First topic message reminder :
Thăng Long có bốn cổng thành. Cửa Diệu Đức phía Bắc là nơi gần như dành riêng cho quan lại, vương tôn công tử, niêm yết bảng văn, đón tiếp sứ giả, cửa Quảng Phúc ở phía Tây là nơi ngày tháng vang vang vó ngựa và những đoàn quân rầm rập thường xuyên ra vô tập luyện, diễu võ giương oai, còn cửa Đại Hưng chỉ tấp nập với những ngày hội hè, đình đám và thỉnh thoảng những đoàn quân xuôi nam hay quan lại các nơi về kinh làm người ta chú ý, thì phía cửa Đông Hoa mới đúng là nơi đô thị, chợ búa náo nhiệt. Từ cầu Đông thị đến bến sông Thao phố xá như bát úp, còn bến thuyền lúc nào cũng tấp nập. Thuyền buôn các nơi đến kinh đô đều đậu ở đây. Bến thuyền trải dài mút mắt và dọc theo bờ sông hàng quán, khách điếm, chợ búa, người qua kẻ lại chen chúc đủ hạng người, từ kẻ áo gấm quạt lông, cởi ngựa, đi xe, ngồi kiệu đến hạng vai u thịt bắp, rinh thuê, kéo mướn...Hàng hóa và con người cũng vậy, có thể nói là thượng vàng hạ cám thứ gì cũng có.
Nằm ngay góc con đường đê dọc theo bờ sông và con lộ chính vào cửa thành là một tửu quán không có bảng hiệu. Có lẽ do vị trí, hay những điểm đặc biệt của tửu quán mà chủ nhân không cần phải treo bảng. Tuy nhiên, mọi người, ai đã đến phía đông thành, thì phải biết quán Tư Bụng. Quán Tư Bụng gắn liền với cửa Đông Hoa, với cầu Đông Thị..cho dù hai danh xưng thanh tục khác nhau. Quán Tư Bụng nổi tiếng không phải chỉ vì nó đã chiếm một khoảnh đất khá rộng ngay ngã ba quan yếu, có sân sau thể chứa cả hàng trăm con ngựa, có mấy gian nhà rộng cho công nhân ăn ở, hay tầng trên cất bằng gỗ, trống trải bốn mặt, hàng trăm thực khách có thể ngồi uống rượu, ngắm cảnh thuyền buồm xuôi ngược trên sông, mà đặc điểm của quán Tư Bụng là có thể tiếp đãi, thỏa mãn với tất cả mọi hạng thực khách, mọi túi tiền. Khách của quán Tư Bụng có thể là anh xe kéo ghé vào lấy một chiếc bánh chưng xanh, chị hàng rong tạt vô mua một ổ bánh bao, mấy anh phu khuân vác có thể tụ họp kêu một con vịt quay, con gà luộc, đĩa thịt heo.., rượu gạo, rượu ngô ở những chiếc bàn kê dài theo ba hàng hiên rộng, thì khách sang lại có thể vào nhà, lên sân thượng kêu sơn hào hải vị, bồ đào, mỹ tửu, muốn gì cũng có. Và tất cả thức ăn, thức uống của quán Tư Bụng đều làm cho khách mọi hạng đều vừa lòng.
Quán Tư Bụng nổi tiếng vì đặc điểm như vậy. Quán Tư Bụng, còn có người gọi là quán Mụ Tư Bụng, nhưng không ai hiểu vì sao tửu quán có cái tên này. Có lẽ mấy đời trước, người khai sinh ra và xây ra quán là một người đàn ông hay đàn bà mập ú ú, với cái bụng núng na núng nính những mỡ và mỡ.. và có lẽ chỉ chủ quán mới biết ông hay bà Tư Bụng là tổ tông cao tằng gì đó của mình hay chẳng có liên hệ gì. Chủ quán Tư Bụng bây giờ, vào lúc Hồ Quý Ly đang nắm tất cả quyền lực trị nước trong tay, đang muốn soán ngôi lại là một người đàn ông phương phi, cốt cách. Chủ quán ít có mặt ở quán, nhưng khi nào ông ta xuất hiện và chào hỏi mọi người, thì hầu như tất cả mọi hạng thực khách đều dành cho ông ta một sự kính trọng đặc biệt gọi là Phạm tiên sinh. Nghe nói Phạm tiên sinh từng thi đỗ cập đệ lúc còn rất trẻ, nhưng không chịu ra làm quan, và dù văn hay chữ tốt, ông cũng không đặt cho tửu quán của mình một cái tên thanh lịch, ý nghĩa nào, vẫn để mọi người gọi cái tên Tư Bụng. Cái tên đã đi vào lòng mọi người.
Quán Tư Bụng hiện diện lâu đời ở cửa Đông Hoa, không ai biết nó có mặt từ lúc nào và vì thế nó đã chứng kiến hết tất cả những biến động lớn lao và dồn dập của Thăng Long trong mấy chục năm gần đây. Khởi đầu cho những chuỗi biến động là một ngày đầu xuân, ngày hai mươi bốn tháng giêng, năm Long Khánh thứ năm, ban ngày bỗng dưng trời tối như om như mực, mọi người phải đốt đèn đuốc để đi lại, mua bán. Linh thiêng hay trùng hợp? Ngày hôm ấy trên mười vạn quân chinh phạt Chiêm Thành bị tiêu diệt khi tiến vào thành Đồ Bàn và ông vua trẻ Duệ Tông, ông vua Đại Việt đầu tiên và cũng là cuối cùng tử trận trên đất Chiêm Thành. Từ cái ngày đen tối ấy, hai lần Thăng Long bị quân Chiêm dẫm nát, bắt người, cướp của như đi vào chỗ không người, người dân sống trong nơm nớp lo âu. Hết bị nạn Chiêm Thành, Thăng Long lại phải chứng kiến những cảnh đói khổ, bần cùng. Năm này hạn hán, năm nọ lụt to, năm kia giặc Sư Ôn chiếm cứ và rồi liên tiếp hàng năm phải mở rộng cửa Diệu Đức để đón tiếp những phái đoàn nhà Minh sang sách nhiễu, đòi hỏi, nay gọi quân lương, mốt đòi phương vật. Ông thái thượng hoàng Nghệ Tông tiếp tục sống dai, đã giúp cho Quý Ly thêm lông thêm cánh, giết hại con cháu của chính mình và những bậc trung thần. Khi ông vua già này biết được thế nguy, muốn học theo sách Lưu Bị ký thác ấu chúa cũng u mê không biết rõ Quý Ly chẳng phải là Gia cát Lượng! Nghệ Tông mất trong một đêm đông lạnh lẽo, và sau đó bầu trời mây đen che kín liên tiếp mấy ngày, báo hiệu nhà Trần đã bước sang thời kỳ tang chế thực sự của nó.
Thành Thăng Long trong mùa đông u ám năm nay đã nhận lấy cái tên mới là Đông đô, những gia đình quan lại, lính tráng thu hút sức mua bán lớn nhất của Thăng Long người đi kẻ ở, lo lắng, hoang mang. Biến đổi lớn lao này đã làm mọi người, ngay cả những nhân công, đầu bếp, hầu bàn của quán Tư Bụng cũng uể oải hẳn ra. Thường thì gà gáy sáng, trong quán đã lên đèn khắp nơi, chuẩn bị mở đầu cho một ngày làm việc mới, và trời chưa sáng, những kẻ không nhà ngủ nhờ nơi hàng hiên đã bị xua đuổi đi nơi khác. Nhưng mấy ngày qua, trời sáng hẳn công nhân quán Tư Bụng mới rục rịch mở cửa và những kẻ có nhiệm vụ kê bàn chung quanh ba hàng hiên dài không cần phải xua đuổi ai, những người có kiếp sống khốn khổ này đã thức giấc, tự động thu vén để ra đường cho một ngày mới của mình. Sáng hôm ấy, gió bấc từ dòng sông thổi lên lạnh như cắt da xé thịt, quán Tư Bụng còn mở cửa trễ hơn, nhưng khi Trần Tứ người công nhân trẻ bày bàn ghế ở hiên tây đã ngạc nhiên thấy một người còn nằm trong chiếc chăn rách nát, hắn bực bội lấy chân đá mạnh quát tháo:
- Mặt trời đã lên còn nằm vạ hay sao?
