VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU
Tác giả: DƯƠNG QUẢNG HÀM
BIÊN TẬP ĐẠI Ý
Quyển này gồm có hai phần:
1) Phần lược khảo về văn học lịch sử nước Việt Nam nhan là “Việt Nam văn học sử yếu”
2) Phần trích lục những bài thơ văn cổ kim viết bằng Việt văn để dùng trong khoa giảng văn , nhan đề là “Việt Nam thi văn hợp tuyển”
Việc khảo cứu về văn học lịch sử nước Nam.
Ai cũng biết rằng hiện nay không có quyền sách nào chép về văn học lịch sử nước ta, không nói gì những sách tham khảo tinh thường cho các học giả dùng, ngay đến những sách tóm tắt các đại cương cho học sinh dùng cũng không có. Gần đây, các báo chi, thỉnh thoảng có những bài nghiên cứu về một tác giả, một tác phẩm hoặc một vấn đề thuộc về văn học sử của ta. Lại có mâý nhà khảo cứu người Pháp đã dịch những tác phẩm của ta sang Pháp văn hoặc theo các tài liệu trong sử sách của ta mà viết những thiên chuyên khảo về văn tịch nước ta. Nhưng các bài khảo cứu ấy còn tản mạn ở các sách, các báo và chưa thành hệ thống gì. Lại có nhiều vấn đề vì còn thiếu tài liệu để kê cứu nên chưa thể giải quyết được.
Nay chúng tôi lấy tài sơ học thiển soạn ra quyển Việt Nam Văn Học Sử Yếu nầy, cũng tự biết là làm một việc quá bạo và chắc rằng tác phẩm của chúng tôi còn nhiều điều thiếu thốn, phải đợi công cuộc khảo cứu tra tầm của các học giả sau nầy mà bổ khuyết dần.
Dù sao chăng nữa, trong việc biên tập, chúng tôi đã hết sức cẩn thận. Khi xét về vấn đề nào trước hết sưu tập các tài liệu tản mạn ở các sách các báo, rồi khảo sát, suy nghĩ: điều gì xác thực chắc chắn mới chép, điều gì còn hồ nghi thì để huyền, điều gì có nhiều thuyết tương đương thì giải bày rõ ràng để sau nầy có thể nghiên cứu thêm mà quyết định.
Tóm lại, chúng tôi lấy sự thực làm trọng; không khi nào dám lấy ý riêng mà giải quyết một nghi vấn theo cách võ đoán, cũng không hấp tấp theo liêù những ý kiến thông thường nhiêù khi sai lầm hoặc thiên lệch. Bởi thế, mỗi việc quan trọng kể ra, mỗi cái chứng cớ dẫn ra, thường có chưa rõ xuất xứ. Cuối mỗi chương, đều có kể rõ các tác phẩm để kê cứu và các bản in, bản dịch để độc giả có thể theo đó mà kiểm điểm những điều đã chép ở trên.
Về mỗi tác giả nói đến trong sách (trừ những tác giả còn sống) , chúng tôi có kèm theo một cái tiểu truyện: những điều nói trong tiểu truyện nầy (năm sinh, năm mất, năm thi đỗ, quê quán v.v...) chúng tôi đã kê cứu cẩn thận ở các sử ký liệt truyên đăng khoa lục, v.v. ..
Cuối mỗi chương, thường có các bài đọc thêm, hoặc trích ở những tác phẩm đã xuất bản, hoặc tự chúng tôi biên dịch ra để độc giả được hiểu rõ một vấn đề quan trọng đã nói đến ở trong chương.
Ở cuối sách, có một bản liệt kê tên các tác giả và các tác phẩm theo thứ tự A B C; sau mỗi tên có chứa số trang trong sách đã nói đến tác giả hoặc tác phẩm ấy để độc giả tiện sự tra cứu.
Việc sắp đặt và lựa chọn các thơ văn trích lục
Việc học văn học sử phải căn cứ vào các tác phẩm: học trò không những cần biết những điều cốt yếu về thân thế và văn nghiệp của mỗi tác giả, lại cần đọc nhiều thơ văn của tác giả ấy mới có thể lĩnh hội được cái khuynh hướng về tư tưởng và cái đặc sắc về văn từ của tác giả ấy. Bởi thế phần thứ nhì quyển nầy, “Việt Nam thi văn hợp tuyển vừa là một tập hợp những bài thơ văn hay để dùng trong khoa giảng quốc văn, vừa là một tập khảo chứng cốt làm tỏ rõ những điều đã nói trong phần “Văn Học Sử Yếu”. Nên, muốn cho tiện việc đối chiếu, chúng tôi hợp các bài cùng một tác giả lại với nhau và sắp đặt các tác giả theo thứ tự thời gian, trừ các ca dao và các tác phẩm vô danh để lên đầu sách.
Trong việc lựa chọn, chúng tôi chú ý đến những bài không những có giá trị về đường tư tưởng và đường văn từ mà lại có thể làm tiêu biểu cho công trình trứ thuật của tác giả.
