười thối đầu thối óc ư? Thế trong quân hết người hay sao mà phải bắt một vị lang tướng đi làm việc ấy?
    - Dạ, Thái Úy bảo: - Chỉ có mình con là làm nổi việc này. Biết được bọn con hát, chọn người tốt giọng, hơi trầm mà vang xa.
    Thái Bảo chợt nhớ đến quãng đời ăn chơi phóng đãng của con mình trước đây, quãng đời lấy rượu làm cơm bữa, lấy gái làm áo đêm, chả lấy gì làm “tiếng thơm” cho lắm. Bất giác, ông hiểu ra ngay tại sao Thái Úy chọn con mình.
    - Thế mà anh vội hứng ngay cái việc ty tiện này ư? – Ông giận dữ gằn giọng xuống.
    - Thưa bố - mặt Nguyễn Căn cứ nhơn nhơn – Con nghĩ rằng trong việc này, con vẫn là người sành điệu nhất.
    - Đấy! Đấy! – Ông xỉa tay vào mặt chàng – Đấy mới là nỗi ô nhục cho gia phong nhà ta đấy con ạ!
    Cơn giận sùi bọt mép khiến nét mặt khô quắt của ông nhăn nhúm lại như quả sấu sắp rụng. Không hiểu ông tức giận vì sự khờ khạo ngu ngốc của con mình hay vì sự Thái Úy cố tình nhiều lần hạ nhục bố con ông.
    Ngỡ bố giận vì tính dễ bảo của mình, Nguyễn Căn cố biện bạch.
    - Thưa bố, Thái Úy đã ban lệnh, làm sao con dám cưỡng lại ý Người.
    Chừng như cơn giận đã nguôi ngoai, ông nhìn con ái ngại dịu giọng: - Con khờ lắm! Con làm tả lang tướng mà họ sai con đi bắt con hát. Con không lấy thế làm xấu hổ ư? Xưa nay có ai dùng con hát để đánh giặc đâu? Đó là chỗ thâm ý của họ muốn bêu xấu ta đấy. Nhưng thôi việc ấy ta hãy gác sang bên. Nay thân con làm tướng, ta thử hỏi con có biết tình thế nước ta hiện đang dầu sôi lửa bỏng đến mức nào không?
    - Dạ con nghe quân Tống sắp phạm vào bờ cõi.
    - Sắp gì nữa. Họ đang ngồi chễm chệ trước cửa ngõ ta rồi. Ngạn ngữ có câu: - “Muốn béo ghẹo ong”. Ở đời có trêu chọc tổ ong mới bị ong đốt. Có vô cớ phạm vào oai trời mới khiến Thiên triều nổi trận lôi đình đem quân sang hỏi tội. Ta không làm gì cũng mang phải vạ lây. Điều đó chắc con đã rõ. Duy lần nam thảo này, họ chọn quân nào tướng nào thì chắc con chưa biết.
    - Dạ, quả thật con chưa biết.
    - Toàn các bậc danh tướng của Trung Nguyên? – Thái Bảo ngừng giây lâu như để nhớ lại đầy đủ chi tiết mà Đỗ đại nhân cung cấp cho ông trong cuộc gặp gỡ gần đây – Đại nguyên soái Quách Quì là một vị tướng nòi, từng khét tiếng cả một phương Tây Bắc, quân Hạ nghe đến tên ông đã bạt vía kinh hồn. Phó nguyên nhung Triệu Tiết là vị trí tướng lừng danh về tài dùng kỵ binh khắp vùng sơn ngoại. Còn oai danh của Yên Đạt, vị lão tướng bạc đầu trong trận mạc thì đến vua Tống Thần Tông cũng phái kính vì. Dưới trướng họ còn có hàng trăm tướng trí dũng có thừa, mưu lược như Khúc Chẩn, Đào Bật, uy mãnh như Tu Kỷ, Miêu Lý. Tướng đã thế mà quân cũng không kém phần kiêu dũng. Ngoài quân thiện chiến ở các lộ Kinh, Hồ, Lưỡng Quảng, nhà Tống còn điều thêm hàng vạn quân kỵ tinh nhuệ ở các biên thùy Liêu, Hạ xuống Nam. Vó ngựa họ đi rung đất, thế quân họ tiến át sao Đầu mờ sao Ngưu.