Cái đá mạnh không làm người trong chăn nhúc nhích. Trần Tứ thêm bực bội cúi xuống giựt mạnh chiếc chăn, hắn thấy dưới nền nhà thân hình ốm o, tóc xõa che kín mặt mày nằm bất động, hắn đá vào chân người nằm mấy cái nữa vẫn không thấy nhúc nhích. Trần Tư chăm chú nhìn làm da xanh mét qua lớp áo rách rồi hốt hoảng chạy vào trong kêu réo:
- Có người chết ngoài hàng hiên! Có người chết!
Nghe hô hoán vài người công nhân trong quán vội vã bước ra. Họ xúm lại nhìn xác chết, nhưng không biết phải làm gì. Một người đàn bà lên tiếng:
- Chắc bị chết cóng! Tội nghiệp quá! Chạy kêu Đoàn tổng quản xem ông dạy làm thế nào? Nó đã lỡ nằm chết ở đây chúng ta đâu có thể mang đi ném chỗ nào cho được! Dù sao cũng là con người mà!
Trần Tứ vội chạy đi kêu lão tổng quản, người thay mặt chủ nhân điều hành quán Tư Bụng. Trần Tứ mới khuất vào bên trong, trước cổng quán xuất hiện một cỗ kiệu màu xanh. Thấy cỗ kiệu, người đàn bà kêu lên:
- May quá! Chủ nhân đến kìa!
Phạm tiên sinh khoảng năm sáu mươi, râu ba chòm lốm đốm bạc, mặc áo lụa đen, chống cây gậy mây đen bóng loáng, bước xuống kiệu, mau mắn:
- Thím Năm! Việc gì đó?
- Thưa tiên sinh, có người nằm chết cóng ở đây!
Phạm tiên sinh không chút hốt hoảng:
- Ồ! Tội nghiệp nhỉ!
Ông ta bước vội vào hàng hiên, những người công nhân giãn ra nhường chỗ cho chủ nhân. Nhìn kẻ bạc phước nằm co rút trên manh chiếu rách, áo quần te tua không che kín thân thể, Phạm tiên sinh thở dài. Ông định ra lệnh cho công nhân mua một chiếc hồm cho xác chết, tống táng làm phước, nhưng đôi mắt ông ta chợt nhìn thấy nằm dài theo xác chết một cây gậy mây dài hơn hai thước, quấn vải chung quanh như cố tình che dấu, nhưng lớp vải đang bong rời ra cho thấy đấy là một cây gậy mây to hơn ngón chân cái, lóng rất ngắn, mỗi lóng chỉ độ vài đốt ngón tay, nổi màu đen bóng, nhưng cũng có nhiều vết như bị gươm đao chém phải. Cây gậy làm Phạm tiên sinh cau mày, rồi vội ngồi xuống lật xác chết lên đưa tay sờ mũi, sờ ngực. Được Phạm tiên sinh lật qua, mọi người mới thấy xác chết là một thiếu niên độ mười sáu, mười bảy tuổi và họ cũng rất ngạc nhiên, Phạm tiên sinh không nề dơ bẩn, rút cây gậy để lên người thiếu niên rồi bồng ngay lên và nôn nóng hỏi đám công nhân:
- Ai trong các ngươi nhà có căn phòng trống?
Trần Tứ lanh miệng:
- Nhà thím Năm có phòng cô Lan mới về quê.
Không chờ người đàn bà cho biết có đồng ý hay không, Phạm tiên Sinh bước đi ngay và hối người đàn bà:
- Thím đi theo chỉ cho ta căn phòng ấy còn các ngươi thì vào trong kêu người nấu ngay một tô cháo nóng, cho gừng nhiều vào và mang gấp đến cho ta.
Nghe chủ sai khiến, người đàn bà hơi một chút ngần ngừ rồi bôn bả chạy theo và vượt qua mặt Phạm tiên sinh. Khu nhà ở của công nhân quán Tư Bụng mái tranh vách đất, nhưng có mấy chục căn như một xóm nhỏ, nằm sau sân tửu quán, ngăn cách bởi một hàng dương liễu xanh và ra vào có một cánh cổng cây nặng nề. Mụ Năm xăn xái chạy trước chủ nhân, vì ta ta biết mình phải mở cánh cổng này cho ông chủ và đưa ông ta đến căn nhà mình, một căn nhà hẻo lánh nằm sau bờ ao của khu dành riêng cho nữ nhân, lại cũng có một hàng dậu tre và một cánh cổng phân biệt với khu nam nhân và người có gia đình.
Mụ Năm vừa đi vừa chạy, vì Phạm tiên sinh bồng thiếu niên đi rất nhanh. Khi đến căn nhà của mình, mụ đã thở hào hễn, và rất ngạc nhiên không ngờ Phạm tiên sinh thân thể văn nhược, tuổi đã lớn nhưng bồng một người, đi nhanh như vậy mà không tỏ ra có chút gì mệt nhọc.
Phạm tiên sinh đặt thiếu niên lên chiếc giường gỗ nhỏ, bảo mụ Năm:
- Thím đi đốt cho tôi một chậu lửa than.
Khi mụ Năm đi khỏi, Phạm tiên sinh hít một hơi chân khí, rồi đôi bàn tay bắt đầu chà xát lên thân thể thiếu niên. Một lúc sau gã rên ư ử và mở mắt. Phạm tiên sinh dừng tay mỉm cười thân thiện:
- Cậu đã thoát chết rồi đấy.
Thiếu niên mấp máy môi, thều thào:
- Đa tạ đại bá!
Câu nói văn vẻ của cậu bé làm Phạm tiên sinh cảm thấy những gì mình nghi ngờ là đúng. Ông cầm cây gậy mây để bên cạnh thiếu niên, kéo tấm chăn đắp cho và với giọng chí tình:
- Lão phu chưa biết tiểu hữu là ai, gặp hoàn cảnh hung hiểm nào mà đến nông nổi này, nhưng cứ yên tâm nằm đây tịnh dưỡng cho đến khi khỏe hẳn. Tiểu hữu bị đói lạnh lâu ngày, ngoài ăn uống, cũng phải uống thêm vài thang thuốc nữa mới hoàn toàn bình phục.
Đôi mắt thiếu niên chợt đỏ hoe vì xúc động, Phạm tiên sinh cầm cây gậy mây của mình lên tay, và hình như ông ta cố tình khuyến khích thêm lòng cầu sinh của người thiếu niên:
- Thân thể thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương hiếu chi thủy giả. Tiểu hữu không nên ngại ngùng sự giúp đỡ của người khác. Có khỏe mạnh mới chu toàn được sự hiếu thảo của mình với đấng sinh thành, không nói là còn có thể tiến lên sống xứng đáng là một đấng trượng phu trong tương lai. Tiểu hữu nghỉ ngơi, một hai ngày sau lão phu trở lại sẽ chuyện vãn nhiều hơn.