Việc khảo sát, dẫn giải, chú thích các thơ văn trích lục
Trước khi trích lục một tác phẩm trường thiên nào, chúng tôi có tóm tắt đại ý và lược thuật các tình tiết trong tác phẩm ấy để học trò được biết ý nghĩa của toàn thiên mới hiểu rõ các đoạn trích lục ở sau.
Các bản in quốc ngữ những thơ văn cổ (trừ những bản đứng đắn do các học giả chủ trương) thường có nhiều chỗ sai lầm làm mất cả ý nghĩa nguyên văn, nên chúng tôi đã so sánh các bản và nhiều khi phải tra ở các bản Nôm cũ để khảo sát lại, rồi lựa bản nào xét ra đúng hơn cả in vào trong bài làm bản chính, còn các bản chép khác đều in ở dưới bài để tiện việc khảo cứu, trừ những bản hiển nhiên là sai lầm (hoặc in sai, hoặc phiên âm sai) không kể; ở một vài chỗ chúng tôi lại giải rõ cái lẽ sỡ dĩ đã chọn lấy một chữ khác với chữ vẫn thường thấy.
Trong nguyên văn ,thứ nhất là trong các thơ văn cổ có những điểntích hoặc chữ khó nào, đều có chú thích kỹ lưỡng. Những từ ngữ gốc ở Hán tự, đều có chữ Nho bên cạnh và giảng nghĩa đen từng chữ để học trò được hiểu rõ.
Đó là những phép tắc chúng tôi đã theo để soạn thành quyển sách nầy. Còn về việc ghi chép, chúng tôi lấy sự minh bạch làm trọng: đoạn mạch cốt sắp đặt rõ ràng, lời văn vụ bình thường giản dị, dù vậy quyển sách nầy có nhiều chỗ thiếu thốn sơ lược, sau nầy cần phải bổ khuyết hoặc giải thích thêm, chúng tôi cũng mong rằng quyển sách nầy sẽ là một bức bản đồ giản ước theo đó các bạn thanh niên biết được phương hướng và đường lối chính để đi vào khu vườn văn học của nước ta, ngõ hầu một ngày kia tìm thấy những hoa lạ, quả quý hiện nay còn ẩn khuất trong đám cành lá rậm rạp, thì thật là hân hạnh cho chúng tôi lắm.
.
Hà nội, tháng sáu tây năm 1941.
.
Dương Quảng Hàm
Chương dẫn đầu
Văn chương bình dân.
Ở nước ta, cũng như ở các nước khác, trước khi các nhà học thức viết những bài văn theo khuôn phép hẳn hỏi, thì người bình dân trong nước đã biết đem tư tưởng tính tình mà diễn thành những câu tục ngữ, những bài ca dao theo giọng điệu tự nhiên.
Văn chương bình dân ấy tuy không theo phép tắc nhất định như văn chương bác học , nhưng cũng có nhiều áng hay, đời đời do sự khẩu truyền mà lưu lại đến nay, rất phong phú; lại biểu lộ tính tình phong tục của dân ta một cách chất phác, chân thực; thật là một cái kho tài liệu quí hóa cho ta. Vậy ta phải xét trước tiên nền văn chương bình dân ấy (chương thứ 1)
Ảnh hưởng của người Tàu
– Dân tộc ta, sau khi chiếm lĩnh đất Bắc kỳ và phía bắc Trung kỳ và tự tổ chức thành xã hội – lúc ấy dân ta còn ở trong trình độ bán khai – thì bị nước Tàu chinh phục và đô hộ trong hơn một nghìn năm (từ 207 tr,Tây lịch đến 939 s. TL)
Trong thời kỳ ấy, dân ta chịu ảnh hưởng của người Tàu về cả các phương diện: chính trị, xã hội. luân lý, tôn giáo, phong tục. Riêng về đường văn học, dân ta học chữ Nho, theo đạo Nho, thâu thập dần tư tưởng và học thuật của người Tàu. Bởi thế ta phải xét đến cái ảnh hưởng ấy và những duyên do khiến cho văn học Tàu truyền sang nước ta; đó là chủ địch các chương thứ II, III, IV, V và VI.
Các chế độ: phép hịch, phép thi – Các ảnh hưởng của người Tàu rất là sâu xa, nên sau này tuy dân ta lấy lại được nền tự chủ về đường chánh trị mà về đường tinh thần, thứ nhất là đường văn học, dân ta vẫn phụ thuộc vào nước Tàu.
Trong non một ngàn năm (từ năm 939 đến cuối thế kỷ thứ XIX) trải mấy triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý Trần, Hậu Lê và Nguyễn, chữ Nho vẫn được coi làm chữ của chánh phủ dùng: học hành, thi cử, luật lệ, dụ sắc, giấy tờ việc qua đều dùng chữ nho; các sĩ phu trong nước vẫn học các kinh truyện, sử sách của Tàu, đọc các thơ văn, tác phẩm của Tàu, rồi đến lúc ngâm vịnh, trứ thuật cũng viết bằng chữ Nho. Bởi vậy ta phải xét các chế độ do các triều vua đặt ra để qui định việc học, việc thi, và khuyến khích việc văn học trong nước thế nào; đó là chủ đích các chướng thứ VII, VIII, IX và X.
