Câu Thơ Yên Ngựa
Tác giả: Lê Hoàng Yến
Chương 13
Theo lệ thường, Thái Úy dậy sớm hơn mặt trời. Cũng theo lệ thường, gã lính hầu dậy sớm đun nước tắm cho Thái Úy. Và mỗi lần vợi nước vào bồn, gã vẫn lấy làm lạ về tính khí ngược đời của Thái Úy; Vào tiết hè nóng kinh người thì Thái Úy tắm nước nóng, lúc trời đông rét run cầm cập thì ông lại tắm nước lạnh. Gã chỉ biết đoán non đoán già rằng vị tướng sóai của gã làm vậy là để luyện rèn sức bền chịu đựng của ông khi gặp những trường hợp gian nan bất trắc thường xảy ra trong trận mạc. Lúc gã ở buồng tắm bước ra, gã mới nhận thấy hôm nay không chỉ có riêng gã mà mọi người trong nhà đều dậy sớm hơn lệ thường. Gia nhân tấp nập quét dọn từ cổng phủ trở vào. Cả gian khách sảnh như một chiếc bàn được lau chùi bóng loáng không vương một hạt bụi. Từ sớm viên tỳ tướng của Thái Úy trọng vọng đến thế. Khi chiếc cáng xanh dừng lại bên ngoài; ông khách đi bộ qua cổng phủ, gã tò mò chạy ra lén nhìn. Gã thấy viên tỳ tướng đưa vào một vị lão quan râu trắng chùng ngang bụng cùng đám tùy tùng theo sau. Nghe tiếng xì xầm của gia nhân, gã mới biết người ấy là quan Tể Chấp Lý Đạo Thành.
Thái Úy đã ra đợi Lý Đạo Thành ngoài bậc cửa. Hai người vái chào nhau rồi Thái Úy rước khách vào nhà. Chủ khách vái chào nhau, Đạo Thành đã lên tiếng trước:
- Thưa Thái Úy, Thành tôi hôm nay xin để lòng trên bàn tay mà nói chuyện với Thái Úy. Vì Thành tôi nghĩ trong cộng sự phải có được lòng tin.
- Quả chí lý! Còn lòng của Kiệt tôi, tưởng cũng đã bộc bạch hết trong thư riêng gửi cho lão huynh rồi.
- Một phong thư thôi làm sao nói hết được nỗi niềm.Xưa nay lão phu biết Thái Úy không ưa thích gì tính khí của lão phu, còn lão phu lâu nay cũng chưa đồng tình với Thái Úy trong nhiều việc. Mối tị hiềm theo tháng năm cứ dài ra chưa giải tỏ ...
Lời nói thẳng của Đạo Thành khiến Thái Úy thích thú. Ông cất lên một tràng cười dài sảng khoái:
- Lão huynh ơi! Nếu mai đây quân Tống chiếm được Đại Việt thi thiên hạ sẽ hỏi tại sao lũ ta để mất nước chứ có ai hỏi Thường Kiệt thích hay không thích Đạo Thành. Như lão huynh đã biết tiểu đệ bận lo làm việc cái nắm đấm, căng tay quần nhau với địch bên ngoài. Còn phần điều hòa khí lực bên trong, đệ trông nhờ vào lão huynh đấy.
- Thưa Thái Úy, lão phu lâu nay ở Châu Hoan như ếch trong đáy giếng, sự bang giao giữa ta với Tống ra sao, lão phu còn mù mịt.
Đây là câu hỏi đầu tiên của Đạo Thành dò xem mức tin tưởng của Thái Úy đối với ông đến đâu. Thái Úy không ngần ngại cho Đạo Thành biết cặn kẽ mọi việc bên triều Tống và tình thế căng thẳng hiện nay ở Bắc thùy.
