Nói Về Miền Nam
Tác giả: Sơn Nam
Chương 1 ÔNG HÒANG HIỆP VÀ TRẬN GIẶC NĂM 1673
Huyền Băng nghĩ đa số chúng ta thường tự hào về miền Nam Việt Nam với khí hậu ôn hòa hai mùa mưa nắng, với đồng ruộng mênh mông, sông nước bạt ngàn lắm tôm nhiều cá. với những người dân bình dị hiền hòa, vậy thì chúng ta hãy theo chân nhà văn Sơn Nam lần lại một phần lịch sử của dãy đất này, cũng như một số phong tục tập quán để hiểu rõ hơn về mãnh đất phương Nam và yêu mến nó hơn...
ÔNG HÒANG HIỆP VÀ TRẬN GIẶC NĂM 1673
Vào hậu bán thế kỷ XVII, ở lãnh thổ Việt Nam xảy ra những trận giặc chót của cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Năm 1648, Trịnh đánh vào Nam Bố Chính và cửa Nhựt Lệ, bị thua to vì tướng Đàng Trong là Trương Phúc Phấn giữ vững lũy Trường Dục.
Năm 1655, quận Trịnh lại khuấy rối vùng Nam Bố Chính. Tướng Nguyễn Hữu Dật bày kế với Hiền Vương, xin đánh bất thình lình vào địa phận chúa Trịnh, Hiền Vương đồng ý. Cùng với Nguyễn hữu Tấn, Nguyễn hữu Dật đánh đâu thắng đấy, chiếm được bảy huyện ở tận Nghệ an. Các quan lại địa phương lần lượt đầu hàng, dân chúng tiếp đón nhưng họ đâm ra thất vọng – thuế điền, nhứt là thuế thân (sai dư tiền) đánh quá cao, mặc dầu đó là thuế biểu áp dụng thường lệ ở Đàng Trong, Nguyễn Hữu Dật phủ dụ dân chúng rằng biện pháp ấy chỉ tạm thời – nhưng không mấy ai tin tưởng lời hứa hẹn đó.
Quá hăng hái, Dật muốn tiếp tục tấn công nhưng Hiền Vương dạy Dật nên cẩn thận, mọi việc binh nhung phải bàn bạc trước với Nguyễn Hữu Tấn.
Để giải quyết tình trạng “mắc sa lầy” ở xứ lạ quê người, Dật phát triển tâm lý chiến loan tin làm hoang mang đối phương, bí mật giao thiệp với Trịnh Tạc. Mặc dầu đã cho Hiền vương biết trứơc nhưng việc tư thông của Dật gây thêm nhiều thắc mắc với Nguyễn Hữu Tấn – có lẽ Nguyễn Hữu Tấn ganh công. Vì tiểu tâm, Nguyễn hữu Tấn rút thình lình tất cả quân số về Nam, cố ý bỏ Nguyễn hữu Dật ở lại một mình. Chừng hay được, Dật vẫn trầm tĩnh, ra lịnh cho 30 vệ sĩ – số vỏn vẹn ở bên cạnh Dật – phất cờ gióng trống trong lúc rút lui, khiến quân Trịnh không dám truy kích theo.
Thế là chiến thắng đã hóa ra chiến bại.
Cuối năm 1661, đầu 1662, Trịnh Căn và Lê Thời Hiến đánh thình lình vào tận lũy Đồng Hới. bị thất thế, Dật rút vào lũy để thủ hòa. . .
Bấy giờ, Hiền vương hiểu thựcl ực của mình hơn bao giờ hết. Theo lời tâu của Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tấn, Chúa quyết định xây thêm hai lũy nhỏ: Trấn Ninh và Sa Phụ để kiện tòan hệ thống sẳn có.
Khỏang thời gian hưu chiến 10 năm (1662-1672) giúp Hiền vương chỉnh đốn thuế khóa, tích trữ lương thảo, Nông Lại tư đặt ra kế họach do ký lục Võ Phi Thừa sọan thảo, nhằm mục đích đo diện tích các ruộng đất đang khẩn hoang và đã khai khẩn; thuế đánh khá nặng: một mẫu (chừng 1/3 hectare) ruộng hai mùa phải đóng 40 thắng lúa (1thăng –non 3 lít) và 8 hạp gạo trắng.
Năm 1667, Trịnh Tạc đuổi Mạc Kính Vũ; Vũ chạy trốn qua Tàu, mầm nội lọan gần như dứt hẳn.
*
Tháng 6 dương lịch 1672, Trịnh Tạc kéo binh vào Nam, quyết tiêu diệt chúa Nguyễn. việc bố trí rất khéo léo, chu đáo.