Các thể văn – Tuy các sĩ phu học chữ Nho, thi chữ nho, viết văn chữ nho, nhưng một đôi khi, do cái bản tính thiên nhiên, cũng nhớ đến tiếng Nam là thứ tiếng hàng ngày vẫn và vẫn nghe, mà đem giải bày tư tưởng, tính tình bằng tiếng ấy, thứ nhất là những khi có mối cảm xúc băn khoăn ở trong lòng. Bởi thế, dù tiếng Nam không được Triều đình săn sóc đến. lại nhiêù khi bị phái nhà Nho khinh bỉ coi là “nôm na mách qué” mà vẫn sản xuất ra văn chương; không những thư văn bình dân như trên đã nói, mà từ khi Hàn Thuyên (hạ bán thế kỷ thứ XIII) biết phỏng theo Đường luật làm thơ phú bằng tiếng Nam, thì các học giả theo gương ông mà kế tiếp viết nhiều bài văn Nôm.
Thành ra, không kể những tác phẩm viết bằng Hán văn, nay ta còn có nhiêù tác phẩm viết bằng Việt văn của các tiền nhân để lại.
Tuy nhiên, ngay trong những tác phẩm viết bằng Việt văn ấy, các tác giả cũng vẫn không thoát ly ảnh hưởng của văn chương Tàu.
Trừ mấy thể riêng của ta, phần nhiều các thể văn lắp phỏng theo của Tàu … Đề mục, văn liệu, điển tích phần nhiều cũng mượn của Tàu. Ngay thứ chữ dùng để viết văn tiếng nam ấy cũng do sự ghép các bộ phận của chữ Nho mà đặt ra: tục là chữ Nôm.
Vậy ta phải xét các thể văn, hoặc mượn của Tàu, hoặc tự ta đặt ra mà các nhà làm văn nước ta đã viết bằng chữ Nôm: đó là chủ đích các chương XI, xIII, XIV, XV, XVI và XVII.
Ảnh hưởng của người Pháp
– Dân tộc ta chịu ảnh hưởng duy nhất của người Tàu mãi đến thế kỷ thứ XVII là lúc những người châu Âu sang nước ta hoặc để buôn bán, hoặc để truyền giáo, trong số các giáo sĩ, phải kể ông cố đạo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes là người thông thạo ngôn ngữ, phong tục, lịch sử của nước ta lắm. Các giáo sĩ ấy đã mượn những tự mẫu La Mã đặt ra một thứ chữ để viết tiếng ta một cách giản tiện : tức là chữ Quốc ngữ. Nhờ có sự sáng tác ấy, dân ta có một thứ chữ có quy cũ để viết tiếng Nam và cũng nhờ đó mà nền quốc văn gần đây mới thành lập được. Bởi thế ta phải xét vấn đề đó trong chương thứ XVII.
Vấn đề ngôn ngữ văn tự.
- Nay người nước Nam ta cũng biết lấy tiếng nước Nam làm trọng, ai cũng mong cho quốc văn một ngày một phát đạt, vậy ta phải xét đến vấn đề ngôn ngữ văn tự của ta, thứ nhất là sự khác nhau của tiếng Bắc , tiếng Nam, để nhận rõ nguyên do, thể cách sự khác nhau ấy và tìm phương bổ cứu, ngõ hầu một ngày kia tiếng ta thành nhất trí và có chuẩn đích, khiến có thể trở nên một thứ văn tự hoàn toàn được. Đó là chủ địch chương thứ XIX.
Chương thứ nhất: Văn chương truyền khẩu
Văn chương truyền khẩu – Như chương dẫn đầu đã nói, ở nước ta, trước khi có văn chương bác học, đã có một nền văn chương bình dân truyền khẩu.
Văn chương truyền khẩu ấy là tục ngữ và ca dao.
Vậy ta phải xét nền văn ấy trước.
1. Tục ngữ
Định nghĩa những chữ tục ngữ, ngạn ngữ, và phương ngôn.
- tục ngữ (tục: thói quen có đã lâu đời ngữ: lời noí) là những câu nói gọn ghẽ và có ý nghĩa lưu hành tự đời xưa, rồi do cửa miệng người đời truyền đi. Tục ngữ còn gọi là ngạn ngữ ngữ , vì chữ ngạn nghiã là lời nói của người xưa truyền lại.
Còn phương ngôn (phương; địa phương, vùng) là những câu tục ngữ chỉ thông dụng trong một vùng chứ không lưu hành khắp trong nước.
Nguồn gốc của tục ngữ :- Xét về nguồn gốc, ta có thể chia tục ngữ ra làm hai loại:
1) Những câu vốn là tục ngữ, tức là những câu nói thường, lúc ban đầu chắc cũng do một người phát ra trước tiên, rồi vì ý nó xác đáng, lời nó gọn ghẽ, người khác nghe đến nhớ ngay, sau cứ thế nhắc lại mà truyền tới bây giờ, đến nay ta không biết tác giả là ai nữa. Những câu về loại này chiếm phần nhiều nhất.