- Hiện thời họ đang dồn lương tích thảo ở Ung Châu, ráo riết luyện tập quân sĩ, ra sức chiêu dụ các tù trưởng khê động - Thái Úy nói tiếp - vừa rồi viên kinh lược Quảng Tây Thẩm Khởi đã rủ rê bọn Nùng Thiện Mỹ đem theo 700 bộ thuộc sang hàng Tống.
- Nùng Thiện Mỹ là tên nào, lão phu nghe lạ tai quá.
- Hắn tên thật là Ma Thái Dật, người châu Định Biên ở đất ta. Thánh thượng sắp dâng biểu lên vua Tống xin đòi lại tụi ấy.
- Như vậy là cái bụng nhà Tống đối với ta đã rõ ràng - Đạo Thành nhìn thẳng vào Thái Úy - Còn kế sách phá địch của Thái Úy, lão phu có nghe được chăng?
- Kế sách ba phòng tuyến của tiểu đệ, chắc lão huynh đã rõ. Quân thượng du sẽ dồn vào giữ cửa ải địa đầu. Ải Chi Lăng có đội tượng binh cùng Phò mã Thân Cảnh Phúc với đội thổ binh khá mạnh. Riêng quân Hạ du án ngữ trên vành đai Như Nguyệt.
- Lũy Như Nguyệt chẳng biết đã làm xong chưa?
Đạo Thành hỏi dồn;
Thái Úy ngẫm nghĩ:
- Cũng phải một năm rưỡi nữa mới xong.
Đạo Thành kêu lên:
- Đây là điều lão phu lo ngại ngay từ lúc ở Châu Hoan. Lão phu e rằng thời hạn trên sẽ không đuổi kịp vó ngựa quân thù.
- Xin lão huynh chớ ngại - Thái Úy điềm nhiên nói - Nếu gặp tình thế quá bức bách, Kiệt tôi sẽ xin dẫn quân phá tan thế công của địch đang chuẩn bị từ trước trên các cứ điểm địa đầu. Như vậy, ít ra cũng phải trên một năm nữa binh Tống mới đủ sức phạm vào bờ cõi .
Thái Úy nhìn ra xa, cặp mắt trầm ngâm, giọng hạ khẽ nhưng rành rọt từng lời, như cố diễn giải những điều ông đã nghiền ngẫm từ lâu:
- Lão huynh ạ! Một nước nhỏ muốn phá được thế quân quá mạnh của một nước lớn thì phải biết dùng ít đánh nhiều, dùng chậm thắng nhanh, lấy nhu chế cương, lấy trí khắc dũng. Cầm quân trước hết phải biết rõ nơi quan yếu, hiểu thấu chỗ lợi hại, tiến đánh những nơi giặc không ngờ phải giữ, về thủ những chỗ giặc tưởng như bỏ trống. Đánh địch bằng mọi thứ, bằng cái nhọn của cây vót, cái độc của gió sương, cái nồng nực của nắng hạ, cái lầy lội của mưa đông. Ta phải đánh bằng tất cả khí thiêng của núi sông nước Việt.
Những lời nói của Thái Úy như rót vào tai Đạo Thành với một sức mạnh thuyết phục lạ thường khiến ông bất giác đứng dậy nghiêng mình xá Lý Thường Kiệt:
- Bái phục ! Lão huynh xin bái phục!
Đạo Thành muốn nói nhiều, muốn tạ ơn đất nước anh linh đã sinh ra được một người con kiệt xuất; lòng ông xúc động sâu xa, ông cảm thấy như lâu nay ông có gì không thật công bình đối với người bạn đồng triều này. Và từ chỗ phục đến chỗ mến chỉ trong gang tấc.
Nhưng Thái Úy đã đưa một ngón tay lên, cả tiếng cười to:
- Xin lão huynh nhớ việc đánh giặc chỉ là một vế. Một con người chỉ có một vế thì đi đứng thế nào cho cân phân được. Tiên Đế thường phán:
" Các khanh phải cùng trẫm lo cho dân ba việc: cơm áo, chữ nghĩa, lễ nghi."