    - Con nghe quân phương Bắc của họ không chịu nổi lam chướng độc địa ở đất nước ta – Nguyễn Căn rụt rè góp lời.
    - Con tưởng họ không biết rõ điều đó hay sao? Thái y viện của họ thiếu gì thầy giỏi thuốc hay. Hàn lâm y viện của họ đã chọn 57 bài thuốc trị lam chướng, sai sở hạp dược chế thành tễ cho quân họ mang theo. Con khỏi phải lo điều đó.
    Nghe bố nói thế quân mạnh của nhà Tống, Nguyễn Căn đã thấy ớn lạnh cả người, nhưng chàng vẫn cố hỏi gặng: - Thế liệu họ có vượt qua nổi thành lũy Như Nguyệt không? À mà bố chưa thấy thành Như Nguyệt lúc mới làm xong. Con tưởng kiến bò cũng khó lọt qua bố ạ!
    - Ta còn lạ gì cái đê ấy! Nhưng một khúc đê con làm sao ngăn được sóng lũ. Chín đạo quân của nguyên soái Quách Quì như chín cái đầu rồng phun nước. Không sạt chỗ này cũng vỡ chỗ nọ.
    Có lẽ Đỗ đại nhân không hiểu gì về nội tình của họ, hay vì Nguyễn Châu cố ý thuyết phục con mình mà ông toàn phô trương tấm da vằn vện lòe loẹt bên ngoài của quân nhà Tống. Thực ra bên trong còn lắm chuyện lủng củng. Nuôi một đạo binh lớn như vậy ròng rã gần năm trời, lương cho người, cỏ cho lừa ngựa, trâu dê lợn rượu khao quân, hàng vài chục vạn dân phu đi theo phục dịch, công đài tải xa hàng vạn dặm. Lại còn phải sữa chữa thành quách, xây đắp cầu cống, mua chuộc dân khê động dọn đường trước cho cuộc chinh thảo xa xôi. Vua Tống đã phải bấm bụng mở công khố chi ra hàng triệu lạng vàng, chiếu cho tam ti coi việc tài chính lấy hàng chục vạn quan tiền trao cho lái buôn mua lương thực, đình việc đào sông Câu hà, vét thêm phu ném vào cuộc nam chinh.
    Tuy có dự bị sẵn thuốc men mà móng vuốt của bệnh thời khí cũng đã quắp mất trên sáu nghìn người khi đại quân vừa xuống Quế Châu. Viên tri lễ nhà Tống được lệnh cấp tốc đi Hành Dương cúng thần Nam Nhạc, lập đàn cầu phúc cho quân nhà.
    Nhưng lỗ mối rò nguy hiểm nhất trong quân nhà Tống có lẽ là mối bất hòa giữa hai tướng soái. Trước đấy Triệu Tiết được cử làm chánh soái nhưng đã đánh rơi chức ấy vào tay Quách Quì. Vương An Thạch che chở Triệu Tiết còn Ngô Sung bênh vực Quách Quì. Hai đại thần cãi nhau mỗi người mỗi ý. Cuối cùng cái thế đã bắt đầu suy của họ Vương không cứu vãn nỗi chức cũ cho Triệu Tiết. Sự lục đục từ trên dội xuống dưới. Hai tướng không thèm ngó mặt nhau. Lời của Triệu Tiết, Quách Quì bỏ ngoài tai. Mọi việc quân chỉ bàn riêng với Yên Đạt. Triệu Tiết đành nuốt giận vào lòng.
    Những lời giáo đầu của Nguyễn Châu ở trên với con cốt dẫn đến những câu cuối cùng sau đây mà ông nói với một giọng trầm hạ thấp: - Nước ta đã lỡ ở thế cưỡi lưng cọp rồi. Sức ta chống họ như trứng chọi đá, châu chấu đá xe, sự mất còn chỉ trong sớm tối. Ta phải biết lo liệu thân ta trước. Chim khôn chưa động cành đã chớp cánh. Người khôn… Ông lại hạ thấp giọng xuống một cung bậc nữa khiến con ông suýt phì cười vì chàng đang nghĩ đến việc chọn giọng trầm các con hát: - Bố có quen một viên quan nhà Tống tên Thành Trạc trước làm chức giám ấp trại Hoành Sơn. Ông ta lại là chỗ quen lớn của nguyên soái Quách Quì. Sợ bố con ta rồi đây phải chịu cảnh ngọc nát vàng tan, ông ta có gửi cho bố mấy lá bùa hộ mệnh. Ông moi hồi lâu trong người ra một tấm thẻ bài dấu son đỏ chói trao cho Nguyễn Căn – Nếu rủi ro con có bị họ bắt thì cứ chìa tấm thẻ này ra, lập tức họ sẽ dẫn con đến gặp nguyên soái Quách Quì. Con hãy giữ kỷ vật này để phòng thân.
