Thân mời các Huynh Đệ Tỷ Muội cùng về thăm vùng Tha La Xóm Đạo...
Tha La là một địa danh thuộc ấp An Hội, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh...
Trong thơ văn và âm nhạc Việt Nam có vùng địa danh mà tên nghe dễ thương và lại có nét tôn giáo là 4 chữ trong bản nhạc "Tha La Xóm Đạo" của nhạc sĩ Dzũng Chinh. Phải nói là nhiều người đã nghe qua địa danh này, nhưng chi tiết tại sao có tên lạ tai như vậy, mà họ có thể không biết nhiều về Tha La.
Tên Tha La phát nguyên do chữ của người Thủy Chân Lạp hay Khmer là “Schla", được người Việt đọc trại thành "Tha La", nó là vùng đất xưa nơi người Chân Lạp định cư, trước khi sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam. Vì là tên của người Khmer nên nó có âm thanh lạ tai của ngoại ngữ khi chúng ta dùng mà không mang nghĩa Việt ngữ nào hết. Nhưng nếu phải dịch từ ngữ "Schla" thí nó có nghĩa là trạm, trại, nhà lồng, nhà mát. Vùng Tha La ngày xưa là rừng rậm hoang vu, đã được quan quân và con dân chúa Nguyễn đến khai phá và định cư từ hơn 200 năm trước. Đất Tây Ninh cũng có nhiều chỗ cùng mang tên Tha La.
Tại nhiều tỉnh khác như Châu Đốc, Trà Vinh, có đồng bào Khmer ở, cũng có nhiều địa danh Tha La nhưng nó không nổi tiếng như Tha La Xóm Đạo của Trảng Bàng để rồi địa danh này được đưa luôn vào văn học và âm nhạc Việt Nam. Tha La theo dấu chân của Trảng Bàng khi thì vì Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh, nên có dạo thời Pháp thuộc nó bị sáp nhập vào Gia Định, rồi lại được tách riêng theo Tây Ninh thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, rồi Trảng Bàng lại bị chia cắt vào đất tỉnh mới là Hậu Nghĩa thời đệ nhị Cộng Hòa, rồi chính quyền cọng sản lại sát nhập Tha La và Trảng Bàng vào tỉnh Tây Ninh.
Tha La được nhiều người biết đến. Tha La không có cảnh đẹp nên thơ, Tha La cũng không có lâu đài cổ kính, nhưng Tha La có cây ngọt trái lành, và nhiều người Tây Ninh hay Gò Dầu, Trảng Bàng cứ xem Tha La thuộc địa phận Tây Ninh vì sự gắn bó lịch sử từ nguyên thủy....
Tại sao là "Tha La Xóm Đạo ?
Dưới triều vua Minh Mạng (1820-1840), vì nghi ngờ người Công Giáo liên kết với ông Lê Văn Khôi, khởi nghĩa chống triều đình Huế, nên vua ra sắc chỉ cấm đạo rất gắt ao. Trong hoàn cảnh ấy, ông Côximô Nguyễn Hữu Trí đã đưa gia đình từ Huế vào miền Nam sinh sống và lánh nạn. Ông và gia đình đã đến Bà Trà, Thủ Dầu Một, đến Suối Đá, Tây Ninh và cuối cùng đã dừng chân tại Tha La này năm 1837.
Theo truyền khẩu: Tha La là nơi nghỉ mát của dân tộc Khmer, cũng là một nơi hoang vắng, sình lầy. Tại Tha La, ông Trí đã quy tụ được một số gia đình để khai phá đất hoang cũng như tổ chức các buổi đọc kinh gia đình. Đến năm 1840, ông Trí mới mời được linh mục đến giúp khi các ngài có dịp đi ngang. Từ đây, Tha La đã thật sự thành hình, đó là nhờ công đức của các vị tiền bối, nhất là ông Côximô Trí (mộ của ông vẫn còn ở trước núi Đức Mẹ Nhà thờ Tha La).
Thân mời các Huynh Đệ Tỷ Muội cùng về thăm vùng Tha La Xóm Đạo...
Đường về Tha La...
Đường đi đến Tha La không khó mà thật dễ đi. Ta đi từ Sài Gòn theo hướng tây bắc lấy Quốc Lộ 22 mà chạy thẳng về Gò Dầu, về Tây Ninh. Con đuờng này đưa ta về Trảng Bàng nơi có địa danh Tha La Xóm Đạo. Đoạn đường từ Sài Gòn đến Trảng Bàng hơn 50 cây số, từ Trảng Bàng mon men về hướng tây thêm 6 cây số thì chúng ta vào đất Tha La, nơi có xóm đạo hiền hòa, nơi có nhiều trái ngọt cây lành. .