2) Những câu vốn là thơ ca mà sau biến thành tục ngữ. Những câu nguyên ở trong một bài thơ hoặc một bài ca của một tác giả nào, nhưng vì ý đúng, lời hay, nên người ta truyền tụng đi mà làm thành một câu tục ngữ.
Thí dụ: Câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân” vốn là một câu trong tập Gia huấn ca của Nguyễn Trãi.
Hình thức của tục ngữ: -xét về hình thức, tục ngữ có thể chia ra làm hai loại.
1) Những câu không vần, có ít. Những câu này có hai cách đặt:
a) Hoặc đặt lấy đối: một câu chia làm hai đoạn đối nhau.
Thí dụ: “Giơ cao đánh sẽ”- “No nên bụt, đói nên ma”.
b) Hoặc đặt không đối, chỉ cốt ý đúng lời gọn thôi.
Thí dụ: “Mật ngọt chết ruồi”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
2) Những câu có vần, rất nhiều.
Vần trong các câu tục ngữ thường là yêu vận (yêu:lưng) nghĩa là vần ở lưng chừng câu, thỉnh thoảng mới có cước vận (cước: chân) nghĩa là vần ở cuối câu.
Thí dụ: “Ăn cây nào, rào cây ấy” , “Nói ngọt lọt đến xương” – “Khôn cho người vái, dại cho người thương, dở dơ ương ương, tổ người ta ghét”.
Ý nghĩa các câu tục ngữ - tục ngữ của nước ta rất nhiều mà mỗi câu mỗi ý.
Tựu trung, ta cũng có thể chia làm mấy loại như sau:
1) Những câu thuộc về luân lý. Những câu nầy:
a) Hoặc dạy đạo làm người.
Thí dụ: “tốt danh hơn lành áo” – “Giấy rách giữ lấy lề”, “Sống đục sao bằng thác trong”.
b) Hoặc cho ta biết những lý sự đương nhiên.
Thí dụ “Khôn sống, mống chết” , -“Mạnh được, yếu thua”.
Hoặc dạy khôn dạy ngoan.
Thí dụ “Ăn cổ đi trước, lội nước đi sau”, “gửi lời thì nói , gửi gói thì mở” – “Ăn no nằm ngũ, chờ bàu chủ mà lo”.
Nền luân lý trong tục ngữ là một nền luân lý bình thường, tuy không có tính cách cao siêu nhưng cũng đủ khiến cho người ta thành một người lương thiện và không đến nỗi khờ dại để người khác khác lường gạt được.
2) Những câu thuộc về tâm lý người đời. Những câu nầy là tả thế thái nhân tình, nhờ đó mà ta biết được tâm lý của người đời.
Thí dụ “Của người bồ tát, của mình lạt buộc”, “Vén tay áo xô, đốt nhà táng giấy” ,”Yêu nên tốt, ghét nên xấu” , “Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen”.
3) Những câu thuộc về phong tục, nhờ đó mà ta biết các tập tục, tín ngưỡng ở nước ta.
Thí dụ: “Một miếng giữa làng, bằng một sàng xó bếp”, “Vô vọng bất thành quan” , “ Cao nấm ấm mồ”, “Sống về mồ mả, không sống về cả bát cơm.”
4) Những câu thuộc về thường thức. Những câu nầy:
a) Hoặc nói về thời tiết.
Thí dụ: Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”, “Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão”.
b) Hoặc nói về việc canh nông.
Thí dụ: “Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa”. “Lúa giỗ, ngả mạ; vàng rạ thì mạ xuống đồng”.
c) Hoặc nói về thổ sản.
Thí dụ: Dưa La (1), cà Láng (2), nem Báng (3) , tương Bần (4), nước mắm Vạn Vân (5), cá rô Đầm Sét (6).
d) Hoặc nói về lễ phép, thù ứng.
Thí dụ: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “ăn miếng chả, trả miếng nem”, “Có đi có lại, mới toại lòng nhau” v.v..
(1) La: tức là tổng La nội, phủ Hoài đức, tỉnh Hà Đông.
(2) Láng: tên nôm của làng Yên lãng, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà đông.
(3) Báng có lẽ là làng Đình bảng, phủ Từ sơn, tỉnh Bắc ninh.
(4) Bần : tên nôm của làng Yên nhân, phủ Mỹ hào, tỉnh Hưng yên
(5) Vạn Vân (vạn: làng bọn thuyền chài), tức là tổng Vân hải huyện Hoành hồ, tỉnh Quảng yên.
(6) Đầm sét: tên nôm của làng Diêm khê, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà đông.
Những câu nầy là do những điều kinh nghiệm của cổ nhân đã chung đúc lại, nhờ đấy mà người dân vô học cũng có một cái tri thức thông thường để làm ăn và cư xử ở đời.
Thành ngữ: Thành ngữ là những lời nói do nhiều tiếng ghép lại đã lập thành sẵn, ta có thể mượn để diễn đạt một ý tưởng của ta khi nói chuyện hoặc viết văn.