    Lang tướng Nguyễn Căn cất tấm thẻ vào bọc rồi từ biệt bố đi lo công việc. Tuyển đủ số con hát, chàng lên Thiên Đức nộp cho Thái Úy rồi về thẳng Vạn Xuân. Trong chuyến đi này, chàng đã đánh rơi mất niềm tin trong cuộc chiến nhưng lại được tấm thẻ hộ thân giấu kín ở trong người.
    Lý Ngân được lệnh nhận các con hát, phiên ra thành từng nhóm bốn người rồi lên gặp Thái Úy. Chính chàng cũng ngỡ ngàng không hiểu Thái Úy định dùng con hát ấy vào việc gì.
    Thái Úy rút tờ hoa tiên gấp trong cuốn sách ra, mỉm cười hỏi:
    - Lý Ngân! Cháu còn nhớ vật gì đây không?
    Mắt vừa chạm vào những dòng chữ trên giấy, chàng đã hồi hộp như chạm phải vật thiêng. Chính chàng là người duy nhất chứng kiến được, trong một trường hợp rất đỗi lạ lùng, sự ra đời của những dòng chữ ấy, những câu thơ thần viết trên yên ngựa. Chàng tưởng chừng như nghĩa lớn sinh tồn của cả một dân tộc đợi đến phút thiêng liêng ấy mới đúc kết thành lời. Mai đây dù năm tháng có phôi pha, chàng vẫn tin chắc rằng những điều chàng thấy vĩnh viễn còn sáng đậm trong ký ức chàng như màu mực mới.
    Chàng nhớ rõ hôm ấy đại quân qua sông Đào Hoa. Gió bấc đã lặng từ hôm trước. Vệt ráng đỏ trong nắng quái chiều đông hừng lên ở phía trời Tây gợi người ta cái cảm giác ngày đang vào hạ. Dường như ánh trời vẫn cố giữ lượt phấn màu hoa đào thường vốn có trên gương mặt dòng sông. Ngồi im hàng giờ trên mình ngựa, Thái Úy đăm đăm nhìn vào làn nước lặng lờ. Cảm thấy như có điều gì lạ xảy ra, Lý Ngân, bước đến gần, tò mò nhìn theo hướng mắt của Thái Úy. Chàng kinh ngạc suýt kêu thành tiếng. Trên gương nước mênh mông, mở ra một trang sách trời lồ lộ. Những dải mây tê tê kết lớp giăng hàng phản chiếu trên dòng sông giống hệt những dòng chữ thẳng băng viết bằng một thứ mực son rực lửa trên nền giấy thiên thanh. Chàng thầm nghĩ phải chăng Thái Úy đang để hết tâm tưởng cố tìm đọc cho ra ý nghĩa huyền bí trên cuốn sách trời.
    Qua sông, Thái Úy đảo mắt nhìn một lần nữa sắc đỏ ráng chiều, quay đầu mỉm cười với hàng thông mật đứng trên đồi cao, uy nghi chỉnh tề như đoàn quân sắp xung trận. Thái Úy thẫn thờ buông cương, cặp mắt mông lung khép lại lim dim, gật gà, thiu thỉu. Lý Ngân lo âu nhìn thân hình Thái Úy buông thả lắc lư theo nhịp ngựa đi mà hồn như để tận đâu đâu. Chàng mường tượng thấy Thái Úy như đang cố thoát ra khỏi cái vỏ thịt da bọc ngoài, vươn vào cõi vô cùng. Thời khắc cứ lặng lẽ trôi bao lâu không biết. Cái im ả hiu hiu của trời chiều quyện theo vó ngựa nhịp nhàng đi nước kiệu. Chợt đến một khúc đường quanh, vó ngựa lồng lên, Thái Úy mở choàng mắt ra như người vừa tỉnh giấc.