Tây Ninh có nhiều vùng đất mang tên của thảo mộc, cây cối như Trãng Bàng, Trãng Dài, Trảng Sụp, Trãng Lớn, Gò Dầu Thượng, Gò Dầu Hạ, Gò Chai, Giồng Riềng, Giồng Ổi v.v... Nói lên ý nghĩa của cây cối, của vị thế đất, chỗ cao, chỗ thấp, chổ trũng. Tha La tuy nhỏ về diện tích, nhưng cũng mang ít nhiều đặc tính đó. Toàn không gian hay khunh cảnh là một bức tranh thật linh động, đẹp đẽ và mát rượi tâm hồn, mát vô cùng tận của những vùng đất thiên nhiên phì nhiêu, nào là đất gò nhô lên, đất đỏ, dất sét, đất trắng, đất ruộng hay đất vườn. Tùy theo vị thế đất, người dân ở đây trồng đủ các thứ rau quả, cây trái như một nét tham lam của thiên nhiên. Bước vào đầu ngỏ ta thấy nhiều nhất là tre, trúc và tầm vong. Với thân thon, cành dịu, lá mỏng dài nằm dọc hai bên đường, ngọn giao chụm vào nhau thành một cái vòm như cái hang mát rượi, chạy dài cả cây số. Đi trong bóng râm xanh um ấy, gió thổi hiu hiu làm lao xao kẻo kẹt cành cây hay đánh rơi những chiếc lá vàng khô, tung tăng theo những giọt nắng mang màu huyền ảo....
Thân mời các Huynh Đệ Tỷ Muội cùng về thăm vùng Tha La Xóm Đạo...
Tha La Xóm Đạo ...
Tha La là một địa danh đẹp về thắng cảnh thiên nhiên và đẹp vì tình người .. Thật vậy, tên Tha La chỉ cho ta ý nghĩa tượng hình ra một họ đạo tại đất Tha La này. Chính vì mật độ dân cư không nhiều chỉ vào khoảng 3,000 người trước năm 1975, người ta không tìm thấy Tha La trong bản đồ địa lý hay hành chánh. Đây là xóm đạo õê Xã An Hoà - TaÒy Ninh, được tổ chức khá ngăn nắp và qui củ, nhà cửa khang trang, quây quần chung quanh ngôi thánh đường. Trải qua bao thăng trầm của chiến tranh tàn phá, nhà thờ đã được trùng tu lại. Cho tới năm 1967 thì việc sửa sang được hoàn tất. Chánh toà nằm giữa với tường gạch bao quanh, với sân rộng lót đá, với trường học và nhiều cơ sở phụ thuộc. Ngôi Chánh toà đồ sộ có phần nguy nga, hai mái ngói xoải dài xuống thấp có sức chứa chừng 400 người ngoan đạo trong các buổi hành lễ. Tượng Đức Mẹ trước mặt, và có một hang đá khổng lồ nằm bên hông, tháp chuông không cao nhưng có kiến trúc lạ mắt như cái lồng chim. Toàn bộ khu nhà thờ, nhìn chung, với lối kiến trúc đơn giản, không mang nặng nét cổ điển của Tây phương, nhưng lại được bao bọc xung quanh bằng những tàn cây cổ thụ cao to cho bóng mát, mang vẻ u hoài, thanh tịnh như một ngôi chuà cổ của một miền quê.
Xã An Hòa, thuộc huyện Trãng Bàng, có 8 ấp, dân số 12,000, nhìn trên bản đồ thấy hình dạng bầu dục, nằm dọc theo rạch Trãng Bàng mà đầu nhọn là ấp An Thới vươn ra tận Vàm Trãng bên bờ sông Vàm Cỏ Đông. Đây là vùng đất phì nhiêu, trù phú do phù sa sông bồi nên có lẽ từ lâu lắm rồi.. Ngoài đồng ruộng, nương rẩy ra, khung cảnh còn thấy có những lò gạch nung đất sét, rồi trại mộc trại cưa, hay những nhà máy xay lúa. Ngành thủ công thịnh hành nhất là nghề đan lát các sản phẩm gia dụng bằng tre, trúc hay nứa..