Đó là vế thứ hai mà cũng là vế chính. Lão huynh chắc đã hiểu ý tiểu đệ.
- Vâng, lão phu hiểu rằng về công việc này lão phu phải giúp Thái Úy gánh vác một phần lớn nhưng theo ý Thái Úy, lão phu nên làm việc gì trước đây?
Câu hỏi này Thái Úy đang chờ đợi, ông đáp liền:
- Tiểu đệ đã làm ngọn giáo nhọn giết giặc thì lão huynh nên làm chiếc sàng để sàng lọc người tài cho đất nước.
Đạo Thành ngẩng mặt lên:
- Lão phu nghĩ những người chữ nghĩa uyên bác đều nằm trong chốn thiền môn, ta cứ chọn lọc trong hàng tăng quan là được.
Câu chuyện trao đổi giữa hai người sắp đi vào đoạn mấu chốt.
Quy chế tăng quan từ thời Đinh, Lê để lại đã làm Thái Úy nhiều lần vướng tay trong việc tuyển lựa nhân tài. Bất giác ông nhớ lại câu chuyện thú vị giữa ông với một vị lão nho kiến văn quảng bác ở thư xá trong một chiều cuối năm. Hai người đàm đạo say sưa về gốc gác tổ tiên nước Việt.
Dân tộc Việt long đong từ buổi sơ sinh. Cái nôi nằm chưa lúc nào ấm chỗ; Thế mạnh của các nước phía Bắc lấn xuống buộc tổ tiên ta lùi mãi về hướng Nam. Buổi bình minh trong tuổi ấu thơ bằng lặng được bắt đầu từ lúc vua Hùng đặt vũng chân trên miếng đất châu Phong, nơi tụ hội của ba nhánh sông lớn, cửa ngõ nhìn xuống khoảng đồng bằng bao la, đỏ ngầu màu đất phù sa của sông mẹ Nhị Hà. Rồi đến cái đêm mù mịt nghìn năm của thời Bắc thuộc. Mãi đến lúc Ngô vương chĩa ngọn dáo sắc trên sóng Bạch Đằng mới mở ra nền tự chủ đầu tiên cho dân tộc. Bộ mặt phong hóa của dân Việt do hấp thụ đạo Lão, đạo Nho trong thời Bắc thuộc đã thay đổi sắc diện. Tiếp theo đấy là đạo Phật từ xứ Tây Vực ở Tây Bắc Ấn Độ sang. Theo con đường nước Đại Dương, các thuyền buôn Tây Vực chở đạo từ bi của xứ Thiên Trúc ghé lại Giao Châu, trước khi vào đất Trung Nguyên. Vì vậy, trong lúc nước Tề ở Giang Đông chưa biết mặt Phật thì tại Luy Lâu, kinh đô Giao Chỉ đã xây hơn hai mươi ngôi chùa, chọn hơn năm trăm vị tăng, tụng mười lăm quyển kinh. Nhà sư Khang Tăng Hội, người Tây Vực, theo cha buôn bán đã học đạo Phật ở đất Giao sang nước Ngô, giảng đạo cho Ngô Tôn Quyền trong thời Tam Quốc.
So với đạo Lão và đạo Nho thì đạo Phật đi sau mà đến trước. dần dần nó chiếm ưu thế và đứng đầu trong tam giáo. Các vua ta phần lớn xuất thân là những bậc võ hiền, học hành ít. Người biết chữ trong nước chưa đông. Chỉ có tăng đồ là có đủ thì giờ rỗi rãi, đủ phương tiện sinh sống để đọc nhiều hiểu rộng. Họ thường được các vua vời vào cung để bàn việc nước. Sư Khuông Việt giúp Đinh Tiên Hoàng, sư Pháp Thuận giúp Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh giúp Lý Thái Tổ, Tăng đạo cũng có phẩm hàm chức phận như bên võ triều đình nên gọi là tăng quan. Thời ấy, được làm sư không chỉ là một vinh hạnh. Đời sống của họ được bổng lộc của dân chúng cung phụng và vua ban. Ruộng chùa có điền nô cày. Tên họ được rút ra khỏi sổ bạ. Không phải làm xâu bắt lính. Địa vị của tăng già được cả nước coi trọng.