    - Lý Ngân! Ta vừa chợp mắt…
    - Trời ơi! Thái Úy ngủ trên yên sao?
    - Suốt đời ta trên ngựa, có chợp mắt một lúc trên yên cũng là chuyện thường thôi. Có điều ta vừa trải qua một giấc mơ kỳ lạ. Lý Ngân như muốn kêu lên: - Trời! Thái Úy đã ngủ trên ngựa mà còn nằm mơ nữa ư? Nhưng chàng đã phải để tai nghe Thái Úy kể tiếp giấc mơ trên yên ngựa.
    - Ta thiếp đi và thấy một mình đứng trên đỉnh đèo chấm mây. Chung quanh ta như có nghìn chim vỗ cánh xào xạc. Rồi giữa thinh không bỗng một rừng cây mở lá. Quả mật hương thơm chĩu chịt trên cành. Tầng tầng mây xanh thì thào tiếng nói của thần linh, tiếng của thần hay tiếng của nghìn xưa đồng vọng? Ta ngồi trên yên, ngửa mặt nghiêng tai, trong ráng đỏ chiều pha bừng bừng hào khí, lắng nghe tiếng nói của nước non vạn thuở… Lý Ngân! Con hãy bảo đem nghiên bút cho ta ghi lại.
    Và cứ thế, ngồi nguyên trên mình ngựa, Thái Úy viết liền một mạch. Nhìn theo những nét chữ hiện dần trên trang giấy, Lý Ngân xúc động lẩm nhẩm:
    “Nam quốc sơn hà nam đế cư,
    “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
    “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
    “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
    (Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Cõi bờ phân định tự sách trời
    Cớ chi lũ giặc sang xâm lấn?
    Thất bại hay xem sẽ đến nơi)
    Và lần này cũng vậy, câu thơ đốt lửa lòng chàng. Những câu thơ không hề xuống ngựa phi vào ngày mai trong ráng đỏ sắc chiều hôm. Một cảm giác mơ hồ từ nơi sâu thẳm của tiềm thức như báo cho chàng biết rằng vệt ráng đỏ hừng lên trên gương mặt chàng hôm ấy mai đây sẽ trở thành đặc điểm nhân dạng của người dân Việt, mỗi khi có giặc ngoài xâm lấn cõi bờ…
    - Cháu hãy đem bài thơ này cho con hát tập ngâm. Vì đây là những lời thần nên họ phải đóng vai thần, cải trang giống thần, tập ăn nói đi đứng như thần. Cháu đừng lo, con hát họ sẽ biết cách đấy.
    Thái Úy nhìn sâu vào mắt chàng
    – Lần này, ta mời thần linh cùng ta ra trận, cháu chớ xem thường. Nếu bọn con hát làm đúng được ý ta, ta sẽ cho lũ giặc một phen hồn vía lên mây trước oai linh của núi sông Nam Việt, bỏ chạy không kịp ngoái đầu nhìn lại, hàng muôn đời sau chưa dám thò chân qua đất nước này…
    ThaoMy
    ThaoMy
    Pre-Moderator
    Pre-Moderator


    Tổng số bài gửi : 9967
    Join date : 07/06/2012
    Đến từ : Thành Phố Cây Xanh

    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by ThaoMy Tue Jun 18, 2013 10:44 pm

    Câu Thơ Yên Ngựa

    Tác giả: Lê Hoàng Yến

    Chương 3


    Hôm nay đã là những ngày năm cùng tháng tận. Người lính gác trước đại bản doanh Thiên Đức, co tay bấm đốt tính nhẩm. Ngày mai ông Táo về trời. Vậy mà cái nắng khan cứ chói trên đầu gã và khí lạnh là là quấn lấy đôi chân tê cóng của gã. Các loài hoa mở tung cánh đi trước mùa xuân. Nhớ lại cũng vào ngày này năm trước, gã còn đứng trước thành Ung Châu ngun ngút khói. Đến cái tết này nữa là gã đã ăn hai cái Tết chinh chiến rồi. Bỗng một con bò cái dáng chừng lạc con xổng mũi đi ngang qua nhìn gã với đôi mắt ươn ướt rồi vươn cổ be dài: “- Hăm… ba!” Gã giật mình quát lớn: “- Hăm hai chứ! Sao lại hăm ba? Dường như con bò mẹ không đếm xỉa gì đến lời gã, lại rống tướng lên lần này tiếng kéo dài thõng thẹo: - Hăm… ba…! Gã thắc mất: - Lại hăm ba, đồ quỉ cái! Mày muốn táo quên lên sớm một ngày để chết cóng trước cổng trời hả?