Ấp An Phú được xem là giàu có là nơi có chợ chính của xã, quán xá sung túc, nơi tọa lạc trụ sở xã và có trường trung học địa phương công lập. Trong xã có 3 ngôi chùa, và ngôi chùa cổ hay lâu đời nhất là chùa tại ấp An Phú. Phần lớn dân trong những xã này nói chung theo đạo Phật hay đạo gia tiên thờ cúng ông bà. Nhưng nổi tiếng và gây ảnh hưởng nhiều nhất vẫn là Xóm Đạo Tha La mà chúng ta đang bàn.
Xóm đạo nằm trong địa phận hai ấp An Hội 1 và An Hội 2. Hơn ba ngàn giáo dân ở đây là người cố cựu đã định cư lâu đời, chỉ có 4 gia đình người thuộc gốc Bắc di cư 54. Như một tập tục từ lâu, ngày lễ Giáng Sinh cũng như các ngày lễ Thánh lớn, đều là ngày hội chung của đồng bào trong xã. Vào đêm Giáng sinh thì cả mấy ngàn người kéo nhau đi dạo mừng lễ đông đảo, nườm nượp ngoài đường. Thật đông người khiến xe cộ đi qua không lọt, và chỉ toàn người đi bộ hành. Do vậy nhiều khi không phải chỉ dân trong xã không mà thôi, nhưng lại có có nhiều người ngoại đạo từ chợ Trãng Bàng, chợ Gò Dầu và các xã chung quanh về đây xem lễ. Quả là ngày lễ hội vui chung của dân toàn vùng Hiếu Thiện (Gò Dầu - Trãng Bàng) kéo nhau tập trung về đây....
Thân mời các Huynh Đệ Tỷ Muội cùng về thăm vùng Tha La Xóm Đạo...
Tha La Xóm Đạo ...
Theo sách Tây Ninh Xưa và Nay của tác giả Huỳnh Minh, xuất bản năm 1972 và tái ấn bản tại Úc năm 1992 thì vào cuối thời Minh Mạng, khoảng 1840, có một nhóm giáo dân độ vài chục gia đình được cha Cosimo Trí dìu dắt, chạy nạn tới khu rừng Tha La, khai quang lập ấp xây dựng cuộc sống, đồng thời cố gắng bảo tồn gốc đạo và niềm tin. Để tránh sự theo dõi và phát giác của viên chức triều Nguyễn đang ở thời kỳ e ngại đạo ngoại lai khiến bị theo dõi, những buổi lễ thường phải lưu động. Một tàn cây cổ thụ, một mái lá đơn sơ, hoặc túp liều tranh ủ dột cũng mang đủ ý nghĩa và mang tính chất của cái nhà thờ. Nhiều lúc phải làm lễ ban đêm. Khắp vùng xã An Hoà xưa hầu như đều có dấu chân của con Chúa. Cha chủ chiên Cosimo Trí đã thấp một ngọn nến giữa rừng âm u, vừa khai hoang lập ấp vừa ẩn náu, vừa mưu sinh, vừa khai sáng nguồn suối tâm linh tươi mát cho các con chiên, để nó trôi chảy cho đến ngày hôm nay. Nếu triều đình có lệ phong thần cho những vị có công khai làng mở mang bờ cõi thì chính cha Trí cũng là vị rất xứng đáng được phong Thánh Hoàng bổn cảnh của dân chúng An Hoà. .
Sau năm 1863, khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Nam Nam kỳ thì hoàn cảnh thuận tiện hơn. Việc truyền đạo Chúa được nhà cầm quyền Pháp khuyến khích và giúp đỡ. Giáo dân gom tụ lại Tha La đông hơn và họ đạo Tha La được chính thức thành lập, trực thuộc Toà Thánh La Mã. Nhà thờ có nơi cố định, đầu tiên được xây cất, với vật liệu đơn sơ. Từ điểm nầy, các vị cha tiếp nối đi đến các địa phương khác để truyền đạo và lập thêm xứ đạo mới. Ngày nay ở Tây Ninh, đạo Công Giáo vẫn phát triển song hành với các tôn giáo khác. Đi đâu cũng thấy nhà thờ, ngay cả vùng thánh địa Cao Đài cũng có.