Trịnh Căn làm nguyên sóai, cai quản thủy quân.
Lê Thời HIến (đã từng được tín nhiệm hồi chiến cuộc Nghệ An) thống suất bộ binh.
Mỉa mai nhứt là hòang đế Lê Gia Tông, 12 tuổi, cũng được chúa Trịnh đem đi “ngự giá thân chinh”.
Tất cả quân lực chừng 100.000 người nhưng loan tin là 400.000!
Khi nghe viên Trân thủ Nam Bố Chính cấp báo, Hiền vương bảo với các quan: “Trịnh Tạc đã suy thời nên vào đâyđánh m6ọt trận chót. Kinh ngiệm xưa nay thì kẻ liều mạng như Tạc bao giờ cũng thảm bại”.
Hiền Vương bàn qua việc lựa chọn vị nguyên sóai của đàng Trong. Các quan đồng ý giao trách nhiệm ấy cho hòang tử Tôn Thất Hiệp, con trai của Hiền Vương. Hiệp còn trẻ, chưa 9dược 20 tuổi, đang giữ chức Chưởng cơ, chưa từng ra trận lần nào cả!
Tại sao có sự lựa chọn đó? Phải chăng dụng ý của Hiền Vương là cận thần làđối phó với chúa Trịnh về uy tín chính trị, biểu dương sự trưởng thành của Đàng Trong trên mọi địa hạt.
Đàng Ngoài, Trịnh Căn (40 tuổi con của Chúa) làm nguyên sóai thì ở Đàng Trong, Tôn Thất Hiệp (non 20 tuổi – con của chúa) đâu kém năng lực!
Trịnh Tạc (67 tuổi) đi theo ủng hộ con; Hiền Vương (55 tuổi) cũng có mặt. Nói chung, ta thấy Đàng Trong rất trẻ trung, thiếu một hòang để tượng trưng. Nhưng quân sĩ đôi bên dư hiểu rằng các chúa Trịnh đã nhiều lần bạc đãi, xử giảo các hòang đế họ Lê. Và phen nầy Lê Gia Tông ra trận với số phận một tù binh của chúa Trịnh, không hơn không kém.
Bộ tham mưu của nguyên sóai Hiệp gồm vệ úy Mai Phúc Lãnh và ký lục Võ Phi Thừa.
Quân Đàng Trong kéo ra Quảng Bình. Chưởng ơc Trương Phúc Cang (con Trương Phúc Phấn) đi tả tiên phuông, giữ lũy Trấn Ninh, đó những đòn tấn công mãnh ☲ệt của địch. Lão tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ được giữ lũy Sa Phụ (hữu ngạn sông Nhựt Lệ), ở mặt trận thứ yếu. Hữu Dật bị đặt vào địa vị ấy, phải chẳng do sự cố ý của Hiền Vương, hoặc vì lý do chiến thuật.
Vào khỏang tháng 9-10 dương lịch 1672, Trịnh Căn và quân sĩ đến Nam Bố Chính.
Lạ thay! Các tướng của Trịnh và Nguyễn nhìn nhau, dò xét, hăm dọa nhau hơn ba tháng trường rồi mới chịu đánh thật sự bằng gươm dáo và đại bác.
Mở đầu, Trịnh Căn dùng tâm lý chiến, kêu gọi Đàng Trong, tố cáo việc các chúa Nguyễn không phục tùng nhà Lê, xây thành đắp lũy, bày sưu cao thuế nặng . . .đồng thời, Trịnh Căn thử tấn công vào lũy Đồng Hới, chọn nơi kém phòng thủ nhứt của đối phương để xây một chiến lũy khác đối diện, rồi đưa 1.000 chiến thuyền (?) đến vàn sông Gianh và vàn sông Nhựt Lệ, chờ đổ bộ.
Biết tình thế nguy ngập, Tôn Thất Hiệp khiến tham tướng Lễ đắp nên lũy Trấn Ninh, bố trí thêm súng thần công – mặt khác, cấp báo với Hiền Vương.
Hiền Vương dọ ý kiến. cai cơ Tổng Đức Minh tâu: Quân Trịnh đi đường xa, sẽ gặp khó khăn về lương thảo. Ta nên cố thủ tại lũy, trì hõan thời giờ, chờ khi chúng mòn mỏi rồi hãy đánh.
Trần Đinh Ân đưa kế họach: Thực lực của quân Trịnh dưới 100.000 người, không quá hùng mạnh như chúng loan tin. Ta cứ đồn rằng quân ta đông đảo, 160.000 người, hiện đang mộ thêm 100.000 nữa, tất cả do hòang tử HIệp chỉ huy, ắt địch quân phải xao xuyến, hoang mang.