    Gã đang định ngoạc mồm ra quát thêm cho át tiếng bò kêu, bỗng vội dừng lại chỉnh đốn tư thế khi thấy ông đô giám Nguyễn Địa Vân bước đến gần. Gã lấy giọng nghiêm trang bảo: - Quan Thái Úy đang đợi ông đấy! – Rồi gã chỉ đường vào hội sảnh.
    Thái Úy đang đứng nhìn tấm họa đồ nước Việt trải trên một chiếc bàn lớn. Có lẽ trong khoảng thời gian những tháng cuối năm Bính Thìn này, có hai nhân vật lịch sử ở dưới hai vòm trời khác nhau, cũng đứng trước một tấm địa đồ nước Việt cùng chú tâm theo dõi một cách căng thẳng cuộc hành quân nam thảo của nguyên soái Quách Quì. Đó là vua Tống Thần Tông và Thái Úy Lý Thường Kiệt.
    Mỗi khi được tin báo tiệp, vua Tống lại nghiêng mình xuống tấm địa đồ đưa tay chỉ trỏ, giảng giải cho các quan cận thần biết đâu là đất Quang Lang, đâu là Động Giáp, nơi xa nơi gần, chỗ hiểm chỗ bằng, lối quanh, lối thẳng. Tưởng đâu như cái nước Nam man nhỏ xíu ấy, đã nằm gọn trong lòng bàn tay của đức vua con trời. Binh phu ngày đêm chuyển điệp tới tấp mang đến sân rồng những tin vui thắng trận: viên tướng Lưu Kỷ, con hổ xám đất Quảng Nguyên đã đầu hàng, các tù trưởng châu mục khác đều lần lượt qui thuận, ải Quyết Lý hiểm trở đã bị san bằng: đại quân của Quách Quì tìm đường tràn xuống phía Nam. Muốn biết rõ động tĩnh của quân tướng Quách Quì từng ngày một, vua Tống cho đặt một đường dây trạm đặc biệt. Phu dịch mang những đại bài dài thượt đề sáu chữ to tướng “Khu mật cấp tốc văn tự” (văn tự cấp tốc của bộ quốc phòng) đổi ngựa thay nhau chạy thẳng về kinh không dừng qua các trạm dọc đường.
    Mặt rồng nở nang khi đón nhận được tin chín đạo quân Tống đã dễ dàng vượt qua các dãy núi đá Đầu Mâu, đổ về trước cửa ngõ đồng bằng trên bắc ngạn sông Phú Lương, cách kinh đô Đại Việt chỉ non 40 dặm. Con sông Phú Lương nằm đâu nhỉ? Vua Tống đưa mắt dò từng dòng phẩm xanh ngoằn ngoèo chi chít trên tấm họa đồ của cái xứ sở xa xôi kia. Mắt ngài Ngự sáng lên đưa ngón tay trỏ chỉ vào một điểm: đây rồi!
    Ngài chắc mẩm chỉ trong vòng dăm ba hôm nữa Quách Quì sẽ tuân theo lời ngài đem chia xứ Giao Chỉ ra làm quận huyện sáp nhập vào đất Tống. Sát trên mép biên dòng phẩm xanh mà ngài tin đó là một con sông hiền hòa, chỗ ngài vừa chấm tay vào, trí tưởng tượng cho phép đức vua thấy quân Trời đang tưng bừng hạ trại, dưỡng uy sức nhuệ để tiếp tục cuộc hành trình cuối cùng chọc thẳng vào sào huyệt vua Nam. Chả hiểu có phải vì tay ngài có dính chút hương trần phấn tục nào không mà một con ong từ đâu bay vào sà xuống cong đít châm đúng vào chỗ ngón tay vua vừa rút ra, rồi vụt bay đi mất. Vua Tống cau mặt như gặp phải điều gở. Quả nhiên từ ngày ấy vua Tống bặt hẳn tin tức của đoàn quân Nam chinh.