Vì nhờ sự cho phép của người Pháp họ đạo Tha La phát triển ngày càng mạnh mẽ và vững vàng. Vào đầu thế kỷ 20 nhà thờ được xây cất qui mô hơn. Tuy vậy người Công Giáo Tha La không quay lưng lại với dân tộc. Chúng ta không đủ tài liệu để biết Tha La có tham gia phong trào Cần Vương và Văn Thân chống Pháp hay không, nhưng chắc chắn vào mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La, nhất là thành phần trí thức đã tích cực tham gia phong trào kháng chiến ở đất Nam Kỳ. Và chính thời điểm nầy, nhà thơ Vũ Anh Khanh cũng gia nhập đi theo phong trào kháng chiến, ông đã làm bài thơ để đời, trong đó có những câu cho thấy rằng người Tha La đã đặt tình yêu quê hương tổ quốc lên trên hết:,,.
"Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng Ngày hiu quạnh. ờ...Ơ...Hơ... Tiếng hát, Buồn như gió lượn, lạnh dài đôi khúc nhạc. Tiếng hát rằng: Tha La hận quốc thù, Tha La buồn tiếng kiếm. Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh..."
Bây giờ chúng ta cùng đọc những bài thơ...về "Tha La Xóm Đạo"... nha.....
Tha La trở thành địa danh nổi tiếng trong cả nước nhờ vào những bài thơ.... Tha La Xóm Đạo ...Hận Tha La Vĩnh Biêt Tha La....của Vũ Anh Khanh. ...
Tha La qua Thơ Văn
Như đã trích đoạn thơ ở phần trên, bài thơ "Tha La" của tác giả Vũ Anh Khanh, dài 93 câu, được in trong phần mở đầu của cuốn truyện dài có tên " Nửa Bồ Xương Khô", dày hơn 500 trang cũng của chính ông, ghi lại một số hình ảnh hào hùng khi tác giả đi kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Có lẽ nói không ngoa trong văn học khi nói về đất Tha La, ta không thể bỏ quên bài thơ lịch sử của người Tha La Vũ Anh Khanh. Hồn thơ của anh ấp ủ những tình tự về Tha La, những nỗi lòng của Tha La và những dòng văn chương do chính người Tha La ghi tạc vào bia đá vă n học Việt Nam. Nào, ta hãy lắng nghe tâm tình của Vũ Anh Khanh:
Bây giờ chúng ta cùng đọc những bài thơ...về "Tha La Xóm Đạo"... nha.....
Vũ Anh Khanh Và Bài Thơ Hận Tha La.
Vũ Anh Khanh có tên là Võ Anh Khanh nhưng cũng có người nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 quê quán ở Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Ông sống ở Sài Gòn, có thơ-văn đăng trên các trang báo từ những năm cuối thập niên 1940. Nước Việt trong giai đoạn này, bị xáo trộn bởi các ảnh hưởng chính trị, thời thế quốc tế và từ các vận động của các tổ chức-đoàn thể trong các địa phương. Giai đoạn này cũng là sự thức tỉnh tự thân của giới thanh niên-trí thức trẻ (trong đó có các văn nghệ sĩ), đưa đến cuộc đấu tranh chống Pháp năm 1945. Người ra chiến khu, vô bưng hoặc về lại thành phố trong tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và được một làn sương lãng mạn-thi vị nhưng hào hùng phủ lên. Người yêu nước, khởi đầu gia nhập hàng ngũ kháng chiến chỉ một ý nghĩ là giặc Pháp tiếp tục muốn đặt lại ách thống trị thì phải chống chứ chẳng hề vì lý tưởng đại đồng, cộng sản gì và Vũ Anh Khanh là một người trong số họ. Là một chiến sĩ, đi qua nhiều vùng đất nước, mắt ông đã thấy nhiều cảnh chết chóc, nhà cháy, tang thương của xóm làng sau một trận chiến. Và, không biết trong một lần nào đó, ông đã có dịp dừng chân tại Tha La rồi khung cảnh của một xóm đạo thời ly loạn... đã gây một xúc động ghê gớm nơi ông, khiến ông sáng tác ra bài thơ Hận Tha La.
Bài thơ Hận Tha La là một bài thơ dài kiểu hợp thể. Đoạn mở đầu là Ngũ Ngôn rồi chuyển sang Tám Chữ, sau đó thành Kịch Thơ (đoạn giữa) và kết thúc bằng hai câu Thất Ngôn. Một bài thơ hay, có hồi có cảnh. Tiết tấu thay đổi với khung cảnh và khung cảnh thay đổi với các nhân vật trong bài thơ.
Xin mời các bạn cùng đọc bài thơ Hận Tha La nầy nha!