Phạm tiên sinh bước ra khỏi phòng dặn dò người đàn bà chủ nhà:
- Lão phu sẽ nói cho tổng quản biết thím phải ở nhà năm ngày để săn sóc cho cậu ấy. Thím phải tận tình săn sóc cho tôi. Sáng nay chỉ cho ăn cháo, trưa cho ăn cháo tiếp và chiều có thể cho ăn cơm được. Đồ ăn lão phu sẽ bảo người trong tửu quán mang đến cho thím và cậu ấy. Thuốc khi có người mang đến, thím cứ đổ ba bát nước, sắc còn một bát là được
Người đàn bà xuýt xoa:
- Chủ nhân thật nhân từ không ai bằng. Cậy ấy thật có phước lớn mới gặp được ngài.
Tiếng Phạm tiên sinh nghiêm nghị:
- Trong ba ngày cậu ấy không bình phục, tôi sẽ hỏi tội thím đấy!
- Dạ! Tiểu nhân đâu dám không hết lòng..
Và mụ Năm cau mày:
- Sao lâu quá chưa ai mang cháo tới vậy kìa?
Tiếng Trần Tứ ngòai ngõ:
- Có rồi đây!
Phạm tiên sinh:
- Nếu cậu ấy không ngồi lên nổi, thím đút cho cậu ấy. Con bệnh này lão phu hoàn toàn giao cho thím.
Thím Năm đón lấy tô cháo từ tay Trần Tứ, nhìn bóng Phạm tiên sinh khuất sau hàng dậu, cảm khái:
- Chủ nhân thật là một người nhân hậu.
Trần Tứ:
- Việc này ai mà không biết. Thằng nhỏ này cũng có phước rất lớn. Thôi thì thím rán mà chăm sóc cho nó để đức cho con cháu!
- Tổ bà mi! Ta có con cháu gì đâu mà mi nói thế?
Trần Tứ cười:
- Cô Lan chẳng phải là cháu thím hay sao? Thím gả cô Lan cho tôi thì chúng tôi coi thím như mẹ, cũng là con cháu thím vậy!
Thím Năm mắng:
- Cái mặt mi khi không có nó thì miệng như bôi mỡ, còn thấy nó thì lấm la lấm lét để đấy mà nó chịu lấy mi.
Trần Tứ hỏi:
- Cô Lan có đọc chữ được không thím Năm?
- Ngươi mà viết được hay sao mà hỏi?
- Thì cháu nhờ người viết hộ.
Thím Năm mắng:
- Nó biết ngươi nhờ người viết, thì nó lại càng chẳng đọc. Hừ! Ta nói cho mà biết, nó không học được chữ nghĩa bao nhiêu nhưng múa roi đi quyền thì nó không thua đàn ông. Ngươi liệu hồn đấy!
Trần Tứ le lưỡi:
- Thế thì kiếp này Tứ này đành sống cảnh thầm yêu trộm nhớ!
- Cũng chữ nghĩa văn hoa lắm đấy! Thôi để ta đem cháo vào cho cậu ấy. Ngươi không cút đi coi chừng lão Đoàn sẽ mắng cho một trận.
Thím Năm không để Trần Tứ có cơ hội nói thêm, bà bưng tô cháo còn nóng đem vào phòng cho thiếu niên. Trong ánh sáng lờ mờ, bà thấy gã đang nằm bất động ngó lên mái nhà, hai hàng nước mắt chảy dài, bà cảm thấy thương hại cho gã, dịu dàng:
- Cậu thoát chết là may mắn lắm. Có thể ngồi dậy nổi không? Hãy ăn tô cháo cho mau lại sức.
Gã thiếu niên gạt hàng nước mắt:
- Cảm ơn thím! Cháu có thể ngồi dậy được.
Gã chống tay ngồi lên. Thấy thiếu niên mặt mày dơ bẩn, bà Năm xua tay:
- Cậu đợi tôi một chút.
Bà ta chạy ra nhà sau và đem vào một chiếc khăn nóng:
- Sẵn có nước nóng để tôi lau sơ mặt mũi cho cậu.
Không đợi gã thiếu niên bằng lòng hay không, bà ta ngồi xuống giường lau tay chân, mặt mày cho cậu ta. Khuôn mặt óm đói, lem luốc được chiếc khăn nước nóng lau qua làm bà Năm ngừng tay, bà đang chú ý đến cặp lông mày lưỡi kiếm thật dài và đôi hàng lông mi cũng thật dài và cong vút trên hai cặp mắt to đen của thiếu niên. Bà ta ngắm gã và khen:
- Cậu mập mạp ra một chút, tóc tai chải gỡ sạch sẽ thì đúng là một thiếu niên đẹp trai. Cậu được bao nhiêu tuổi rồi?
- Dạ cháu năm nay mười lăm tuổi.
- Trời đất! Cậu da bọc xương, nhưng cao tồng ngồng những tưởng là mười sáu, mười bảy rồi kia chứ. Nhìn tướng mạo và cậu mau lớn thế này hẳn cũng con nhà khá giả.
Không chờ gã thiếu niên đang húp cháo trả lời. Bà Năm lại mau miệng xít xoa:
- Thời buổi hỗn vua hỗn quan, người ta giết chóc nhau như cơm bữa nhiều nhà quan quyền táng gia bại sản là chuyện thường. Thôi cậu đừng buồn nữa. Đại nạn không chết sẽ có phước lớn.
Thiếu niên:
- Cảm ơn thím Năm.
Gã đưa cái tô không lại cho bà Năm, bà ta như muốn nói chuyện tiếp nhưng thấy gã có vẻ uể oải, nên đứng lên:
- Cậu nghỉ một chút. Trưa tôi sẽ lấy cho cậu một tô cháo thịt. Ồ! Tôi đã thổi chậu lửa cho cậu để tôi bưng vào cho ấm.
Thiếu niên:
- Được đắp chăn như thế này cháu đã cảm thấy ấm áp lắm rồi thím Năm không cần phải mệt nhọc vì cháu.
Bà Năm:
- Ta phải làm theo lời dặn của tiên sinh, nếu không ông ta lại quở trách.
Bà năm khuất sau cánh cửa, một lúc sau khệ nệ mang vào phòng một lò lửa hồng. Bà thấy thiếu niên nhắm mắt nên không nói thêm lời nào nữa. Khi rời khỏi phòng bà ta đóng nhẹ cánh cửa lại để cho căn phòng thêm ấm áp.
Trong căn phòng nhỏ khép kín với một lò than to, giây lát thấy nóng, thiếu niên gỡ chăng ra và ngủ thiếp.
Tô cháo, căn phòng ấm và giấc ngủ làm thiếu niên cảm thấy khỏe hẳn ra khi thức giấc. Đã quen với đói rét, nhưng bây giờ gã cảm thấy đói và mũi gã đang nghe mùi thơm thoang thoảng của thịt thà hành tiêu trong căn nhà càng cảm thấy đói hơn. Thiếu niên không phải chờ lâu, thím Năm đẩy cửa bước vào. Cửa mở rộng, mùi thơm của gừng, của hành, của thịt tạt vào làm gã tự nhiên phải hít một hơi mạnh vào lồng phổi. Thím Năm cười:
- Tôi định vào đánh thức cậu đây. Cậu đã dậy để tôi đem cháo vào cho cậu.
Thiếu niên nuốt nước bọt, nhưng gượng gạo:
- Thím đã cho ăn, hay để cháu tự đi lấy khỏi làm phiền thím.