    Còn Thái Úy Lý Thường Kiệt mỗi lần nhìn tấm họa đồ là một lần trầm ngâm suy tính, tra soát lại cách bài bố thế thủ của các đạo quân.
    Thế đất Việt hình trăng non, hai sừng nhọn ôm vòng đất châu Ung của Tống. Tả dực là đất Quảng Nguyên có viên tướng kiệt hiệt Lưu Kỷ cùng 5 nghìn quân án ngữ. Hữu dực có quân ở châu Vĩnh An và hạm đội thủy binh đóng trên dòng Đông Kênh do tướng Lý Kế Nguyên đốc xuất. Còn trung quân có phò mã Thân Cảnh Phúc cùng đội tượng binh của Thiết Nỗ khống chế hai ải hiểm: Quyết Lý và Chi Lăng. Bên trái của phò mã, châu mục Hoàng Kim Mãn giữ đất Môn Châu chặn đường Bình Gia đến Phú Lương, bên phải Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu trấn cửa ngõ đường vào châu Lạng. Đại quân của Thái Úy rải từ Động Giáp trở xuống, đóng dọc theo phòng tuyến Như Nguyệt. Đại doanh thủy binh nằm trên bờ nam Lục Đầu do Thái Tử Hoàng Chân với hai bộ tướng Thái Tử Chiêu Văn và tả lang tướng Nguyễn Căn thống lĩnh. Thế rẻ quạt lợi hại của đất Vạn Xuân chắp tay cho thủy quân có thể kéo lên sông Đào Hoa, Lục Nam hay vào Như Nguyệt, Thiên Đức hoặc ra Bạch Đằng, Đông Kênh. Sức mạnh hơn hẳn của đội thủy binh ứng chiến này càng làm Thái Úy vững tin vào thế thủ cực kỳ nghiêm nhặt của mình. Nhưng mỗi bận nhìn lại tấm họa đồ, Thái Úy vẫn cảm thấy có điều gì chưa ổn. Dường như linh tính của con nhà tướng báo cho Thái Úy biết trong kế hoạch phòng thủ của mình còn có một khe hở nào đấy. Tra đi soát lại mãi, Thái Úy vẫn không tìm thấy khía sơ suất còn mơ hồ ẩn sâu đâu đó trong tiềm thức. Nhưng giờ đây đọc kỹ lại những tờ trình của thám tử, Thái Úy nhìn thấy sai sót từ đầu của mình bỗng lộ ra trước mắt.
    Lâu nay Thái Úy vốn biết thói bàng quan và tính dao động của các châu mục vùng giáp giới. Theo mạnh bỏ yếu là chuyện thường. Thái độ của họ là cái thước đo thế lực của hai nhà Tống, Lý. Quá tin vào nhiệt tâm của họ trong trận đánh Ung Châu, Thái Úy lãng quên điều đó. Giá Thái Úy bổ sung thêm bên cạnh họ một số quân tướng trung châu thì có lẽ cục diện chiến trường đã đổi khác. Biết ra thì đã muộn rồi. Thái Úy có trách mình cho lắm thì thủ lĩnh các châu Quảng Nguyên, Môn Châu, Tô Mậu cũng đã sớm đầu hàng trước đại quân Tống. Ải địa đầu không đương cự nổi thế quân thù.
    Song điều bất ngờ nhất đối với Thái Úy là Quách Quì biết tránh cái bẫy Chi Lăng, vòng sang phía Tây, dồn cả đại quân vào con đường độc đạo Vạn Linh, vượt vúi Đầu Lĩnh, theo sông Phú Lương đổ xuống trước vành đai Như Nguyệt. Vì không nằm trong dự kiến, cánh binh lơ thơ dăm nghìn người của Thái Úy chẹn con đường hẻm Vạn Linh, chỉ đủ sức làm khó dễ phần nào đạo quân tiên phong của tướng Tu Kỷ. Và Tu Kỷ tách ra khỏi đạo quân tiến về phía Nam, bọc sau lưng Động Giáp khiến phò mã Thân Cảnh Phúc phải rút lui vào núi, bỏ trống ải Chi Lăng và biến cửa ải hiểm trở ngặt nghèo từng khét tiếng là Quỷ môn quan này thành vô tác dụng.