Trong những câu người ta thường gọi là tục ngữ, có rất nhiều câu chỉ là thành ngữ chứ không phải là tục ngữ thật.
Thí dụ: “dốt đặc cán mai”, “Nói toạc móng heo”, “Miệng hùm nọc rắn”, “Tiền rừng bạc bể” .
Sự khác nhau của tục ngữ và thành ngữ là ở chỗ nầy: một câu tục ngữ tự nó phải có một ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì ,còn như thành ngữ chỉ là những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn một ý gì hoặc một trạng thái gì cho có màu mè.
Câu ví: Trong số các thành ngữ của ta, có rất nhiều câu dùng để so sánh hai sự vật với nhau, thứ nhất là một ý nghĩ ở trong trí với một vật, hoặc một cảnh tượng ở ngoài: những câu ấy tức là câu ví. Thí dụ: “đắng như bồ hòn”, “Trắng như trứng gà bóc”, “Lào nhào như cháo với cơm”, “Nhởn nhơ như con đĩ đánh bồng”, “Thẳng như ruột ngựa, “”Nói như đóng đanh vào cột”, “trông như trông mẹ về chợ."
2. Ca dao
Định nghĩa : Ca dao (ca: hát; dao: bài hát không có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả tính tình phong tục của người bình dân. Bởi thế ca dao cũng gọi là phong dao (phong: phong tục) nữa. Ca dao cũng như tục ngữ, không biết tác giả là ai ; chắc lúc ban đầu cũng do một người vì có cảm xúc mà làm nên , rồi người sau nhớ lấy mà truyền tụng mãi đến bây giờ.
Thể văn: - Ca dao viết theo mấy thể văn nầy:
1) Thể lục bát chính thức (câu 6 câu 8 kế tiếp nhau, hoặc thể lục bát biến thức (thỉnh thoảng có xem những câu dài hơn 6 hoặc 8 chữ). Thí dụ:
Thể lục bát chính thức:
Tò vò mà nuôi con dện (nhện)
Ngày sau nó lớn nó quến nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti:
“Dện ơi! Dện hỡi ! Mầy đi đàng nào?”
Thể lục bát biến thức:
Công anh đắp nấm, trồng chanh
Chẳng được ăn quả, vịn cành cho cam
Xin đừng ra dạ bắc nam
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề
Huống tam thu như bất kiến hề,
Đường kia, nỗi nọ như chia mối sầu
Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu
Cầu tre vững nhịp hơn cầu thượng gia.
Bắc thang lên thử hỏi trăng già,
Phải rằng phận gái hạt mưa sa giữa trời.
May ra gặp được giếng khơi,
Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn
Chẳng may số phận gian nan.
Lầm tham cũng chịu phàn nàn cùng ai.
Đã yêu nhau, giá thú bất luận tài!
2) Thể song thất lục bát chính thức hoặc biến thức.
Thí dụ: Thể song thất chính thức:
Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc
Con chàng còn trứng nước thơ ngây.
Có hay chàng ở đâu đây
Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng.
Thể song thất biến thức :
Tròng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái như ai không chồng
Gái có chồng như gông đeo cổ,
Gái không chồng như phản gỗ long đanh.
Phản long đanh anh còn chữa được,
Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi.
Không chồng khốn lắm, chị em ơi!
3) Thể nói lối: câu đặt thường bốn chữ, cứ chữ cuối câu trên vần với chữ thứ hai, hoặc chữ cuối câu dưới. Thí dụ:
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày
Lấy bát cơm đầy
Lấy khúc cá to.
4) Có khi một bài gồm hai hoặc ba thể trên. Thí dụ:
Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân
Nay anh học gần
Mai anh học xa.
Anh lấy em từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường thiếp hãy còn son.
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Cách kết cấu:
a) Theo cách kết cấu (kết: tết lại; cấu: gày thành) nghĩa là cách sắp đặt các ý tứ cho thành một bài văn, thì ca dao chia làm ba thể:
1/Thế phú: phú nghĩa là phô bày, mô tả; trong thể nầy, muốn nói về người nào, việc nào thì nói thẳng ngay về người ấy, việc ấy. Thí dụ:
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Hoặc:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh, nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô.
2/ Thể tỉ: tỉ nghĩa là ví, so sánh; trong thể này, muốn nói gì, không nói thẳng ra, lại mượn một sự vật ở ngoài làm tỉ ngữ để người nghe ngẫm nghĩ mà hiểu lấy cái ý ngụ ở trong.
Thí dụ:
Bài “Tò vò mà nuôi con dện: đã dẫn ở trên.
Hoặc :
Bầu ơi ! thương lâý bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
3/ Thể hứng: hứng là nổi lên, đây nói về tình của người ta nhân cảm xúc vì vật ngoài mà phát ra. Trong thể nầy, trước tả một vật gì làm câu khai mào, rồi mượn đấy mà tiếp tục xuống ý mình muốn nói.
Thí dụ: Bài “quả cau nho nhỏ” đã dẫn ở trên.