Thím Năm xua tay:
- Ấy chết, chủ nhân lo cho cậu lắm đấy. Cậu ăn cháo rồi tôi còn sắc thuốc cho cậu uống, nấu nước cho cậu tắm rửa nữa. Ông chủ mới sắm cho cậu mấy bộ áo quần thật đẹp.
Thiếu niên kêu lên:
- Ông chủ giúp đỡ cháu thế này, biết làm sao đền ơn cho được.
- Ông chủ từ xưa nay rất nhân từ, luôn luôn giúp đỡ mọi người, nhưng hình như ông đặc biệt quan tâm đến cậu. Nếu không quá quan tâm đến cậu thì ông ta không đích thân ẵm cậu từ tửu quán về đây cũng như ông ta cũng không còn ngại ngùng phải đến khu nhà nữ công nhân bọn tôi. Cậu muốn đền ơn thì rán ăn khỏe vào, cậu khỏe ra tôi cũng được chủ nhân khen thưởng.
Bà ta vừa dứt lời, trở ra nhà ngoài và mang vào một khay có ba chén cháo thịt bốc khói nghi ngút. Thiếu niên ngồi rột dậy hai tay run run đưa ra định đỡ lấy, nhưng thím Năm đặt khay cháo trên chiếc bàn nhỏ:
- Tôi nghĩ nếu cậu ngồi dậy được thì ngồi lên ghế mà ăn có lẽ thoải mái hơn.
Gã thiếu niên gần như có một sức mạnh nào kéo tới, tụt nhanh xuống giường và cắm cúi vào những chén cháo trên khay. Gã vừa thổi vừa ăn, thím Năm thấy trán và người gã đổ mồ hôi lấm tấm. Nhìn gã thiếu niên đang cắm cúi ăn, thím nghĩ thầm ông chủ của mình đã lo cho gã thái quá. Chỉ cần cho ăn no vài bữa là gã sẽ mạnh như thần, đâu cần phải uống thuốc, nhưng ông chủ của thím đã cho người mang thuốc tới và thím đang phải sắc! Dù sao phục dịch gã thiếu niên này thím cũng không lỗ lã. So với một ngày làm trong tửu quán công việc phục dịch gã nhẹ nhàng hơn nhiều mà ông chủ còn hứa thưởng công bội hậu.
Thiếu niên ăn xong mấy chén cháo thở phào:
- Chưa bao giờ cháu được ăn ngon như thế này! Cảm ơn thím Năm nhiều lắm.
Thím Năm tò mò dò hỏi:
- Cậu từ đâu tới và tên là gì vậy?
Thiếu niên ngần ngừ giây lát:
- Cháu người lộ Tam giang, tên là Tích Nhân.
Tích Nhân cười buồn:
- Gia phụ muốn cháu lớn lên làm một con người biết tu nhân tích đức, thế nhưng cháu đang sống nhờ vào lòng nhân từ của mọi người.
Thím Năm an ủi:
- Cuộc đời cậu còn dài kia mà! Sao cậu lại lưu lạc thế này?
Tích Nhân xa vắng:
- Cha mẹ cháu đều mất và không còn ai là người thân thích.
- Tội nghiệp cậu quá. Nhưng cậu còn trẻ thì lo gì!
Tích Nhân lại dò hỏi thím Năm về Phạm tiên sinh:
- Phải chăng Phạm tiên sinh thường cứu giúp những người cùng khổ?
- Ồ! Tiên sinh rất nhân hậu, mỗi tháng ông ta thường trích một ngân khoản của tửu quán để bố thí. Ông ta đối đãi với người ăn kẻ ở cũng vô cùng nhân ái. Ta đây, nếu không nhờ ông thu dụng thì hôm nay không biết phải sống như thế nào.
- Tiên sinh đã từng tử tế với ai như đối với cháu không?
- Ta chưa thấy, nhưng biết đâu cậu là thiếu niên đầu tiên nằm chết cóng nơi hàng hiên tửu quán. Ba năm trước có một lão ăn mày nằm chết ở hàng hiên, sau khi báo quan, tiên sinh đã cho mua hồm chôn cất tử tế.
- Tiên sinh đúng là người nhân hậu.
Thím Năm:
- Ta đi sắc thuốc cho cậu. Ta nghĩ trong người cậu rất nhiều chấy rận. Sau khi uống thuốc phải tắm rửa, ta thay mền chiếu đem đi giặt kẻo con Lan của ta nó về nó lại trách cứ ta. Ta nghĩ, thay vì nằm trong phòng cháu gái của ta, cậu có thể tạm nằm ở tấm ván phòng trước, đóng cửa lại cũng đủ ấm.
Tích Nhân:
- Thím cho cháu nằm nơi đâu cũng được. Xin lỗi đã làm phiền thím quá nhiều.
- Ta giúp cậu vì lệnh của Phạm tiên sinh, cậu không phải cứ mỗi chút là cám ơn ta.
Bà ta cười:
- Cậu cám ơn, mai sau nếu Phạm tiên sinh nhận cậu làm con hay làm rể thì mong cậu giúp lại ta.
Thím Năm ra ngoài, bấy giờ Tích Nhân mới để ý đến căn phòng nhỏ của cô gái tên Lan. Phòng tuy đơn sơ, nhỏ bé nhưng mọi thứ đều sạch sẽ, gọn ghẽ. Tích Nhân tự dưng cảm thấy có lỗi với cô gái chủ nhân và hy vọng cô ta sẽ chẳng bao giờ biết trên chiếc giường của cô ta, thân hình dơ bẩn, chấy rận của mình đã từng nằm trên đó. Tuy vậy, ngồi trên ghế một lúc Tích Nhân lại muốn ngã lưng. Mấy năm nay chưa bao giờ được biết đến cái giường là gì, Tích Nhân thèm được nằm.
Đã được ngủ một giấc từ sáng đến trưa nên muốn ngủ cũng không ngủ được, Tích Nhân trăn trở mãi và bất ngờ tay đụng phải một cái gì trên thành giường sát vách, một tiếng cắc vang lên và chiếc chiếu bị đẩy cao lên khoảng nửa gang tay. Ngạc nhiên, Tích Nhân kéo chiếu xa xem thì đó là một cái hộc nhỏ bên trong có một cây kiếm dài, da bao kiếm đã lên màu đen và cán kiếm cũng lên màu đen bóng. Nằm trên đầu cán kiếm là một gói vải đen. Tích Nhân mở ra xem bên trong là cuộn giấy da vàng thếch. Biết đây là bảo kiếm và kiếm quyết của nhà cô gái, Tích Nhân không dám tò mò thêm nữa mà vội đẩy nắp đậy lại. Khi đẩy cái nắp đậy lại, Tích Nhân cũng nghe một tiếng cắc và nắp cái hộp dài nhỏ ngụy trang thành thành giường liền lặn không biết chỗ nào để có thể mở lại nữa.
Phát hiện tình cờ làm Tích Ngân cau mày, và vội nằm xuống, nhắm mắt. Bên ngoài, xen tiếng gió thổi vi vút, là bước chân người đàn bà tên Năm đi qua, đi lại xê dịch, lục đục trong căn nhà. Không hiểu giả vờ hay ngủ thật, khi người đàn bà tên Năm vào phòng, bà ta phải lay mấy lần Tích Ngân mới mở mắt. Trên chiếc bàn nhỏ bà Năm đã để tô thuốc còn bốc hơi:
- Cậu dậy uống thuốc.
Tích Nhân ngồi lên dụi mắt, ngái ngủ:
- Đa tạ thím. Nhưng cháu muốn đi.. Một chút.