    Nhưng lũy Nam Ngạn vẫn sừng sững một bức thành dài. Chín đạo quân Tống cùng dồn về đứng ngẩn ngơ trước cái hào sâu thiên nhiên tạo nên do con sông Như Nguyệt. Hai vị nguyên nhung, người bờ Nam, kẻ bờ Bắc, bắt đầu cuộc đọ mưu đấu sức.
    Viên dũng tướng Miêu Lý của Tống vừa mới hạ trại đã hùng hổ tức tốc muốn đem quân vượt sông. Nghe theo lời Hoàng Kim Mãn, châu mục đất Môn hiện là hàng tướng làm hướng đạo cho cánh quân hữu dực, Miêu Lý trình với Quách Quì ý đồ đánh vào chỗ bất ngờ của địch, chọc thủng phòng tuyến bờ Nam, tiến một mạch thẳng đến Thăng Long. Quách Quì còn đang ngần ngừ thì Miêu Lý đã ước hẹn với tướng Vương Tiến bắc phù kiều qua sông xua quân tiến trước.
    Ý định bắc cầu sang sông của quân Tống đã được phi báo cho Thái Úy đúng lúc Nguyễn Địa Vân bước vào hội sảnh. Ông hỏi tên quân thám tử: - Quân địch đổ bộ vào khúc sông nào?
    - Dạ, đúng vào bến đò Như Nguyệt ạ!
    - Chà! Tai mắt của họ không phải vừa đâu. Cho ngươi lui.
    Thái Úy quay sang Địa Vân và Lý Ngân đứng cạnh, dặn dò mọi điều cần thiết trước lúc bước vào trận đánh: - Hôm nay đội Bảo Vân của Đô giám phải hóa thành áng mây đức thánh Tản – Ông tươi cười bảo – Còn mũi tên của Lý Ngân phải là mũi tên thần Long Thủy. Các ngươi phải làm cho quân giặc tan phách lạc hồn, tước ngay đầu nhuệ khí của bọn chúng.
    Theo kế hoạch vạch sẵn từ trước, các tướng lần lượt tới nhận lệnh tiễn răm rắp thi hành.
    Trong hội sảnh chỉ còn lại Thái Úy, lão Vũ và tấm họa đồ bị gió thổi lật gấp lên một góc. Một hồi trống đồng rền vang bứt nốt những chiếc lá cuối cùng trên cây hoa vông trước bản doanh. Thái Úy quay lại bảo khẽ lão Vũ: - Vũ nhi! Bây giờ thì đã đến lúc con sang sông rồi đấy!
    Và ở một khúc sông vắng nào đấy, trong lúc Vũ Anh Thư vượt qua bờ Bắc thì tướng Miêu Lý do Hoàng Kim Mãn dẫn đường cũng thúc quân đặt chân lên phù kiều tiến sang bờ Nam. Vó ngựa chiến rầm rập làm rung chiếc cầu nổi, lao thẳng lên mặt lũy Như Nguyệt. Gặp sức chống cự yếu ớt của quân Việt, Miêu Lý hí hửng hạ lệnh đội tiền quân xông lên phía trước. Hậu binh của Vương Tiến chưa kịp qua sông thì hai mũi Đông Tây giáp công của Thái Úy đã chiếm lấy đầu cầu, khép chặt lối về của quân Tống. Vương Tiến ở bên kia sông hoảng hốt sợ quân Việt dùng cầu tràn sang bờ Bắc vội vã hô quân chặt đứt phù kiều.
    Không mảy may hay biết gì về việc ấy, tướng Miêu Lý theo sự hướng dẫn của Hoàng Kim Mãn vẫn ruổi quân trực tiến. Con đường đến kinh đô nước Việt xa chỉ mấy chục dặm mà sao ngoắt ngoéo lạ thường! các cụm phục binh của Thái Úy như nằm nhan nhản mọi nơi. Lúc xáp gần đánh rát, lúc ở xa tên bắn ràn rạt. Quân của Miêu Lý bắt buộc hết rẽ sang Đông lại ngoặt sang Tây, loay hoay mãi mà chưa ra được con đường thông lộ - Tên độc ngấm vào làm rụng dần đoàn quân nhưng không làm rụng được ý muốn quyết lập công đầu của Miêu Lý. Mãi đến lúc chiều muộn, Hoàng Kim Mãn mới reo lên chỉ vào một khoảng đất thưa nơi ấy có một vệt đường cái lớn chạy qua. Miêu Lý hăm hở kéo quân lần theo con đường lớn.