Hoặc:
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng ,chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Thời anh mua gạch Bát tràng về xây.
Xây dọc, rồi lại xây ngang.
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
B) cũng có khi một bài kiêm nhiêù thể, như
1/ Phú và tỉ. Thí dụ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bài này vừa tả hoa sen (phú), vừa ví người quân tử với hoa sen (tỉ) .
2/ Phú và hứng. Thí dụ;
Qua cầu ngả nón trông cầu,
Câù bao nhiêu dịp (nhịp), em sầu bấy nhiêu.
Bài này vừa tả cái câầ (phú), vừa mượn cảnh cái cầu mà nói nỗi sầu của mình (hứng)
3/ Hứng và tỉ. Thí dụ;
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung,
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng?
Trong bài này, có mượn cao dao vàng để nói đến tình mình (hứng), vừa ví mình như con dao vàng (tỉ).
4/ Phú, hứng và tỉ. Thí dụ:
Sơn bình Kẻ Gốm không xa,
Cách một cái quán ,với ba quãng đồng.
Bên dưới có sông,
Bên trên có chợ.
Ta lấy mình làm vợ nên chăng?
Tre già để gốc cho măng.
Toàn bài là thể hứng: bốn câu đầu là thể phú; câu cuối là thể tỉ.
Ý nghĩa: Ca dao nước ta thật là phong phú và diễn tả đủ các tình ý trong lòng người và các trạng thái xã hội. Ta có thể chia làm mấy loại như sau:
A) Các bài hát của trẻ con (đồng dao). Thí dụ bài “Thằng Bờm (xem phần thư hai, bài số 2)
B) Các bài hát ru trẻ. Thí dụ: Bài “Bao giờ cho đến tháng ba ..” (Xem phần thứ hai, bài số 3) .
Trong các bài về hai loại trên nầy, có nhiều bài xét toàn thiên không có ý nghĩa gì, chỉ là một mớ chữ sắp thành câu có vần và cũng khiến cho trẻ con thuộc được ít nhiêù danh từ về các vật thường dùng.
Thí dụ:
Ông giẳng ông giăng
Xuống chơi với tôi
Có bầu có bạn
Có ván cơm xôi
Có nồi cơm nếp
Có nệp bánh chưng,
Có lưng hũ rượu,
Có chiếu bám đu,
Thằng cu xí xoá,
Bắt trai bỏ giỏ,
Cái đỏ ẳm em,
Đi xem đánh cá
Có ra vo gạo,
Có gào múc nước
Có lược chải đâù
Có trâu cày ruộng.
Có muống thả ao,
Ông sao trên trời. ..
C) Các bài hát của con nhà nghề. Các người lao động, những lúc làm ăn vất vả, cất tiếng hát một vài câu thì dễ quên nỗi mệt nhọc và được vui vẻ mà làm ăn. Bởi thế, những người cày ruộng, cấy mạ, gặt lúa, hái dâu thường một đôi khi nghêu ngao những câu hát. Lại có nhiêù việc như chèo thuyền, đẩy xe, kéo gỗ, có nhiều người cùng làm với nhau cần phải mượn câu hát để lấy nhịp mà cùng làm cho đều tay. Vì vậy, nên có những bài hát của con nhà nghề. Thí dụ:
1/ Bài hát của người thợ cấy:
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời trong, biển lặng mới yên tấm lòng.
2/ Bài hát của người chèo đò (Xem phần thứ hai, bài số 4)
3/ Bài hát của người tiêù phu (Xem phần thứ hai, bài số 5), v.v. ..
D) Các bài thuộc về luân lý. Thí dụ: Xem phần thứ hai, bài số 6,7,8.
E) Các bài tả tâm lý người đời. Những bài này:
1/ hoặc tả thế thái, nhân tình. Thí dụ: Xem phần thứ hai, bài số 9.10 .
2/ Hoặc ta tư cách các hạng người.
a) Bậc quân tử. Thí dụ bài : “Trong đầm gì đẹp bằng sen .. .” đã dẫn ở trên.
b) Bậc anh hùng. Thí dụ:
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan.
c) Bậc nhân tản. Thí dụ:
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn vũ, hạc là người quen.
d) Người biết tự lập. Thí dụ:
Làm trai có chí lập thân,
Rồi ra gặp hội phong vân cũng vừa.
Nên ra tay kiếm, tay cờ,
Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ tay ai.
e) Người khôn. Thí dụ:
Người không đón trước rào sau,
để cho người dại biết đâu mà dò.
f) kẻ lười. Thí dụ:
Chửa tối đã vội đi nằm,
Em coi giấc ngủ đáng trăm quan tiền.
g) người ăn chơi. Thí dụ:
Ăn được ngủ được là tiên,
Không ăn không ngủ là tiền vất đi.
h) kẻ nói khoác. Thí dụ:
Ở đâu mà chẳng biết ta,
Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên lôi.
Xưa kia ta ở trên trời,
Đứt dây rơi xuống làm người thế gian. v.v.