Đằng Tiên Bắc Ngạo
Tác giả: Vũ Quân
Hồi 1
Thăng Long có bốn cổng thành. Cửa Diệu Đức phía Bắc là nơi gần như dành riêng cho quan lại, vương tôn công tử, niêm yết bảng văn, đón tiếp sứ giả, cửa Quảng Phúc ở phía Tây là nơi ngày tháng vang vang vó ngựa và những đoàn quân rầm rập thường xuyên ra vô tập luyện, diễu võ giương oai, còn cửa Đại Hưng chỉ tấp nập với những ngày hội hè, đình đám và thỉnh thoảng những đoàn quân xuôi nam hay quan lại các nơi về kinh làm người ta chú ý, thì phía cửa Đông Hoa mới đúng là nơi đô thị, chợ búa náo nhiệt. Từ cầu Đông thị đến bến sông Thao phố xá như bát úp, còn bến thuyền lúc nào cũng tấp nập. Thuyền buôn các nơi đến kinh đô đều đậu ở đây. Bến thuyền trải dài mút mắt và dọc theo bờ sông hàng quán, khách điếm, chợ búa, người qua kẻ lại chen chúc đủ hạng người, từ kẻ áo gấm quạt lông, cởi ngựa, đi xe, ngồi kiệu đến hạng vai u thịt bắp, rinh thuê, kéo mướn...Hàng hóa và con người cũng vậy, có thể nói là thượng vàng hạ cám thứ gì cũng có.
Nằm ngay góc con đường đê dọc theo bờ sông và con lộ chính vào cửa thành là một tửu quán không có bảng hiệu. Có lẽ do vị trí, hay những điểm đặc biệt của tửu quán mà chủ nhân không cần phải treo bảng. Tuy nhiên, mọi người, ai đã đến phía đông thành, thì phải biết quán Tư Bụng. Quán Tư Bụng gắn liền với cửa Đông Hoa, với cầu Đông Thị..cho dù hai danh xưng thanh tục khác nhau. Quán Tư Bụng nổi tiếng không phải chỉ vì nó đã chiếm một khoảnh đất khá rộng ngay ngã ba quan yếu, có sân sau thể chứa cả hàng trăm con ngựa, có mấy gian nhà rộng cho công nhân ăn ở, hay tầng trên cất bằng gỗ, trống trải bốn mặt, hàng trăm thực khách có thể ngồi uống rượu, ngắm cảnh thuyền buồm xuôi ngược trên sông, mà đặc điểm của quán Tư Bụng là có thể tiếp đãi, thỏa mãn với tất cả mọi hạng thực khách, mọi túi tiền. Khách của quán Tư Bụng có thể là anh xe kéo ghé vào lấy một chiếc bánh chưng xanh, chị hàng rong tạt vô mua một ổ bánh bao, mấy anh phu khuân vác có thể tụ họp kêu một con vịt quay, con gà luộc, đĩa thịt heo.., rượu gạo, rượu ngô ở những chiếc bàn kê dài theo ba hàng hiên rộng, thì khách sang lại có thể vào nhà, lên sân thượng kêu sơn hào hải vị, bồ đào, mỹ tửu, muốn gì cũng có. Và tất cả thức ăn, thức uống của quán Tư Bụng đều làm cho khách mọi hạng đều vừa lòng.
Quán Tư Bụng nổi tiếng vì đặc điểm như vậy. Quán Tư Bụng, còn có người gọi là quán Mụ Tư Bụng, nhưng không ai hiểu vì sao tửu quán có cái tên này. Có lẽ mấy đời trước, người khai sinh ra và xây ra quán là một người đàn ông hay đàn bà mập ú ú, với cái bụng núng na núng nính những mỡ và mỡ.. và có lẽ chỉ chủ quán mới biết ông hay bà Tư Bụng là tổ tông cao tằng gì đó của mình hay chẳng có liên hệ gì. Chủ quán Tư Bụng bây giờ, vào lúc Hồ Quý Ly đang nắm tất cả quyền lực trị nước trong tay, đang muốn soán ngôi lại là một người đàn ông phương phi, cốt cách. Chủ quán ít có mặt ở quán, nhưng khi nào ông ta xuất hiện và chào hỏi mọi người, thì hầu như tất cả mọi hạng thực khách đều dành cho ông ta một sự kính trọng đặc biệt gọi là Phạm tiên sinh. Nghe nói Phạm tiên sinh từng thi đỗ cập đệ lúc còn rất trẻ, nhưng không chịu ra làm quan, và dù văn hay chữ tốt, ông cũng không đặt cho tửu quán của mình một cái tên thanh lịch, ý nghĩa nào, vẫn để mọi người gọi cái tên Tư Bụng. Cái tên đã đi vào lòng mọi người.
Quán Tư Bụng hiện diện lâu đời ở cửa Đông Hoa, không ai biết nó có mặt từ lúc nào và vì thế nó đã chứng kiến hết tất cả những biến động lớn lao và dồn dập của Thăng Long trong mấy chục năm gần đây. Khởi đầu cho những chuỗi biến động là một ngày đầu xuân, ngày hai mươi bốn tháng giêng, năm Long Khánh thứ năm, ban ngày bỗng dưng trời tối như om như mực, mọi người phải đốt đèn đuốc để đi lại, mua bán. Linh thiêng hay trùng hợp? Ngày hôm ấy trên mười vạn quân chinh phạt Chiêm Thành bị tiêu diệt khi tiến vào thành Đồ Bàn và ông vua trẻ Duệ Tông, ông vua Đại Việt đầu tiên và cũng là cuối cùng tử trận trên đất Chiêm Thành. Từ cái ngày đen tối ấy, hai lần Thăng Long bị quân Chiêm dẫm nát, bắt người, cướp của như đi vào chỗ không người, người dân sống trong nơm nớp lo âu. Hết bị nạn Chiêm Thành, Thăng Long lại phải chứng kiến những cảnh đói khổ, bần cùng. Năm này hạn hán, năm nọ lụt to, năm kia giặc Sư Ôn chiếm cứ và rồi liên tiếp hàng năm phải mở rộng cửa Diệu Đức để đón tiếp những phái đoàn nhà Minh sang sách nhiễu, đòi hỏi, nay gọi quân lương, mốt đòi phương vật. Ông thái thượng hoàng Nghệ Tông tiếp tục sống dai, đã giúp cho Quý Ly thêm lông thêm cánh, giết hại con cháu của chính mình và những bậc trung thần. Khi ông vua già này biết được thế nguy, muốn học theo sách Lưu Bị ký thác ấu chúa cũng u mê không biết rõ Quý Ly chẳng phải là Gia cát Lượng! Nghệ Tông mất trong một đêm đông lạnh lẽo, và sau đó bầu trời mây đen che kín liên tiếp mấy ngày, báo hiệu nhà Trần đã bước sang thời kỳ tang chế thực sự của nó.