Đời Lý là đời đạo Phật toàn thịnh. Các bậc cao tăng ảnh hưởng không ít đến chính sự các triều vua. Những giáo dụ từ bi của đức Phật đã làm rụng dần lông lá nguyên thủy trên gương mặt tinh thần của dân tộc. Nó đã đổi dần cái triều đình võ biền mộc mạc của các đời Đinh, Lê đóng ở nơi đầu ngàn cuối sóng ra một triều đình có quy mô, có kỷ cương lễ tiết ở giữa, bình nguyên. Những cực hình thường dùng ở thời trước như cột đồng đốt nóng, vạc dầu đun sôi, chuồng hổ báo, cũi ngâm sông được bãi bỏ. Trước kia, có bao giờ thấy một vị vua tha chết cho kẻ thù, dù kẻ thù đó là anh em ruột thịt? vậy mà Lý Thái Tông đã xá tội cho viên tướng phản tặc Nùng Trí Cao, Lý Thánh Tông tha chết cho vua Chiêm là Chế Củ. Tuy mối từ tâm ấy đã khiến vua Chiêm dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh ở phía Nam dãy Hoành Sơn, đẩy ra xa tầm tay quấy nhiễu của giặc Chiêm,, mở đầu cuộc Nam tiến cho các đời vua sau, nhưng phải nhận thấy ở đây, đức độ khoan dung của tấm lòng từ bi đã thấm sâu vào vị vua nổi tiếng nhân từ nhất trong lịch sử dân tộc.
Vua tự coi như cha, triều thần là đứa con gần,chúng dân là đứa con xa, dân miền Thượng là bà con họ hàng, kẻ tội phạm là đứa con hư hỏng. Vì vậy, mới có việc vua Thánh Tông bảo đem chăn, gạo cấp phát cho tù nhân.
Lòng thương dân ấy được biểu hiện qua chữ "khoan" đứng đầu trong phương lược trị nước của vua Lý. sau đến chữ "giản" nhằm giảm bớt mọi sự đóng góp phiền hà cho dân. Khoan, giản là hai chữ vàng chói lọi được viết trên bức hoành phi treo trên đầu các vị vua thời Lý. Nó làm cho đời Lý trở thành đời thuần từ nhất trong sử nước nhà.
Không phải Thái Úy chưa thấy rõ hết được tác dụng to lớn của đạo Phật, hay vì mức độ sùng tín đạo Phật trong ông còn kém Đạo Thành. Ông chỉ nhận thấy rằng theo quy chế cũ, cửa Phật đã trở thành cửa ải khống chế việc chọn nhân tài cho đất nước. Dù kẻ nào thông minh sáng láng đến đâu mà không ở nhà Tăng, cửa Phật ra thì khó lòng được chiềng mặt lộ đầu ở chốn triều quan. Quy chế tăng quan tạo ra một lớp đất cừng không để cho một mầm non nhân tài nào mọc nổi. Chuyện này, trước đây Thái Úy đã nhiều lần đề đạt với Đạo Thành lúc ông ta còn ở ngôi Tể Chấp, nhưng lúc ấy Đạo Thành đã phũ phàng gạt phắt. Liệu bây giờ ông có bớt được chút cứng nhắc nào chăng? Để làm dịu bớt không khí gay gắt có thể bùng ra trong cuộc tranh biện, Thái Úy lựa lời dè dặt nói:
- Thưa lão huynh, Kiệt tôi trộm nghĩ, hiện nay trong nước ta đã có nhiều người để tâm đến sách vở, có chí ở học vấn. Nhiều thầy đồ nho đã về các hương trấn mở trường dạy học. Số người biết chữ khá đông. Nhiều bậc kinh sử làu thông, văn hay chữ tốt lại không xuất thân từ cửa Thiền. Chẳng hay lão huynh có cách nào tuyển chọn họ chăng?