Hận Tha La
Đây Tha La xóm đạo Có trái ngọt cây lành Tôi về thăm một dạo Giữa mùa nắng vàng hanh.
- Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi, Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng. Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng, Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá, Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ. Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ! Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ? Ai đưa đón?
- Xin thưa, tôi lạc bước! Không là duyên, không là bèo kiếp trước, Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu, Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ, Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió, Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng. Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng.
Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng! - Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn, Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít. Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La! Bao người đi thề chẳng trở lại nhà. Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán, Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa, Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa, Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh. Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh.
- Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La! Đây mênh mông xóm đạo với rừng già. Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách. Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch, Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng.
- Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng? Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng, Nhẹ bảo chàng: " Em chẳng biết gì ư? Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù! Người nước Việt ra đi vì nước Việt. Tha La vắng vì Tha La đã biết, Thương giống nòi đau đất nước lầm than. "
Trời xa xanh, mây trắng ngoẹn ngàn hàng, Ngày hiu quạnh. Ờ.. ơ.. hơ tiếng hát. Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng: Tha La giận mùa thu, Tha La hận quốc thù, Tha La hờn quốc biến, Tha La buồn tiếng kiếm, Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh.
Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành. Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy. Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
Lạy Đức Thánh Cha! Lạy Đức Thánh Mẹ! Lạy Đức Thánh Thần! Chúng con xin về cõi tục để làm dân... Rồi... cởi trả áo tu. Rồi... xếp kinh cầu nguyện. Rồi... nhẹ bước trở về trần...
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi! Người hãy dừng chân. Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé! Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ. Trời Tha La vần vũ đám mây tan. Vui gì đâu mà tâm sự? Buồn làm chi mà bẽ bàng?
Ơ... ơ... hơ... ờ... ơ... hơ... tiếng hát Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc. Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi! Tha La thương người viễn khách đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ, Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay... Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé! Hãy về thăm xóm đạo Có trái ngọt cây lành. Tha La dâng ngàn hoa gạo, Và suối mát rừng xanh.
Bài thơ Hận Tha La đã được nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ nhạc lấy tên là Tha La Xóm Đạo ( 1964 ), phổ biến rộng rãi ra công chúng qua giọng hát cuả ca sĩ Hoàng Oanh . Nhạc sĩ Sơn Thảo’ S phổ thành bài hát Hận Tha La ( 1956 ) . Nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành bài Vĩnh biệt Tha La ( 1965 )
Bây giờ chúng ta cùng xem qua tiểu sử của cố thi sĩ Vũ Anh Khanh.. nha...
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông gồm truyện dài như ....Nửa Bồ Xương Khô, Bạc Xíu Lìn, Cây Ná Trắc và truyện ngắn như Ngũ Tử Tư, Đầm Ô Rô, Sông Máu, Bên Kia Sông, Một Đêm Trăng...v..v,, Các tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp ở Nam Bộ. Tuy vậy, hầu như nhiều người chỉ biết chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Hận Tha La.
Năm 1954, Hiệp Định Geneva về ngưng chiến được thực hiện, chia cắt nước Việt Nam làm hai, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Người dân miền Bắc (khoảng gần 1 triệu người) ồ ạt di cư vô miền Nam thì đổi lại cán bộ-chiến sĩ thuộc phe cộng sản ở trong miền Nam được chuyển ra miền Bắc (gọi tên chung là tập kết). Có 3 khu vực tập kết là Hàm Tân-Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười, Cà Mau và không biết Vũ Anh Khanh tập kết tại địa điểm nào kể trên. Ông ra Bắc rồi đi dự Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu (HNCNVAC) tại New Dehli (Tân Đề Li-Ấn Độ) tháng 12 năm 1956. Tham dự hội nghị là phái đoàn của 16 quốc gia, gồm có 14 quốc gia cộng sản và chỉ 2 quốc gia tự do là Ấn Độ và miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Vũ Anh Khanh có mặt trong phái đoàn miền Bắc Việt Nam dân chủ cộng hòa chung với nhà văn Nguyễn Công Hoan (tác giả Bước Đường Cùng, Đống Rác Cũ...).