Thành Thăng Long trong mùa đông u ám năm nay đã nhận lấy cái tên mới là Đông đô, những gia đình quan lại, lính tráng thu hút sức mua bán lớn nhất của Thăng Long người đi kẻ ở, lo lắng, hoang mang. Biến đổi lớn lao này đã làm mọi người, ngay cả những nhân công, đầu bếp, hầu bàn của quán Tư Bụng cũng uể oải hẳn ra. Thường thì gà gáy sáng, trong quán đã lên đèn khắp nơi, chuẩn bị mở đầu cho một ngày làm việc mới, và trời chưa sáng, những kẻ không nhà ngủ nhờ nơi hàng hiên đã bị xua đuổi đi nơi khác. Nhưng mấy ngày qua, trời sáng hẳn công nhân quán Tư Bụng mới rục rịch mở cửa và những kẻ có nhiệm vụ kê bàn chung quanh ba hàng hiên dài không cần phải xua đuổi ai, những người có kiếp sống khốn khổ này đã thức giấc, tự động thu vén để ra đường cho một ngày mới của mình. Sáng hôm ấy, gió bấc từ dòng sông thổi lên lạnh như cắt da xé thịt, quán Tư Bụng còn mở cửa trễ hơn, nhưng khi Trần Tứ người công nhân trẻ bày bàn ghế ở hiên tây đã ngạc nhiên thấy một người còn nằm trong chiếc chăn rách nát, hắn bực bội lấy chân đá mạnh quát tháo:
- Mặt trời đã lên còn nằm vạ hay sao?
Cái đá mạnh không làm người trong chăn nhúc nhích. Trần Tứ thêm bực bội cúi xuống giựt mạnh chiếc chăn, hắn thấy dưới nền nhà thân hình ốm o, tóc xõa che kín mặt mày nằm bất động, hắn đá vào chân người nằm mấy cái nữa vẫn không thấy nhúc nhích. Trần Tư chăm chú nhìn làm da xanh mét qua lớp áo rách rồi hốt hoảng chạy vào trong kêu réo:
- Có người chết ngoài hàng hiên! Có người chết!
Nghe hô hoán vài người công nhân trong quán vội vã bước ra. Họ xúm lại nhìn xác chết, nhưng không biết phải làm gì. Một người đàn bà lên tiếng:
- Chắc bị chết cóng! Tội nghiệp quá! Chạy kêu Đoàn tổng quản xem ông dạy làm thế nào? Nó đã lỡ nằm chết ở đây chúng ta đâu có thể mang đi ném chỗ nào cho được! Dù sao cũng là con người mà!
Trần Tứ vội chạy đi kêu lão tổng quản, người thay mặt chủ nhân điều hành quán Tư Bụng. Trần Tứ mới khuất vào bên trong, trước cổng quán xuất hiện một cỗ kiệu màu xanh. Thấy cỗ kiệu, người đàn bà kêu lên:
- May quá! Chủ nhân đến kìa!
Phạm tiên sinh khoảng năm sáu mươi, râu ba chòm lốm đốm bạc, mặc áo lụa đen, chống cây gậy mây đen bóng loáng, bước xuống kiệu, mau mắn:
- Thím Năm! Việc gì đó?
- Thưa tiên sinh, có người nằm chết cóng ở đây!
Phạm tiên sinh không chút hốt hoảng:
- Ồ! Tội nghiệp nhỉ!
Ông ta bước vội vào hàng hiên, những người công nhân giãn ra nhường chỗ cho chủ nhân. Nhìn kẻ bạc phước nằm co rút trên manh chiếu rách, áo quần te tua không che kín thân thể, Phạm tiên sinh thở dài. Ông định ra lệnh cho công nhân mua một chiếc hồm cho xác chết, tống táng làm phước, nhưng đôi mắt ông ta chợt nhìn thấy nằm dài theo xác chết một cây gậy mây dài hơn hai thước, quấn vải chung quanh như cố tình che dấu, nhưng lớp vải đang bong rời ra cho thấy đấy là một cây gậy mây to hơn ngón chân cái, lóng rất ngắn, mỗi lóng chỉ độ vài đốt ngón tay, nổi màu đen bóng, nhưng cũng có nhiều vết như bị gươm đao chém phải. Cây gậy làm Phạm tiên sinh cau mày, rồi vội ngồi xuống lật xác chết lên đưa tay sờ mũi, sờ ngực. Được Phạm tiên sinh lật qua, mọi người mới thấy xác chết là một thiếu niên độ mười sáu, mười bảy tuổi và họ cũng rất ngạc nhiên, Phạm tiên sinh không nề dơ bẩn, rút cây gậy để lên người thiếu niên rồi bồng ngay lên và nôn nóng hỏi đám công nhân:
- Ai trong các ngươi nhà có căn phòng trống?
Trần Tứ lanh miệng:
- Nhà thím Năm có phòng cô Lan mới về quê.
Không chờ người đàn bà cho biết có đồng ý hay không, Phạm tiên Sinh bước đi ngay và hối người đàn bà:
- Thím đi theo chỉ cho ta căn phòng ấy còn các ngươi thì vào trong kêu người nấu ngay một tô cháo nóng, cho gừng nhiều vào và mang gấp đến cho ta.
Nghe chủ sai khiến, người đàn bà hơi một chút ngần ngừ rồi bôn bả chạy theo và vượt qua mặt Phạm tiên sinh. Khu nhà ở của công nhân quán Tư Bụng mái tranh vách đất, nhưng có mấy chục căn như một xóm nhỏ, nằm sau sân tửu quán, ngăn cách bởi một hàng dương liễu xanh và ra vào có một cánh cổng cây nặng nề. Mụ Năm xăn xái chạy trước chủ nhân, vì ta ta biết mình phải mở cánh cổng này cho ông chủ và đưa ông ta đến căn nhà mình, một căn nhà hẻo lánh nằm sau bờ ao của khu dành riêng cho nữ nhân, lại cũng có một hàng dậu tre và một cánh cổng phân biệt với khu nam nhân và người có gia đình.
Mụ Năm vừa đi vừa chạy, vì Phạm tiên sinh bồng thiếu niên đi rất nhanh. Khi đến căn nhà của mình, mụ đã thở hào hễn, và rất ngạc nhiên không ngờ Phạm tiên sinh thân thể văn nhược, tuổi đã lớn nhưng bồng một người, đi nhanh như vậy mà không tỏ ra có chút gì mệt nhọc.
Phạm tiên sinh đặt thiếu niên lên chiếc giường gỗ nhỏ, bảo mụ Năm:
- Thím đi đốt cho tôi một chậu lửa than.
Khi mụ Năm đi khỏi, Phạm tiên sinh hít một hơi chân khí, rồi đôi bàn tay bắt đầu chà xát lên thân thể thiếu niên. Một lúc sau gã rên ư ử và mở mắt. Phạm tiên sinh dừng tay mỉm cười thân thiện:
- Cậu đã thoát chết rồi đấy.
Thiếu niên mấp máy môi, thều thào:
- Đa tạ đại bá!
Câu nói văn vẻ của cậu bé làm Phạm tiên sinh cảm thấy những gì mình nghi ngờ là đúng. Ông cầm cây gậy mây để bên cạnh thiếu niên, kéo tấm chăn đắp cho và với giọng chí tình:
- Lão phu chưa biết tiểu hữu là ai, gặp hoàn cảnh hung hiểm nào mà đến nông nổi này, nhưng cứ yên tâm nằm đây tịnh dưỡng cho đến khi khỏe hẳn. Tiểu hữu bị đói lạnh lâu ngày, ngoài ăn uống, cũng phải uống thêm vài thang thuốc nữa mới hoàn toàn bình phục.
Đôi mắt thiếu niên chợt đỏ hoe vì xúc động, Phạm tiên sinh cầm cây gậy mây của mình lên tay, và hình như ông ta cố tình khuyến khích thêm lòng cầu sinh của người thiếu niên:
- Thân thể thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương hiếu chi thủy giả. Tiểu hữu không nên ngại ngùng sự giúp đỡ của người khác. Có khỏe mạnh mới chu toàn được sự hiếu thảo của mình với đấng sinh thành, không nói là còn có thể tiến lên sống xứng đáng là một đấng trượng phu trong tương lai. Tiểu hữu nghỉ ngơi, một hai ngày sau lão phu trở lại sẽ chuyện vãn nhiều hơn.