Trái với dự đoán của Thái Úy, nét mặt của Đạo Thành vẫn giữ vẻ trầm tĩnh, ôn hòa. Ông như đang cố lục soát những ý nghĩ trong đầu và sắp xếp lại cho có mạch lạc. Chẳng hiểu do lòng cảm phục đối với Thái Úy vừa mới nhóm lên trong lòng ông hay vì ông đã suy nghĩ kỹ lời đề bạt từ trước của Thái Úy, ông đáp như một lời giãi bày tâm sự:
- Thưa Thái Úy, thú thật trong lúc ở châu Hoan, lão phu mới có thì giờ suy gẫm lại những lời trước kia của Thái Úy. Quả lúc ấy lão phu có phần vội vã. Muốn tuyển chọn được công minh, khỏi phao phí tài năng của đất nước, lão phu nghĩ chỉ có cách mở khoa thi ...
- Ôi! Lời lão huynh thật hợp với ước nguyện của tiểu đệ.
Thái Úy kêu lên, nét mừng hiện rõ trên mặt
- Và việc này chỉ có người đủ tài đức như lão huynh mới đáng nổi.
- Lão phu còn nghĩ ngoài khoa thi phải mở thêm những cuộc sát hạch tuyển những kẻ chuyên về viết chữ tốt, làm toán giỏi bổ vào thư xá và hộ Bộ. Có một điều Thái Úy thường quan tâm đến bây giờ lão phu mới thất tâm đắc - Ông ngừng giây lâu như nhớ lại cái nắng ấm tháng Ba của năm Nhâm Thìn, ngày đức Thái Tông treo chiếc chuông lớn trước thềm rồng để dân chúng ai có oan ức gì không bày tỏ được thì đến đánh chuông tâu lên Thánh Thượng - Lão phu thấy các quan giữ việc hình ở phủ Độ hộ xử kiện còn hà khắc, câu nệ luật văn, thậm chí có người bị oan uổng. Phàm thân oan có chuông, việc hình có luật. Nên cần phải chọn thêm những người thông hình luật bổ dụng vào bộ Hình. Có thế mới tu bổ được nội trị.
Mỗi lời nói của Đạo Thành làm Thái Úy nở nang từng khúc ruột. Hai tiếng nói, hai tâm tư, hai vòm trời tư tưởng bỗng như xích lại gần nhau.
Không biết đến từ lúc nào, Thái Hậu Ỷ Lan đang lặng lẽ bước lên thềm. Có lẽ bà đã ra lệnh cho thị nữ và gia nhân Thái Úy không được tâu báo gì làm kinh động đến cuộc đàm luận giữa hai người. bản tính vốn tinh nghịch và không hay câu chấp lễ nghi, Ỷ Lan đi thẳng vào khách sảnh. Chợt trông thấy Thái hậu, Đạo Thành bối rối đứng lên thi lễ. Dường như có dự kiến từ trước, Thái Úy bình tĩnh vái chào:
- Thái Hậu đến thật là đúng lúc.
Thái Hậu tươi cười:
- Ta lại e rằng chưa đúng lúc. Ta thấy hai lão khanh, câu chuyện đang say sưa.
- Dạ, quả có thế. lão phu đang mê mải nghe kế sách phá địch tài tình của Thái Úy - Đạo Thành lúng túng đáp.
- Điều ấy ta đã tường. Duy phương sách trị nước của Tể Chấp, ta chưa được biết. Chẳng hiểu, nhân đây Tể Chấp có vui lòng cho Ỷ Lan tôi nghe qua chăng?