Hiền Vương đồng ý, tuyển mộ thêm quân rồi tức khắc hạ lệnh chỉnh đốn các trạm địch, tăng cường sự phòng thủ miền duyên hải, từ Đồng Hới đến Huế.
Sứ giả của Trịnh Căn đến trước lũy Trấn Ninh. Hòang tử Hiệp sai Cai cơ Tú Minh ra tiếp kiến. Cuộc đấu khẩu diễn ra sôi nổi. luận điệu cho rằng các chúa chống lại nhà Lê đã bị Tú Minh bác bỏ: Các Chúa Nguyễn rất trung thành với nhà Lê vì vậy cương quyết diệt họ Trịnh, kẻ lấn quyền, áp chế nhà Lê.
Dứt cuộc đàm phán ngắn ngủi ấy, Nguyễn Hữu Dật bàn với hòang tử HIệp:
- Tên sứ giả nọ trở về báo cáo thái độ cứng rắn của ta cho Trịnh Căn biết, Trịnh Căn tức giận sẽ tấn công lập tức. Quân sĩ ta phải sẵn sàng ứng phó từ giờ phút này.
Tháng 1 dương lịch 1673, phó tướng của quân Trịnh là Lê Thời Hiến xua quân, hạ trại đối diện lũy Trấn Ninh. Đợt tấn công đầu tiên của Hiến bị tan vỡ nhanh chóng. Trịnh Tạc nổi xung, nghiêm phạt các quân bại trận.
Với lực lượng cũ, tăng cường thêm 3.000 quân, Lê Thời Hiến hùng hổ mở cuộc tấn công thứ hai. Đông như kiến cỏ, quân Trịnh liều chết xung phong mãnh liệt, dùng chất “bộc phá” đặt vào lũy Trấn Ninh, đốt cháy dẫn hỏa treo vào diều giấy thả qua tận chót lũy, đào hầm ẩn núp dưới cơn mưa đạn do quân sĩ Đàng Trong từ trên lũy nã trả xuống như mưa.
Chỉ trong vòng một ngày chiến đấu, lũy Trấn Ninh bị phá nhiều chỗ, bị chiếm, giải vây được rồi bị tái chiếm đến ba bốn lượt.
Hoảng sợ, Trương Phúc Cang toan bỏ lũy, qua thủ bên này sông Lê Kỳ nhưng hòang tử Hiệp không đồng ý, e tổn hại cho sĩ khí ba quân. Bấy giờ, hòang tử Hiệp nghĩ đến các giải quyết chót: Sai quân phi ngựa đến lũy Sa Kỳ, truyền cho lão tướng Nguyễn Hữu Dật phải tức tốc qua lũy Trấn Ninh để cứu khổn.
Nhận lịnh ấy, Nguyễn Hữu Dật lạnh lùng trả lời: “Ta chỉ lo gìn giữ lũy Sa Phụ nầy mà thôi. Ngay từ ồi đầu chiến trận, ta không được ai chia sớt trách nhiệm nào ở lũy Trấn Ninh cả. Ta không dám đi!” Lúc vận mạng đàng Trong như chỉ mành treo chuông, tại sao Nguyễn Hữu Dật bất tùng quân lịnh? Chúng ta nên hiểu tâm trạng của Nguyễn Hữu Dật lúc ấy, tuổi quá cao, 69 tuổi. Phải chăng Nguyễn Hữu Dật bất mãn khi thấy mình bị bố trí ở cánh quân không quan trọng? Hiền Vương không còn tín nhiệm đầy đủ nơi Dật? Hai mươi bốn năm về trước, khi còn là Cai cơ, lãnh chức ký lục ở dinh Bố Chánh, Dật đã một phen bị tình nghị “thông đồng với Chúa Trịnh” nhơn đó bị giam. Sau Hiền Vương tha tội, đuổi Dật về làm văn chức ở chánh đinh để tiếp tục theo dõi hành động tư tưởng. Hồi ấy, kẻ ám hại Dật chính là Tôn Thất Tráng, cha vợ của Tôn Thất Hiệp bây giờ. Rồi đến chiến sự Nghệ An còn nóng hổi! Dật cũng bị Tôn Thất Tráng, nhứt là Nguyễn Hữu Tấn xuyên tạc sự thật, dèm pha với Hiền Vương về tội “thông đồng với địch”. Tuy biết sự thật đen trắng ra sao nhưng Hiền Vương không hề khiển trách những kẻ đã vu khống Nguyễn Hữu Dật. Rất may là Tấn Đã chết, nếu không, chưa chắc phen nầy Hiền Vương còn thu dụng Dật ở nhiệm vụ không quan trọng là giữ lũy Sa Phụ! “Nhứt chiến tài tình thiên cổ lụy”. Sách lược “liên lạc với địch để tìm hiểu rồi ly gián địch: đã được Dật áp dụng đem nhiều kết quả có lợi cho sự nghiệp Đàng Trong nhưng mấy ai chịu hiểu giùm. Dầu muốn hay không, Dật thấy sự nghiệp tinh thần của mình bị sụp đổ, sau 50 năm phò chúa, bằng xương bằng máu (từ hồi Sãi Vương còn sống).