Phạm tiên sinh bước ra khỏi phòng dặn dò người đàn bà chủ nhà:
- Lão phu sẽ nói cho tổng quản biết thím phải ở nhà năm ngày để săn sóc cho cậu ấy. Thím phải tận tình săn sóc cho tôi. Sáng nay chỉ cho ăn cháo, trưa cho ăn cháo tiếp và chiều có thể cho ăn cơm được. Đồ ăn lão phu sẽ bảo người trong tửu quán mang đến cho thím và cậu ấy. Thuốc khi có người mang đến, thím cứ đổ ba bát nước, sắc còn một bát là được
Người đàn bà xuýt xoa:
- Chủ nhân thật nhân từ không ai bằng. Cậy ấy thật có phước lớn mới gặp được ngài.
Tiếng Phạm tiên sinh nghiêm nghị:
- Trong ba ngày cậu ấy không bình phục, tôi sẽ hỏi tội thím đấy!
- Dạ! Tiểu nhân đâu dám không hết lòng..
Và mụ Năm cau mày:
- Sao lâu quá chưa ai mang cháo tới vậy kìa?
Tiếng Trần Tứ ngòai ngõ:
- Có rồi đây!
Phạm tiên sinh:
- Nếu cậu ấy không ngồi lên nổi, thím đút cho cậu ấy. Con bệnh này lão phu hoàn toàn giao cho thím.
Thím Năm đón lấy tô cháo từ tay Trần Tứ, nhìn bóng Phạm tiên sinh khuất sau hàng dậu, cảm khái:
- Chủ nhân thật là một người nhân hậu.
Trần Tứ:
- Việc này ai mà không biết. Thằng nhỏ này cũng có phước rất lớn. Thôi thì thím rán mà chăm sóc cho nó để đức cho con cháu!
- Tổ bà mi! Ta có con cháu gì đâu mà mi nói thế?
Trần Tứ cười:
- Cô Lan chẳng phải là cháu thím hay sao? Thím gả cô Lan cho tôi thì chúng tôi coi thím như mẹ, cũng là con cháu thím vậy!
Thím Năm mắng:
- Cái mặt mi khi không có nó thì miệng như bôi mỡ, còn thấy nó thì lấm la lấm lét để đấy mà nó chịu lấy mi.
Trần Tứ hỏi:
- Cô Lan có đọc chữ được không thím Năm?
- Ngươi mà viết được hay sao mà hỏi?
- Thì cháu nhờ người viết hộ.
Thím Năm mắng:
- Nó biết ngươi nhờ người viết, thì nó lại càng chẳng đọc. Hừ! Ta nói cho mà biết, nó không học được chữ nghĩa bao nhiêu nhưng múa roi đi quyền thì nó không thua đàn ông. Ngươi liệu hồn đấy!
Trần Tứ le lưỡi:
- Thế thì kiếp này Tứ này đành sống cảnh thầm yêu trộm nhớ!
- Cũng chữ nghĩa văn hoa lắm đấy! Thôi để ta đem cháo vào cho cậu ấy. Ngươi không cút đi coi chừng lão Đoàn sẽ mắng cho một trận.
Thím Năm không để Trần Tứ có cơ hội nói thêm, bà bưng tô cháo còn nóng đem vào phòng cho thiếu niên. Trong ánh sáng lờ mờ, bà thấy gã đang nằm bất động ngó lên mái nhà, hai hàng nước mắt chảy dài, bà cảm thấy thương hại cho gã, dịu dàng:
- Cậu thoát chết là may mắn lắm. Có thể ngồi dậy nổi không? Hãy ăn tô cháo cho mau lại sức.
Gã thiếu niên gạt hàng nước mắt:
- Cảm ơn thím! Cháu có thể ngồi dậy được.
Gã chống tay ngồi lên. Thấy thiếu niên mặt mày dơ bẩn, bà Năm xua tay:
- Cậu đợi tôi một chút.
Bà ta chạy ra nhà sau và đem vào một chiếc khăn nóng:
- Sẵn có nước nóng để tôi lau sơ mặt mũi cho cậu.
Không đợi gã thiếu niên bằng lòng hay không, bà ta ngồi xuống giường lau tay chân, mặt mày cho cậu ta. Khuôn mặt óm đói, lem luốc được chiếc khăn nước nóng lau qua làm bà Năm ngừng tay, bà đang chú ý đến cặp lông mày lưỡi kiếm thật dài và đôi hàng lông mi cũng thật dài và cong vút trên hai cặp mắt to đen của thiếu niên. Bà ta ngắm gã và khen:
- Cậu mập mạp ra một chút, tóc tai chải gỡ sạch sẽ thì đúng là một thiếu niên đẹp trai. Cậu được bao nhiêu tuổi rồi?
- Dạ cháu năm nay mười lăm tuổi.
- Trời đất! Cậu da bọc xương, nhưng cao tồng ngồng những tưởng là mười sáu, mười bảy rồi kia chứ. Nhìn tướng mạo và cậu mau lớn thế này hẳn cũng con nhà khá giả.
Không chờ gã thiếu niên đang húp cháo trả lời. Bà Năm lại mau miệng xít xoa:
- Thời buổi hỗn vua hỗn quan, người ta giết chóc nhau như cơm bữa nhiều nhà quan quyền táng gia bại sản là chuyện thường. Thôi cậu đừng buồn nữa. Đại nạn không chết sẽ có phước lớn.
Thiếu niên:
- Cảm ơn thím Năm.
Gã đưa cái tô không lại cho bà Năm, bà ta như muốn nói chuyện tiếp nhưng thấy gã có vẻ uể oải, nên đứng lên:
- Cậu nghỉ một chút. Trưa tôi sẽ lấy cho cậu một tô cháo thịt. Ồ! Tôi đã thổi chậu lửa cho cậu để tôi bưng vào cho ấm.
Thiếu niên:
- Được đắp chăn như thế này cháu đã cảm thấy ấm áp lắm rồi thím Năm không cần phải mệt nhọc vì cháu.
Bà Năm:
- Ta phải làm theo lời dặn của tiên sinh, nếu không ông ta lại quở trách.
Bà năm khuất sau cánh cửa, một lúc sau khệ nệ mang vào phòng một lò lửa hồng. Bà thấy thiếu niên nhắm mắt nên không nói thêm lời nào nữa. Khi rời khỏi phòng bà ta đóng nhẹ cánh cửa lại để cho căn phòng thêm ấm áp.
Trong căn phòng nhỏ khép kín với một lò than to, giây lát thấy nóng, thiếu niên gỡ chăng ra và ngủ thiếp.
Tô cháo, căn phòng ấm và giấc ngủ làm thiếu niên cảm thấy khỏe hẳn ra khi thức giấc. Đã quen với đói rét, nhưng bây giờ gã cảm thấy đói và mũi gã đang nghe mùi thơm thoang thoảng của thịt thà hành tiêu trong căn nhà càng cảm thấy đói hơn. Thiếu niên không phải chờ lâu, thím Năm đẩy cửa bước vào. Cửa mở rộng, mùi thơm của gừng, của hành, của thịt tạt vào làm gã tự nhiên phải hít một hơi mạnh vào lồng phổi. Thím Năm cười:
- Tôi định vào đánh thức cậu đây. Cậu đã dậy để tôi đem cháo vào cho cậu.
Thiếu niên nuốt nước bọt, nhưng gượng gạo:
- Thím đã cho ăn, hay để cháu tự đi lấy khỏi làm phiền thím.