Đạo Thành liếc mắt thấy nụ cười tủm tỉm khích lệ của Thái Úy, vòng tay tâu:
- Linh Hậu đã hỏi, Thành tôi xin nói thẳng có gì khiếm khuyết xin được chỉ giáo. Nhớ các Tiên Đế xưa thường dạy, trị đạo phải coi việc nuôi dân đủ ăn làm kíp, chính sự phải lấy phong hiến làm đầu. Trong nước muốn cho của lắm vật nhiều, phải khuyến khích người cày làm hết cái lợi của đất, biểu dương người công nghệ trổ hết cái tinh của nghề, trong triều cấm mọi kiêu sa hoang phí, ngoài dân giảm bớt mọi phiền nhiễu. Rồi lấy thi thư mà biến đổi tục nước, lấy lễ nhạc, để sửa lòng người, gây dựng nên thuần phong mỹ tục - Ông hướng về phía Thái Úy - Nay Thái Úy sắp ra đi ngồi trên yên ngựa. Thành tôi ở nhà xin hứa lấy lòng ngay mà đứng trước cán cân để điều hòa nặng nhẹ, cất nhắc người có tài, bồi đắp kẻ có chí, khơi dòng nước dẫn về được cái khôn của muôn dân, mở khoa thi chọn ra được cái chí của kẻ sĩ, làm cho mọi người biết trọng người hiền, quý người tài, bao dung với kẻ dưới, trung trực với người trên. Trong triều ngoài nội, phải lấy nhân để cố kết, lấy uy để sửa trị, lấy trí để trông coi, lấy tin để ngăn phòng, thưa Linh Hậu, đó là cái phép làm dân yên nước thịnh.
Đạo Thành nói liền một mạch. Sự khôn ngoan già dặn tích tụ qua 18 năm làm tể tướng của ông làm Ỷ Lan bội phục. Bà đưa mắt hết nhìn Thái Úy lại đến Đạo Thành tấm tắc:
- Thì ra, đến nay Ỷ Lan tôi mới biết có Thái Úy Thường Kiệt, không thể không có Tể Chấp Lý Đạo Thành!
Như sực nghĩ ra, Đạo Thành quỳ xuống:
- Thưa Linh Hậu, trước đây lão phu cùng Dương Hậu phạm lỗi ...
Ỷ lan vội ngắt lời:
- Theo lời thỉnh cầu của Thái Úy đây, ta đã xóa tội cho Thượng Dương rồi ...
Thái Úy cười nụ, nhìn Đạo Thành ý tứ:
- Tiểu đệ nghĩ việc tha Thượng Dương đối với lão huynh lại là một gánh nặng đấy.
Sự khoan hồng bất ngờ của Linh hậu và Thái Úy đối với Thượng Dương rõ ràng làm Đạo Thành xúc động mạnh. Ông ấp úng:
- Lượng rộng mênh mông của Linh Hậu và Thái Úy đã soi sáng đến nơi tăm tối.
Nói xong, ông vội lui ra. lát sau ông dẫn Lý Ngân vào. Ông hướng về Thái Úy nói:
- Đa tạ Thái Úy đã tin ở Thành tôi. nay xin đem lòng tin đáp lại lòng tin. Đây, Lý Ngân, đứa nghịch đồ trước đây đã mưu sát Thái Úy. Thành tôi xin đem nộp Thái Úy, sống chết tùy Thái Úy định đoạt.
Sự có mặt của Lý Ngân dấy lên trong Thái Úy một tình cảm trái ngược vừa giận lại vừa thương. Ông bước lại gần:
- Lý Ngân, nghe ta hỏi, tại sao ngươi muốn hại ta?
Lý Ngân ngẩng đầu nhìn chầm chập vào Thái Úy đáp:
- Vì ông đã hại cha tôi!
- Ta mà đi hại Lý Quán ư?
Trên gương mặt chính trực của Thái Úy thoáng qua một chút kinh ngạc nhưng trong mắt ông Lý Ngân đọc thấy một niềm thương hại xót xa như đối với một đứa trẻ thơ lầm lạc
- Ôi! Vầng trán ngươi thanh khiết, đôi mắt ngươi trong trẻo thế kia, vậy mà kẻ nào nỡ lòng xui đầu óc ngươi tăm tối?