F) các bài có tính cách xã hội. Những bài nầy:
1/ Hoặc tả tình cảnh các hạng người trong xã hội, thứ nhất là người đàn bà và người nhà quê. Thí dụ: Xem Phần thứ hai, bài số 11,12.
2/ hoặc ta các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, dị đoan của người bình dân nước ta. Thí dụ:
Đàn ông quan tắt thì chầy,
Đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan.
Mồng bốn cá đi ăn thề
Mồng tám cá về, cá vượt vũ môn.
Chẳng thiêng ai gọi là Thần,
Lối ngang đường tắt, chẳng gần ai đi?
Mồng năm, mười bốn, hăm ba (7)
Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn.
G) Các bài dạy những điều thưởng thức. Những bài nầy nói về:
1/ Canh nông. Thí dụ: xem phần thứ hai, số 13.
2/ Sản vật. Thí dụ:
Ai lên Đồng tỉnh, Huê cầu (8)
Đồng tỉnh bán thuốc, Huê cầu nhuộm thâm.
Dù ai đi chợ Thanh Lâm. (9)
Mua anh một áo vải thâm hạt rền.
--
(7) Ba ngày ấy, trong lịch Tàu gọi là “nguyệt kỵ” nghĩa là ngày phải kiêng trong một tháng.
(8) Đồng tỉnh: tên một làng thuộc huyện Văn giang, tỉnh Bắc Ninh – Huê Cầu: tên cũ của làng Xuân cầu, cũng thuộc huyện ấy.
(9) Thanh lâm: tên một làng thuộc huyện Lang tài, tỉnh Bắc Ninh.
--
3/ Thiên văn. Thí dụ:
Mồng một lưỡi trai (hoặc: không trăng)
Mồng hai lá lúa (hoặc: không trăng )
Mồng ba câu liêm,
mồng bốn lưỡi liềm,
Mồng năm liềm giật,
Mồng sáu thật trăng
Mười rằm trang nâu,
Mười sáu trăng treo,
Mười bảy sẩy giường chiêú,
Mười tám trăng lẹm,
Mười chín dụn dịn,
Hai mươi giấc tốt,
Hăm mốt nửa đêm,
Hăm hai bằng đầu
Hăm ba bằng tai,
Hăm bốn ở đâu (hoặc: bằng râu)
Hăm nhăm ở đấy (hoặc: bằng cầm)
Hăm sáu đã vày,
Hăm bảy làm sao
Hăm tám thể nào,
Hăm chín thế ấy,
Ba mươi không trăng.
4/ Thời tiết. Thí dụ:
Thâm đông, hồng tây, dựng may (10)
Ai ơi, ở lại ba ngày hẳng đi.
5/ Sông núi. Thí dụ:
Đi bộ thì khiếp Ải Vân (11)
Đi thuyền thì sợ sóng thần hang Dơi (12)
--
(10) phương đông thì đen, phương tây thì đỏ, gió may bắt đầu thổi; ta cho đó là triệu chứng trời sắp mưa to gió lớn.
(11) Ải vân: tức là đèo Hải Vân, ởchỗ giáp giới tỉnh Thừa Thiên và tỉnh Quảng Nam.
(12) Sóng thần hang Dơi: Phía bắc chân núi Hải vân sát tới bể có Bức cốc (Hang Dơi) hoặc gọi là Tiên Châu (Bãi Chuối). Tương truyền khi xưa chỗ âý có sóng thần, thuyền đi qua đó, chìm đắm nhiêù lắm (Đại Nam nhất thống chí)
--
6/ Tướng người. Thí dụ:
Những người ti hí mắt lươn,
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
H) Các bài hát phong tình, nghĩa là những bài tả những cuộc tình duyên của trai gái: từ lúc mới gặp nhau ngỏ lời nói ướm, đến khi thề nguyền gắn bó, dạm hỏi cưới xin, rồi những cảnh nhớ mong, chờ đợi, đoàn tụ, biệt ly, những nỗi trái duyên, bội ước, quá lứa, lỡ thì, ở trong ca dao đều tả cả.
Phần nầy là phần giàu nhất trong ca dao mà cũng là phần có văn chương lý thú nhất.
Thí dụ: Xem phần thứ hai bài số 15,16,17,18,19.
LỜI CHÚ. Chính những bài hát phong tình này đã dùng làm tài liệu cho các cuộc hát trống quân và hát quan họ hoặc hát đúm (13)
1/ Các bài hát liên lạc đến lịch sử. Có nhiều bài ca dao ám chỉ đến một việc trong lịch sử, hoặc nhân một việc trong lịch sử đã xảy ra mà làm nên. Thí dụ:
Nhớ em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang (14)
Phá Tam giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm.