Nhưng phút giây bất mãn ấy chỉ thỏang qua.
Dật hối hận ngay, chạy nhanh lên lũy Sa Phụ, đứng quan sát thực tế của chiến trận. Bên kia sông, súng thần công nổ vang rền, khói bốc mịt trời che lấp lũy Trấn ninh. Chắc chắn Lê thời Hiến chiếm ưu thắng và tướng sĩ Đàng Trong đang đại bại ở ngay mặt trận chánh.
Dật dư hiểu: Nếu mình không đi cứu viện thì hòang tử Tôn Thất Hiệp phải đi cứu viện – và giờ nầy đang đi. Liệu vị nguyên sóai quá trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm ấy đủ sức ứng phó? Dật tức tốc lên yên, kéo quân đến Trấn Ninh, dọc đường, Dật cẩn thận vạt vỏ viết vào thân cây mấy chữ tóm tắt: “Hữu Dật đã qua cứu viện lũy Trấn Ninh, xin hòang tử đến giữ lũy Sa Phụ đang bỏ trống”.
Đọc tin ấy, hòang tử Hiệp qua Lũy Sa Phụ.
Để chận nẻo qua sông của quân cứu viện, Trịnh Căn khiến Tham đốc Thắng đưa 30 chiến thuyền vào tuần tiểu sông Nhựt Lệ nhưng bị hòang tử Hiệp bố trí đánh tan.
Trời tối như mực, ngửa bàn tay không thấy, khi Nguyễn Hữu Dật đến Trấn Ninh; binh sĩ lớp chết, lớp bị thương, số còn lại; chiến đấu gần như tuyệt vong. Dật ra lịnh gom nhánh cây, cỏ khô, đốt lên sáng rực. Biết có viện binh đến, quân Trịnh hỏang hốt, không dám tiến. Suốt đêm, Dật đốc suất quân sĩ tích cực sửa chữa khỏang lũy khá dài bị phá hư (30 trượng: 120mét). Nhưng trời vừa rạng sáng, Lê Thời Hiến lại tấn công. Quân sĩ Đàng Trong vững tinh thần, chống trả mãnh liệt. Có lẽ trong giờ phút ấy Nguyễn Hữu Dật đã khích lệ quân sĩ với câu nói: “Kẻ ở trước mặt chúng ta chính là bọn ngọai bang!”
Ngày ấy, hai bên liều chết, xung phong, bị phản xung phong, rồi liên tiếp nhiều ngày như thế . . Quân Đàng Ngòai chết quá nhiều. Quân Đàng Trong chết không kém.
Hiền Vương sai người đến trận địa để tìm hiểu, Dật đáp: “Xưa kia, quân ta đánh tận địa phận của chúng ở Nghệ an vậy mà chúng sợ ta, huống hồ hôm nay ta đã làm chủ tình hình tại đất nhà, có thành cao, hố sâu ngăn giữ”. Dật cũng viết thơ với Hiền Vương, thề sẽ đem hết tài sức đềnđáp ơn chúa, nếu sơ sót thì xin chịu tội theo quân luật.
Gíó bấc thổi mạnh, mưa phùn lê thê, ray rứt, lạnh lẽo hơn bao giờ hết. Tự nhận rằng không thắng nổi Đàng Trong, Trịnh Tạc bắt đầu trở về: Tiết trời bất lợi; sau bảy tháng vắng mặt, ở Hà Nội liệu xảy ra biến cố gì trong phủ chúa chăng?
Tất cả tù binh, thường dân . . . được Trịnh Tạc cho tiền bạc quần áo, phóng thích tại chỗ; họ muốn đi về đâu thì cứ đi.
Sa vào kế nghị binh của hoàng tử Hiệp, Lê thời Hiến không dám nán lại chiến đấu, bèn kéo binh tút lui sau khi hay tin các chiến thuyền của Trịnh Căn đã rời cửa Nhựt Lệ theo . .. trận gió ngược.