Lúc này, tình cảm Lý Ngân cũng mơ hồ như đầu óc chàng. Chàng chưa thấy ân hận vì sự cả tin mù quáng của mình, cũng chưa hề biết căm ghét một cách chính đáng con người hiểm độc đem thí chàng như một quân cờ cho sự vị kỷ của họ. Chàng thản nhiên đáp:
- Cha tôi xưa là một vị tướng giỏi nên vì đố kỵ ghen tài, ông đã ám hại cha tôi.
Thái Hậu Linh Nhân đập bàn quát:
- Ô hay! Sao thằng bé này ăn nói như một kẻ mất trí? Ai ám hại cha ngươi? Chính Lý Quán, cha ngươi đòi đem hậu quân chặn giặc Chiên để tranh thế với Thái Úy nên làm giấy cam đoan trước mặt rồng. Sau để giặc thóat vào Nam mới xấu hổ rút gươm tự sát. Bức thư Tiên Đế, ta còn giữ đó, sao ngươi lại mơ hồ làm vậy?
Lâu nay Đạo Thành cứ ngỡ cháu mình vì một chuyện riêng tư nào với Thái Úy và trong một cơn bực tức không nén được đã làm một điều thiếu suy xét. Nay hiểu ra nguyên nhân, ông sững sờ lắc đầu:
- Lý Ngân, trong chuyện này cháu đã nghe lầm rồi!
- Không lầm đâu, bá phụ ơi! Chính cháu đã đọc được bức thư của cha cháu gửi về.
- Bức thư nào? Ai giữ? Ta đây là anh ruột của cha cháu mà lại không biết có bức thư ấy ư?
Sự hận thù ngay từ lúc đầu đã đốt bỏng Lý Ngân như vệt chu sa xăm đỏ trên ngực, khiến chàng bấy lâu không kịp suy đi xét lại. Nay bỗng dưng trong đầu óc chàng, mọi sự việc đã qua, trở về rõ nét: chiếc kiệu son mời Thái Úy, bàn hương án nghi ngút khói hương, bức thư đốt, lời thề, mũi tên ... Một thứ ánh sáng khắc nghiệt bắt đầu len qua các khe hở, rọi vào từng chi tiết của mối tử thù, phanh phui trước mắt chàng đó đây một vài vết rạn hồ nghi. Chàng mơ hồ nghe thấy tiếng Thái Úy hỏi chàng:
-" Thế bây giờ ý ngươi muốn gì? "
Chàng mệt mỏi buông xuôi.
- Bây giờ tôi chỉ muốn chết!
- Vậy mà ta muốn ngươi sống, sống liền ở cạnh ta. Ta sẽ giữ ngươi làm hiệu úy bên người ta như giữ một lưỡi gươm giám thị bên mình - Thái Úy với tay lấy lưỡi gươm treo trên án thư xuống trao cho Lý Ngân
- Nếu ngươi thấy ta là người như ngươi nghĩ thì ta cho phép ngươi dùng lưỡi gươm này mà trừng trị ta. còn nếu ngươi thấy sai thì ta tin rằng tuổi thanh xuân trong trắng của ngươi sẽ giúp ngươi tự xử lấy.
Thì ra con người độc bụng hiểm lòng như dì Thượng Dương đã nói là thế này ư? Và nếu chuyện khoan dung này chỉ là cái vỏ ngoài thì sự hiểm độc của con người còn sâu xa khôn lường ... Tiếng Đạo Thành giục bên tai cắt đứt luồng suy nghĩ trong đầu chàng:
- Kìa! Thái Úy đã mở lượng cháu còn đợi gì không quỳ xuống cúi đầu tạ tội Người đi!
Lý Ngân ngoan ngoãn vội vàng quỳ xuống.