(13) cuộc hát trống quân thường tổ chức ở các vùng nhà quê về dịp tết Trung thu, do các người đàn anh trong làng treo giải. Một người con trai và một người con gái ngồi đối diện nhau, vừa hát vừa gỏ vào một cái dây để lấy nhịp (dây này căng thẳng, trong khoảng hai cái cọc ở giữa buộc vào một tấm ván hoặc một cái thùng sắt tây chôn xuống đất để lấy tiếng vang). Hai bên đối đáp, mượn những câu hát có sẵn mà biến báo thay đổi cho hợp vớ itình ý mình: đến khi nào một bên không hát được nữa là thua, bên kia sẽ được lĩnh giải. - Tục hát quan họ thịnh hành ở vùng Bắc Ninh (các huyện Võ giàng, Tiên du, Yên phong) và Bắc Giang (huyện Việt yên) nhân các ngày hội chùa, trai gái mấy vùng ấy họp thành từng bọn (lúc đương cuộc, họ xưng hô với nhau là anh Hai, anh Ba, chị Hai, chị Ba, v.v. coi nhau như người cùng một họ, bởi thế mới gọi là hát quan họ), rồi bọn con trái hát lối đáp với bạn con gái khác ở trước sân chùa hoặc trên những đồi núi đồng ruộng gần chùa hoặc có khi mời nhau về nhà hát.
(14) Truông nghĩa là rừng. Truông nhà Hồ tức là HỒ xá lâm ở huyện Vĩnh linh, tỉnh Quảng trị; vùng này xưa lắm giặc cướp, ai đi qua đấy cũng sợ. Phá nghĩa là lạch biển. Tam giang là ba con sông. Phá tam giang là cái lạch biển ở huyện Quảng Điên2 ,tỉnh Thừa Thiên, về phía tây nam có ba ngọn sông (Tả giang, Hữu giang, Trung giang) chảy vào . rồi đổ ra cửa bể Thuận an. Vùng ấy xưa nhiêù sóng lớn, thuyền bè qua đây rất sợ. Sau phá ấy cạn đi, nên tên chữ cũng gọi là Hạc hải (bể cạn). (Theo Đại Nam nhất thống chí) -----
Bài này ám chỉ ông Nguyễn khoa Đăng, làm Nội tán đời chúa Hiến tôn (191-1725), đã dẹp yên giặc cướp ở vùng Truông nhà Hồ.
Câu đố. Trong số các bài ca dao, có nhiêù bài là những câu đố, hoặc tả một người, một vật gì để người nghe đoán ra hoặc đặt thành những câu hỏi liên tiếp đố nhau về nhiều việc. Thí dụ:
Ngã lưng cho thế gian nhờ,
Vừa êm, vừa ấm lại ngờ bất trung.
Tức là cái phản.
Bài hát đố: Xem phần thứ hai Bài số 20.
Kết luận.
Tóm lại mà nói, thì tục ngữ ca dao chiếm một địa vị quan trọng trong văn học giới nước ta, vì đó là một cái kho tài liệu để ta khảo cứu tính tình, phong tục, ngôn ngữ của người nước ta và là một mền văn rất phong phú trong đó có đủ cả các kỹ thuật về khua từ như (nói ví ý nầy ý kia; thí dụ: “cả vú lấp miệng em”. – “có bột mới gột nên hồ”;
Phản ngữ nói trái lại ý mình muốn nói; thí dụ: Ở đời Kiệt , Trụ (15) sướng sao! Có rừng nem béo, có ao rượu đầy. Ở đời Nghiêu, Thuấn (16) khổ thay ! Giếng đào mà uống, ruộng cày mà ăn) điển tích (đặt những chữ có ám chỉ đến một việc xưa, một sự tích xưa; thí dụ :Ai về nhắn họ Hi, Hòa (17). Nhuận năm sao chẳng nhuận và trống canh) lông ngữ (bỡn chữ; thí dụ: Trăng bao nhiêu tuổi trăng già. Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non”, nhân hóa (làm cho các vật vô tri có tính cách như người; thí dụ “cơm tẻ, mẹ ruột” , “của đau con xót”, cụ thể hoá (làm cho các ý trừu tượng hóa thành vật có hình thể; thí dụ:”Miệng mật, lòng dao” “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”. v.v.
(15) Kiệt (1818-1783) , Trụ (1154-1122) là hai ông vua nước Tàu có tiếng là dâm bôn, tàn bạo.
(16) Nghiêu (2357-2257), Thuấn (2255-2207) là hai bậc thánh quân ở bên Tàu.
(17) Hi – Hòa : vua Nghêu sai hai họ này làm lịch, đặt ra tháng nhuận và định bốn mùa.
Các tác phẩm để kê cứu
1) Phạm Quynh, tục ngữ ca dao.
2) Phan Khôi, Tục ngữ phong dao và địa vị của nó trong văn học. Tao đàn tạp chí.
3) Hoàng Ngọc Phách. Xét tâm lý người thôn quê bằng những câu hát.
4) Minh Trúc, Hát quan họ, Trung Bắc Tân văn .
5) Nguyễn Văn Huyên, Chants alternés des garcons et des filles en Annam, Paris, Geuthner.
6) G. Gordier, Essai sur la littérature annamite; La chanson, La Revue Indochinoise 1920, Hanoi.
7) Phạm Quỳnh, Le paysan tonkinois à travers le parler populaire, Nam Phong tùng thơ, Đông kinh ấn quán, Hà nội.