Chiến trận đã tàn!
Mùi thuốc súng như còn phảng phất. Nhưng khói hương bắt đầu tỏa nghi ngút từ bên trong lũy Trấn Ninh, khói hương của lễ giải oan do hòang tử Hiệp tổ chức cho oan hồn tử sĩ Đàng Trong.
Hòang tử không quên đặt đàn tràng bên kia lũy, bày cuộc lễ tương tự để cầu siêu cho tử sĩ Đàng Ngoài.
Những người chết được yên ủi phần nào khi thấy con cháu của họ bắt đầu từ đấy hưởng thanh bình – mãi 100 năm sau, mới chết chóc nữa!
Theo lịnh của hòang tử Hiệp, số tù binh ở Đàng Ngòai –và già trẻ bé lớn, nạn nhân thời cuộc –bấy lâu bị giam giữ có thể trở về quê, với tiền bạc, quần áo cấp phát đẩy đủ; không một ai bị giết cả.
Tháng 4 dương lịch 1673, hòang tử đến Thạch Xá. Hiền Vương mừng rỡ, khen ngợi, ban thưởng 100 lượng vàng, 1.000 lượng bạc, 50 tấm vóc gấm.
Hòang tử Hiệp đáp lời lẽ chân thành:
“Nhờ uy lực của cha, nhờ công lao của tướng sĩ mới có cuộc vui đại thắng này. Một mình con làm sao thắng nổi?” Hiền Vương khen: “Con hãy nhận vì con rất xứng đáng”.
Hòang tử Hiệp nhận lãnh vàng bạc nhưng liền sau đó chọn cho mình một thái độ: Phát nguyện trở thành phật tử - cà tích cực hơn – từ bỏ gia đình, thế phát xuất gia không chút do dự, tuy mới 20 tuổi.
Sử chép: Khi chỉ huy chiến trận, ông hòang Hiệp sống khắc khổ, ngồi trong trại, chỉ có hai vệ sĩ túc trực bên cạnh. Lần nọ, một lão già ở Quảng Bình tên Bật Nghĩa đến trại với ý định “tiến” cho ông hòang một thiếu nữ xinh đẹp. Ông hòang từ chối nhưng không quên cấp cho lão già 10 quan tiền, hiểu rằng người cha nọ hành động như vậy chỉ vì quá túng thiếu cơm áo, thời loạn.
Sự chọn lựa bất ngờ của hòang tử Hiệp không khó hiểu lắm. Tám tháng ở chiến trận là cả một đời người, là cả thể kỷ thứ XVII ở Việt Nam! Hẳn ông hòang Hiệp thầm đau xót cho đường họan lộ quá đắng cay của lão tướng Nguyễn Hữu Dật! Giữa cảnh máu xương lầy lội, tiếng đại bác vang rền, mùi diêm sanh nồng nặc, ông hòang dư hiểu rằng từ bấy lâu các thương gia Hòa Lan, Bồ Đào Nha cạnh tranh nhau ở Đàng Ngòai, ở Đàng Trong, để mua tơ lụa, quế, trầm hương và bán các nguyên liệu giết người. Họ lấn nhau, dùng mọi thủ đoạn tinh vi nhứt.
Ông hoàng cũng thấy tận mắt những chiếc đồng hồ kiểu Tây phương và tuy xa gia đình, ông hay tin đứa con trai của mình – Tôn Thất Lễ - sau cơn bệnh nặng mà các ngự y điều trị không nổi, đã rửa tội theo phép Công giáo (1674).
Sanh, lão, bịnh, tử . . ông hòang Hiệp nhận rõ, thấm thía, không kém Thái tử Tất Đạt Đa ngày xưa khi ra bốn cửa hòang thành.
Ông “dũng mãnh, tinh tấn’, khiêm tốn nhận mình là một chúng sanh trong kiếp sát na. Vì đã từng đau khổ giữa cuộc thế, đã từng đóng vai người anh hùng, ông muốn thành tâm tìm một cõi cực lạc thực tế, sống ẩn dật như nhà hiền triết đủ can đảm, im lặng.
Ông liễu đạo năm 23 tuổi (1653 – 1675) , ngày rằm tháng 6 năm Ất Mão, an táng ở làng Hiền Sĩ huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, có lẽ không lưu lại một bút tích, một bài thơ truyền khẩu nào. Nhưng hậu thế tưởng còn nhận được hình bóng bất diệt của ông qua nụ tười phảng phất trên môi của các tượng Bồ Tất trong chùa, giữa tiếng kệ kinh.