Thím Năm xua tay:
- Ấy chết, chủ nhân lo cho cậu lắm đấy. Cậu ăn cháo rồi tôi còn sắc thuốc cho cậu uống, nấu nước cho cậu tắm rửa nữa. Ông chủ mới sắm cho cậu mấy bộ áo quần thật đẹp.
Thiếu niên kêu lên:
- Ông chủ giúp đỡ cháu thế này, biết làm sao đền ơn cho được.
- Ông chủ từ xưa nay rất nhân từ, luôn luôn giúp đỡ mọi người, nhưng hình như ông đặc biệt quan tâm đến cậu. Nếu không quá quan tâm đến cậu thì ông ta không đích thân ẵm cậu từ tửu quán về đây cũng như ông ta cũng không còn ngại ngùng phải đến khu nhà nữ công nhân bọn tôi. Cậu muốn đền ơn thì rán ăn khỏe vào, cậu khỏe ra tôi cũng được chủ nhân khen thưởng.
Bà ta vừa dứt lời, trở ra nhà ngoài và mang vào một khay có ba chén cháo thịt bốc khói nghi ngút. Thiếu niên ngồi rột dậy hai tay run run đưa ra định đỡ lấy, nhưng thím Năm đặt khay cháo trên chiếc bàn nhỏ:
- Tôi nghĩ nếu cậu ngồi dậy được thì ngồi lên ghế mà ăn có lẽ thoải mái hơn.
Gã thiếu niên gần như có một sức mạnh nào kéo tới, tụt nhanh xuống giường và cắm cúi vào những chén cháo trên khay. Gã vừa thổi vừa ăn, thím Năm thấy trán và người gã đổ mồ hôi lấm tấm. Nhìn gã thiếu niên đang cắm cúi ăn, thím nghĩ thầm ông chủ của mình đã lo cho gã thái quá. Chỉ cần cho ăn no vài bữa là gã sẽ mạnh như thần, đâu cần phải uống thuốc, nhưng ông chủ của thím đã cho người mang thuốc tới và thím đang phải sắc! Dù sao phục dịch gã thiếu niên này thím cũng không lỗ lã. So với một ngày làm trong tửu quán công việc phục dịch gã nhẹ nhàng hơn nhiều mà ông chủ còn hứa thưởng công bội hậu.
Thiếu niên ăn xong mấy chén cháo thở phào:
- Chưa bao giờ cháu được ăn ngon như thế này! Cảm ơn thím Năm nhiều lắm.
Thím Năm tò mò dò hỏi:
- Cậu từ đâu tới và tên là gì vậy?
Thiếu niên ngần ngừ giây lát:
- Cháu người lộ Tam giang, tên là Tích Nhân.
Tích Nhân cười buồn:
- Gia phụ muốn cháu lớn lên làm một con người biết tu nhân tích đức, thế nhưng cháu đang sống nhờ vào lòng nhân từ của mọi người.
Thím Năm an ủi:
- Cuộc đời cậu còn dài kia mà! Sao cậu lại lưu lạc thế này?
Tích Nhân xa vắng:
- Cha mẹ cháu đều mất và không còn ai là người thân thích.
- Tội nghiệp cậu quá. Nhưng cậu còn trẻ thì lo gì!
Tích Nhân lại dò hỏi thím Năm về Phạm tiên sinh:
- Phải chăng Phạm tiên sinh thường cứu giúp những người cùng khổ?
- Ồ! Tiên sinh rất nhân hậu, mỗi tháng ông ta thường trích một ngân khoản của tửu quán để bố thí. Ông ta đối đãi với người ăn kẻ ở cũng vô cùng nhân ái. Ta đây, nếu không nhờ ông thu dụng thì hôm nay không biết phải sống như thế nào.
- Tiên sinh đã từng tử tế với ai như đối với cháu không?
- Ta chưa thấy, nhưng biết đâu cậu là thiếu niên đầu tiên nằm chết cóng nơi hàng hiên tửu quán. Ba năm trước có một lão ăn mày nằm chết ở hàng hiên, sau khi báo quan, tiên sinh đã cho mua hồm chôn cất tử tế.
- Tiên sinh đúng là người nhân hậu.
Thím Năm:
- Ta đi sắc thuốc cho cậu. Ta nghĩ trong người cậu rất nhiều chấy rận. Sau khi uống thuốc phải tắm rửa, ta thay mền chiếu đem đi giặt kẻo con Lan của ta nó về nó lại trách cứ ta. Ta nghĩ, thay vì nằm trong phòng cháu gái của ta, cậu có thể tạm nằm ở tấm ván phòng trước, đóng cửa lại cũng đủ ấm.
Tích Nhân:
- Thím cho cháu nằm nơi đâu cũng được. Xin lỗi đã làm phiền thím quá nhiều.
- Ta giúp cậu vì lệnh của Phạm tiên sinh, cậu không phải cứ mỗi chút là cám ơn ta.
Bà ta cười:
- Cậu cám ơn, mai sau nếu Phạm tiên sinh nhận cậu làm con hay làm rể thì mong cậu giúp lại ta.
Thím Năm ra ngoài, bấy giờ Tích Nhân mới để ý đến căn phòng nhỏ của cô gái tên Lan. Phòng tuy đơn sơ, nhỏ bé nhưng mọi thứ đều sạch sẽ, gọn ghẽ. Tích Nhân tự dưng cảm thấy có lỗi với cô gái chủ nhân và hy vọng cô ta sẽ chẳng bao giờ biết trên chiếc giường của cô ta, thân hình dơ bẩn, chấy rận của mình đã từng nằm trên đó. Tuy vậy, ngồi trên ghế một lúc Tích Nhân lại muốn ngã lưng. Mấy năm nay chưa bao giờ được biết đến cái giường là gì, Tích Nhân thèm được nằm.
Đã được ngủ một giấc từ sáng đến trưa nên muốn ngủ cũng không ngủ được, Tích Nhân trăn trở mãi và bất ngờ tay đụng phải một cái gì trên thành giường sát vách, một tiếng cắc vang lên và chiếc chiếu bị đẩy cao lên khoảng nửa gang tay. Ngạc nhiên, Tích Nhân kéo chiếu xa xem thì đó là một cái hộc nhỏ bên trong có một cây kiếm dài, da bao kiếm đã lên màu đen và cán kiếm cũng lên màu đen bóng. Nằm trên đầu cán kiếm là một gói vải đen. Tích Nhân mở ra xem bên trong là cuộn giấy da vàng thếch. Biết đây là bảo kiếm và kiếm quyết của nhà cô gái, Tích Nhân không dám tò mò thêm nữa mà vội đẩy nắp đậy lại. Khi đẩy cái nắp đậy lại, Tích Nhân cũng nghe một tiếng cắc và nắp cái hộp dài nhỏ ngụy trang thành thành giường liền lặn không biết chỗ nào để có thể mở lại nữa.
Phát hiện tình cờ làm Tích Ngân cau mày, và vội nằm xuống, nhắm mắt. Bên ngoài, xen tiếng gió thổi vi vút, là bước chân người đàn bà tên Năm đi qua, đi lại xê dịch, lục đục trong căn nhà. Không hiểu giả vờ hay ngủ thật, khi người đàn bà tên Năm vào phòng, bà ta phải lay mấy lần Tích Ngân mới mở mắt. Trên chiếc bàn nhỏ bà Năm đã để tô thuốc còn bốc hơi:
- Cậu dậy uống thuốc.
Tích Nhân ngồi lên dụi mắt, ngái ngủ:
- Đa tạ thím. Nhưng cháu muốn đi.. Một chút.