    Bóng hoàng hôn từ mặt đất xanh xao hiu hắt dâng lên giàn giụa. Những tàu lá khô bên đồi trắng rợn lên một màu áo mới trong đêm. Đoàn quân đang đi bỗng chùng hẳn lại. Mọi người đều sững sờ trước hiện tượng kỳ dị đang bày ra trước mắt họ.
    Trong ánh chập choạng tím sẫm của ngày tàn, họ nhìn thấy một dải mây cong cong lượn lờ sà thấp trên mặt đất như tấm lụa bạch vắt vẻo ngang đường, đang bò dần tới sát chân ngựa. Miêu Lý cho đoàn kỵ binh đạp lên mây mà tiến. Hai đầu lụa gấp quặt vào nhau như muốn trói chặt đoàn quân. Vừa chạm vào làn mây độc, ngựa bị tiện vó ngã lăn kềnh, giãy lên đành đạch. Tiếng ngựa hí thảm thiết lẫn trong tiếng người la hoảng. Hoàng Kim Mãn run cầm cập kéo áo Miêu Lý quay ngựa chạy lui. Bóng tối từ trời cao đổ ập xuống nhanh hơn vó ngựa. Đến một ngã ba, Miêu Lý chợt nghe như có tiếng người quanh quẩn bên tai. Theo ngọn gió Đông thổi nhẹ, một giọng quát uy nghiêm vọng đến, một giọng trầm vang xa tựa hồ tiếng thì thào của rừng núi âm u vào những lúc chiều muộn đêm vơi:
    - “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”
    Miêu Lý vội rẽ ngoặt ngựa sang phía Tây chạy thục mạng. Trong bóng tối dày đặc của đêm cuối năm, thấp thoáng đằng xa một ánh lửa. Đến gần, Miêu Lý thấy trong ngôi miếu cổ ven đồi đèn đóm thắp sáng trưng. Cảnh tượng hãi hùng bên trong làm đoàn quân rợn tóc gáy. Những con quỷ dữ khắp mình lông lá đang nhảy nhót trước thềm trong lửa đuốc chập chờn. Một vị thần mặt đỏ như tuyết chỉ tay vào bọn họ mắng: - … Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm…
    Để trấn an lòng quân, Miêu Lý đánh bạo thúc ngựa tiến tới vung đại đao quát to: - Loài yêu ma phương Nam này sao dám trêu cợt binh sĩ Thiên triều! lời chưa dứt, từ trong miếu một mũi tên bay ra cắm đúng vào cái chóp gù nạm ngọc trên chiếc mũ đầu mâu của Miêu Lý. Viên tướng Tống sợ toát mồ hôi trán quày ngựa tháo lui. Cả đoàn quân nhằm hướng bờ sông chạy rùng rùng trong cơn thần kinh thác loạn.
    Đạo quân lúc đầu đông hàng dăm nghìn người nay còn thưa thớt mấy trăm tên. Nhưng Miêu Lý mừng thầm vì không thấy quân địch đuổi sát. Gã đâu hiểu rằng Thái Úy có dụng ý để cho bọn họ còn sống sót. Đội tàn quân được lệnh vớt phù kiều kết bè để sang sông. Thốt nhiên trong ngôi đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở cửa sông, đèn đuốc bật hồng. Tiếng quát “Nam quốc sơn hà…” của thần lại bay ra vẫn một giọng trầm nghe vang rền như tiếng sấm.
    Miêu Lý vội vã cho quân xuống bè, lóp ngóp trở về bờ Bắc, trong tiếng quát mắng sang sảng đuổi theo sau của thần linh nước Việt.

    Sponsored content


    New Re: Câu Thơ Yên Ngựa

    Bài gửi by Sponsored content


      Hôm nay: Sat Nov 16, 2024 7:02 pm