Trăm năm sau, anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa (1773), đại phá quân Thanh (1789) làm rạng danh tòan đất Việt.
(Trong quận 10 thành phố Hồ Chí Minh (gần trường đua Phú Thọ, nay là sân vận động), chúng ta có đường Tôn Thất Hiệp, nhưng không biết có mấy ai cư ngụ trên đường biết đến lịch sử của con người tài đức này!)
Phàm người Việt yêu nước, ai lại chẳng muốn nói, muốn nghe đến vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc tức là phong cảnh núi sông, với bao nhiêu hào khí.
Để tượng trưng cho đất nước thân yêu, nhiều người vẽ bản đồ Việt Nam với những lằn nét mơ hồ, sau đỉnh hương trầm cuồn cuộn khói. Hoặc là chùa Một Cột, lăng tẩm Huế rồi đến cổng lăng ngài Tả quân Lê Văn Duyệt.
Ba kiểu kiến trúc tiêu biểu cho ba miền, cũng khá cụ thể nhưng chưa ổn. Chúng tôi đã xem một bức tranh nho nhỏ, trong đó cái cổng lăng ngài Tả quân được thay thế bằng hình ảnh một cô gái đội nón lá, chèo xuồng trên kinh rạch, giữa biển lúa vàng: Đã bắt đầu gợi được niềm vui tươi, phóng khóang rồi đấy! Nhưng cũng chưa thỏa mãn. Tại sao cô gái ấy chèo xuồng một mình và cười một mình. Cô ta sẽ già, hóa đá chăng? Còn thiếu một điều gì, khó nói – nhưng có lẽ quan trọng khi muốn tìm một hình ảnh tượng trưng cho cá tính miền Nam.
Có bạn nóng nảy nói nhanh:
- Tại sao lại khó tính, lẩm cẩm như vậy? Cứ đờn ca vọng cổ, ăn nhậu say sưa, lựa món ngon vật lạ nào lượn ếch rùa rắn là đầy đủ bản sắc miền Nam rồi. Nếu cần bổ túc thì cứ nói thêm: Người miền Nam hiền lành, không có gì sâu sắc, ít lo xa, hơi lười biếng, ưa nói thẳng. . .
Nhận xét ấy đúng nhưng vẫn còn hời hợt. Nếu chỉ có bao nhiêu nét không sâu đậm ấy thì liệu ông cha ta có giữ nổi đất và sống nổi đến ngày nay chăng? Trong lịch sử nhân lọai, bao nhiêu dân tộc đã mất tên, trong khi họ ít “lo xa, không gì sâu sắc; hơi lười biếng; ưa nói thẳng!”
Miền Nam là phần đất cay nghiệt, đã từng chôn vùi hoàn toàn hoặc làm ngưng đọng bao nền văn hóa. Lịch sử đã cho biết: Xưa kia, tại đồng bằng sông Cửu Long đã mọc lên vương quốc Phù Nam. Vương quốc này phồn thịnh nhờ làm trung gian thương mãi giữa vài nước Đông Nam Á: còn lưu lại vài đồng tiền vàng La Mã, có thể làm giả thuyết cho sự liên lạc giữa Phương Tây và miền Nam từ thế kỷ thứ III, cách đây 1.600 năm. Ấy thế mà nước Phù Nam lâm vào cảnh tang thương, tang thương cho đến nỗi các nhà khảo cổ giỏi nhứt cũng chẳng tài nào ức đóan: Người Phù Nam thuộc vào dân tộc nào? Tiểu quốc của họ bị diệt vong từ đâu? Và ngay đến cái tên tạm bợ là Phù Nam! Các sử gia chỉ biết tên ấy xuyên qua vài trang sử đời Lương, đời Đường bên Tàu; Ngày nay ta đọc hai chữ nho Phù Nam, và chẳng hiểu các sử gia Tàu có phiên âm lại đúng giọng cái tên của một tiểu quốc bé bỏng, tuy giàu sang nhưng sớm mai một? Căn cứ vào các nền nhà, đồ trang sức tìm được tại vùng đất xưa bên kia Hậu Giang, chúng ta quả quyết: Nước Phù Nam bị tiêu diệt vì văn hóa của họ chẳng biểu lộ nét gì đặc sắc, tòan là góp nhặt văn hóa Ấn Độ, Ba Tư. Thế thôi.