Lý do Vũ Anh Khanh được nhà cầm quyền miền Bắc khi đó cử đi dự đại hội HNCNVAC là vì công an không thấy ông trong cuộc tụ tập ở khu Trường Tiền-Hà Nội để phản đối sự chỉ huy văn nghệ của đảng (nhân có phong trào Trăm Hoa Đua Nở-Trăm Nhà Đua Tiếng). Cuộc tụ tập đó do nhóm tập kết miền Nam phản đối các lãnh đạo cộng sản Hà Nội. Sau khi dự đại hội HNCNVAC về, có lẽ đã thấy bộ mặt thật của chế độ cộng sản tại miền Bắc nên khi Vũ Anh Khanh có giấy đi công tác (cách vài tháng sau) ở tỉnh lỵ Vĩnh Yên (phía Bắc Hà Nội) và thi sĩ đã sửa giấy công tác đó từ Vĩnh Yên thành Vĩnh Linh (một đặc khu tương đương cấp tỉnh), địa danh gần sông Bến Hải. Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh và ông đã mạo hiểm vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải nhưng không thoát. Một mũi tên độc đã cắm vào người ông, lôi ông chìm xuống đáy và chết mất xác
Sông Bến Hải cùng cây cầu Hiền Lương nhìn từ bờ phía miền Nam Việt Nam Cộng Hòa
Sông Bến Hải (giới tuyến chia cắt hai miền Nam-Bắc) thuộc thôn Hiền Lương (cầu trên sông mang cùng tên) xã Vĩnh Thành huyện Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị. Giai đoạn Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh thì ở phía bờ Bắc (do chính quyền miền Bắc Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm soát) có 2 đồn công an đóng tại Hiền Lương và Cửa Tùng. Đồn Hiền Lương nằm sát bên cầu, đồn Cửa Tùng đóng ở bãi biển xã Vĩnh Quang. Đồn nào (theo quy định của bản Hiệp Định Geneva) chỉ có 16 nhân viên nhưng con số thực tế nhiều hơn. Vả lại, vì là giới tuyến trực diện với vùng đất phía Nam của chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng Hòa nên dân chúng sinh sống sát bờ sông Bến Hải thực tế là các gia đình công an giả trang. Vũ Anh Khanh đến đây nhằm tìm dịp để vượt tuyến đào thoát vào miền Nam Việt Nam Cộng Hòa nhưng ông không ngờ trước đó ngày 4 tháng 10 năm 1956, đã có 3 người dân miền Bắc liều mạng bơi qua sông và họ thành công. Chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng Hòa đã không giữ kín việc này khi họ tổ chức họp báo để thông tin và miền Bắc Việt Nam dân chủ cộng hòa biết được. công an cộng sản tại Vĩnh Linh đã họp và quyết không để trường hợp tương tự tái diễn.
Họ đã kín đáo canh phòng nghiêm nhặt dù bên ngoài vẫn để các sinh hoạt dân dã bình thường và Vũ Anh Khanh đã mắc bẫy. Có lẽ vào ban ngày ông đã tìm cách bơi sang sông (chỉ rộng hơn 100 m) rồi bị công an phát giác và các mũi tên độc (được bắn ra từ nỏ lớn) của công an cộng sản đã kết liễu đời ông. Việc dùng tên tẩm thuốc độc (thay cho súng) là cách mà công an cộng sản muốn tránh bị Ban Liên Hợp Quốc Tế Giám Sát-Kiểm Soát việc áp dụng Hiệp Định (có mặt tại đây) phát giác việc họ truy sát dân lành vượt tuyến. Cái chết của Vũ Anh Khanh, có thể do công an cộng sản đã thông báo cho dân chúng biết như một răn đe nên kể từ sau đó (tháng 4 năm 1957), không còn người vượt tuyến vào miền Nam bằng cách bơi sang sông Bến Hải nữa..
Là một người yêu nước tuy có lúc sai lầm khi đứng bên phía cộng sản, sau cùng Vũ Anh Khanh đã đào tị nhưng không gặp may.[/font]
chính quyền cộng sản đã cố tình gạt bỏtên ông trong văn học sử mà ngay cả chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng Hòa cũng đối xử tương tự với ông khi gạt bỏ tên trong chương trình giáo dục phổ thông cùng cấm lưu hành các sách in của ông. Họ xếp ông là văn-thi sĩ cộng sản(do đã tập kết ra miền Bắc năm 1954 và dự đại hội HNCNVAC tháng 12 năm 1956) và đó là một đối xử bất công.
Bài thơ Hận Tha La được các nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ thành bài hát (năm 1964) mang tên Tha La Xóm Đạo, nhạc sĩ Sơn Thảo'S phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Hận Tha La và nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Vĩnh Biệt Tha La....