Bao nhiêu thành quách bị chôn vùi dưới lớp phù sa, trở thành một vùng đồng chua hoang dại. Thế mới hay: Phù sa sông Cửu Long và biển Nam Hải có sức mạnh tiêu diệt những nhóm người lưu vong, ăn xổi ở thì, thiếu cá tính. Và những kẻ đến sau đó, tuy đã thôn tính tiểu quốc Phù Nam nhưng vẫn bị sa lầy, trụ hình torng nếp sống mộc mạc, kiếm ăn ngày nào hay ngày ấy, tập trung nhà cửa trên vài giồng đất cao ráo, khai thác sơ sài vùng phụ cận. Và ra khỏi xom chừng vài trăm thước là cây cỏ mọc hoang, dày bịt, làm sào huyệt cho cọp, voi. Ở vùng đất phù sa ẩm thấp mà sanh họat của nhóm người ấy thu hình lại như một số thôn bản miền sơn cước.
Phù sa sông Cửu Long, vinh Xiêm La đã chôn vùi nước Phù Nam!
Phù sa sông Cửu Long, vịnh Xiêm La đã trở thành vùng sơn cước đối với người Miên!
Người Việt Nam lại xuất hiện, nhận lãnh bao thử thách.
* *
*
Họ là những người ở Bình Dịnh, Quảng Nam. Họ chán chê những thửa ruộng kém mầu mỡ nhỏ hẹp, giới hạn bởi dãy Trường Sơn khô cằn và biển Đông đầy giông bão. Trên những thửa ruộng ấy, dường như người Chiêm Thành đã chịu thua thiên nhiên: Họ ít chịu ly hương và điểm quan trọng nhứt là họ quá bảo thủ về văn hóa, chẳng muốn làm kẻ “lai căng” hầu đón gió bốn phương. Người Việt Nam ta thích đi xa và giàu tinh thần dung hòa. Vùng đồng bằng Đồng Nai và Cửu Long đang hcờ đón. Từ đời Hiền Vương cách đây 300 năm, người Việt Nam trong thời Nam Bắc phân tranh đã sẳn sàng đi xa hơn ranh giới của quê cha. Họ theo đường biển, dùng ghe đánh lưới, đến tận mũi Cà Mau và đảo Phú Quốc.
Sử sách gọi đó là đám người “lưu dân”, người không căn cứ nhứt định, sống phóng túng, nghĩa là những phần tử bất hảo, dốt nát, thiếu luân lý, bị luật lệ và phong tục lên án. Tóm lại, đám dân tứ chiếng trốn xâu lậu thuế ấy phá hại văn hóa hoặc thuộc vào trình độ văn hóa thấp.
Gần đây, vài nhà xã hội đã minh xác khả năng kiến tạo và tinh thần đạo đức của những lưu dân từ Âu Châu sang lập quốc tận Mễ Tây Cơ, Ba Tây. Đa số chỉ là nạn nhân, lắm khi là tội nhân bị lên án rất oan ức bởi luật lệ và luân lý phong kiến. thử xem lại vài chi tiết của bộ luật Hồng Đức, đời Lê: giết trâu vô cớ, trai gái ăn ở với nhau theo kiểu tự do kết hôn, chống đối với cường hào ác bá, đều là những tôi có thể bị đày gần (lưu cận chu), đày xa (lưu viễn chu) và đày ra khỏi biến giới tổ quốc (lưu ngọai chu). Ở nước ta, các vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và ngay cả vùng tỉnh Thanh Hóa há chẳng phải do một số đông tội nhân bị lưu hình đến khai thác. Thực tế chứng minh rằng thế hệ của họ và các thế hệ về sau đã góp công xây dựng văn hóa bảo vệ được thuần phong mỹ tục.
Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, một số lưu dân khá đông đến thám hiểm và định cư tại ven biển và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nói chung, người xa lìa tổ quốc thường ưa thích mua bán – thứ nghề dễ sinh lợi, ít cực nhọc. Nhưng số lưu dân Cửu Long không chọn con đường dễ sống đó. Nhiều người cho người Việt Nam ít có khiểu về thương mãi. Rất có lý nhưng cũng vô lý. Lúc bấy giờ , đám lưu dân Việt Nam đủ sức tranh thương với người Miên, nói rõ hơn là họ đủ sức tổ chức thương mãi, đầu cơ hàng hóa ở một vùng mà nền thương mãi còn trong tình trạng đổi chác sản phẩm.
Thái độ của đám lưu dân thật sự rõ rệt: họ lo khai thác đất hoang, đương đầu với bệnh tật, cọp sấu, đùa giỡn với song biển. Họ chọn lực con đường đầy khó khăn, đầy vinh quang mà có người cho rằng dại khờ, hời hợt. Miễn sao cho những kẻ đến sau được thừa hưởng di sản quí báu của họ. Mặc cho kẻ khác phỉ háng, hiểu lầm. Họ chịu cực nhiều nhưng hưởng rất ít. Đó là thái độ bám sát đất nước, tin tưởng nơi khả năng của con người. con người sẽ biến đổi bùn lầy ra cơm, sẽ lập đình chùa trên biển cỏ. Hòan tòan tinh tưởng vào thiên nhiên, cải biến thiên nhiên, không sợ thiên nhiên. Vì vậy mà các tay anh hùng hảo hớn thích sống riêng biệt, mỗi người làm chủ một địa bàn riêng, chiếm cứ một con rạch, một cù lao. Trong căn chòi nhỏ bé, với dụng cụ thô sơ và thuốc men hầu như không có, họ dám thi gan chịu cảnh cô độc của con phượng hòang trên đỉnh núi, của con cù nằm vùng lâu năm, chờ thời. Lúa gạo, cá tôm nếu dư dã thì tặng cho bạn bè, để dành, nếu để dành ăn không hết thì bỏ. Một kiểu người hùng trong tiểu giang sơn. Thà là làm đầu gà hơn là đuôi voi. Nếu cần làm việc thì sẳn sàng chịu đựng khổ nhọc, sau khi làm việc khó nhọc thì nên hưởng lạc lập tức, và hưởng lạc đến mức tốc độ.
Họ không bao giờ là những người Do Thái lang thang. Đất nước qua phì nhiêu, phần đất nước ấy không xa lìa tổ quốc, trái lại, nó nối liền về mặt địa ;ý.
Trong những năm Trịnh – Nguyễn phân tranh, dường như chúa Nguyễn bỏ rơi họ. Nhưng một cơ hội mới lại đến, đem may mắn cho đất nước: bọn di thần nhà Minh xin di trú nơi phần đất của chúa Nguyễn. Hiền Vương giải uqyết một cách thần tình: cho phép họ vào vùng đồng bằng miền Nam mà khai khẩn. Vùng ấy, lúc bấy giờ, mặc nhiên nằm dưới sự bảo trợ về mặt chánh trị của chúa Nguyễn.
Sử đã chép nhiều về các tướng Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch. Và nàh tổ chức Mạc Cửu. Trong phạm vi bài nầy, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh vài điểm quan trọng:
- Trần Thắng Tài chú trọng mở mang thương mãi và tiểu công nghệ ở vùng cù lao Phố (Biên Hòa), nhứt là thương mãi. Sau khi chợ cù lao Phố bị quân Tây Sơn phá, các thương gia rủ nhau xuống vùng chơ Lớn lập cơ sở thương mãi khác.
- Dương Ngạn Địch đến vùng Mỹ Tho lập ra trang trại ở vùng Tân Hiệp, mỹ tho qua địa phận Bến Trẻ ngày nay. Nhóm nầy chú trọng đến thương mãi và nghề ruộng rẩy.
- Mạc Cửu đến vùng chợ Hà Tiên, nhắm vào việc mở mang thương cảng, tổ chức sòng bạc và làm trung gian chánh trị, cố ý đóng vai trò đặc biệt trong lịch sử ngọai giao giữa chúa Nguyễn, Cao Miên và Xiêm La.
Bấy lâu, chúng ta thường dùng danh từ “khai hoang” với nhiều nghĩa mơ hồ. Cần phải xác định vai trò của bọn di thần nhà minh ở miền Nam, lúc họ mới đến. Trừ trường hợp Dương Ngạn Địch ở Mỹ tho, các ông Mạc Cửu và Trần Thắng Tài chỉ chú trọng việc thương mãi, tổ chức phố chợ mà thôi. Nhứt là ông Mạc cửu, ông này quá thiên về họat động chánh trị. Vì vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy vùng phụ cận chợ Hà Tiên và chợ Biên Hòa còn quá nhiều đất hoang, chưa canh tác. Số quân sĩ đi theo Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch và số mưu sĩ đi theo Mạc Cửu đều nghiêng về nếp sống thành thị, sống tập trung, lo buôn bán hoặc phát triển tiểu công nghệ. Thành thị đóng vai trò quan trọng cần thiết. Điều ấy đã đành, những chúng ta nên ghi rõ; chính những người thành thị nầy đã hưởng lợi khá nhiều, trong khi đám lưu dân đã sản xuất quá nhiều nhưng hưởng không bao nhiêu. Nhờ việc phân phối xuất cảng sản phẩm do bọn di thần nhà Minh nắm giềng mối, đám lưu dân Việt Nam ở ven rừng, ở bờ biển được cải thiện đời sống và càng hăng hái làm việc.