by ThaoMy Sat Nov 30, 2013 12:56 pm
Nhà Tây Sơn
Tác giả: Quách Tấn, Quách Giao
Chương 10 TRẦN QUANG DIỆU CHIẾM BÌNH ÐỊNH: NGUYỄN PHÚC ÁNH CHIẾM PHÚ XUÂN
Ðược tin Quy Nhơn thất thủ, Cảnh Thịnh định thân chinh. Nhưng gặp tang Ngọc Hân, nên tạm hoãn, truyền Nguyễn Văn Giáp vào giữ sông Trà Khúc ở Quảng Nghĩa và gọi Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng ra giữ Quảng Nam (Kỷ mùi 1799).
Ngọc Hân Công Chúa vào Phú Xuân năm bính Ngọ (1786) và được phong Bắc Cung Hoàng Hậu năm Kỷ Dậu (1789). Năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung băng, Hoàng Hậu có một bài văn Tế và một bài Vãn, lời tha thiết não nùng.
Hoàng Hậu sống cùng Vua Quang Trung được bảy năm (1786-1792), sanh hạ được hai con, một trai một gái.
Vua Cảnh Thịnh ban tên thụy là Như Ý Trang Thân Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Phan Huy Ích phụng soạn năm bài văn tế bằng chữ Nôm:
- Một bài cho Vua Cảnh Thịnh đứng tế.
- Một bài cho các công chúa con Bùi Thái Hậu đứng tế.
- Một bài cho bà Phù Ninh Từ Cung, thân sinh Vũ Hoàng Hậu, đứng tế.
- Một bài cho các tôn thất nhà Lê đứng tế.
- Một bài cho bà con bên Ngoại Vũ Hoàng Hậu đứng tế.
Có nhiều câu, nghe qua là biết ngay được người được tế. Như:
* Giọt ngân phái câu nên vẻ quý, duyên hảo cầu thêm giúp mối tu tề.
Khóc thư châu thổi sánh tiếng hòa, khuôn nội tắc đã gây nền nhân nhượng.
* Hồ Ðỉnh ngậm ngùi cung nọ, đã sắp chìm châu lấp ngọc bởi từng nguyền.
Cung Khôn bận bịu gối nao, ép vì vun quế quến lan nên hãy gượng.
Trong các bài công chúa đứng tế:
* Thuở doành Hoàng tô vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn mười phân.
* Trãi phen bến Vỵ đưa duyên, phiếm sắc xoang cầm vầy một thể.
* Dù gót ngọc vui miền Tây Thổ, nỡ nào quên hai chồi lan quế còn thơ.
* Dù xiêm nghê mến cảnh Thanh Ðô, nỡ nào lãng một bóng tang du sắp xế.
Trong các bài tôn thất nhà Lê:
Hẳn non Lam khí vượng đã tàn rồi
Nên vườn Lãng hoa tươi mà vội thế[92]
Tang lễ cử hành rất long trọng. Người người đều tỏ lòng thương tiếc.
Ðương lúc trong triều ngoài nước, biến cố xảy ra dồn dập, mà đình thần cứ lo khuynh loát lẫn nhau, Vua không nghĩ đến nỗi mất còn của quốc gia, cứ lo ăn chơi và nghe lời nịnh hót sát hại công thần, khiến mối nước ngày càng thêm rối rắm, lòng người càng ngày càng thêm ly tán.
Bọn Trần Viết Kiết, Hồ Công Diệu, Trần Văn Kỷ vốn ghét Trần Quang Diệu, nhân thành Quy Nhơn thất thủ, bắt tội Diệu là đồn binh không chịu tiếp ứng, tâu cùng Cảnh Thịnh, xin sai người đưa mật thư vào Quảng Nam báo Võ Văn Dũng bắt Diệu giết đi. Dũng được thư, tự nghĩ:
- Tội là tội của mình, Trần huynh đã có lòng tốt không cáo giác, sao nay mình lại nỡ hại ân nhân. Thà đắc tội cùng Vua còn hơn phạm tội vong ân bội nghĩa.
Bèn đưa thư cho Diệu xem.
Diệu nổi giận:
- Chúng ta đem hết lòng hết sức ra phò Vua. Vua đã không nghĩ đến công lao thì chớ, còn nghe lời siểm nịnh hết phen này đến phen khác, sẵn tay giết chết chúng ta! Tình thế không thể để kéo dài mãi. Tôn huynh hãy ở lại đây ngừa giặc, tôi về kinh.
Trần Quang Diệu về đóng binh tại bờ phía nam sông Hương, Cảnh Thịnh cho ra vời, Diệu không phụng mệnh. Nhà vua sợ hãi, phải nhờ đến nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Nữ tướng Bùi Thị Xuân là chị em thúc bá ruột với Bùi Thái Hậu. Võ nghệ đã tuyệt luân lại còn cùng chồng là Trần Quang Diệu góp một phần lớn trong việc dựng nghiệp cho nhà Tây Sơn. Nhưng vì là phận nữ lưu không được tham dự quốc sự, trải ba triều Thái Ðức, Quang Trung, Cảnh Thịnh, bà chỉ lo việc bảo vệ hoàng thành và nội cung với 5.000 nữ binh và 200 thớt voi do bà tập luyện[93]. Thỉnh thoảng bà theo chồng ra trận, như trận đánh Ai Lao năm Quang Trung thứ hai (1785). Năm ấy vì quốc vương Ai Lao không nạp cống lễ, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu đem một vạn quân đi vấn tội. Bà lãnh đi tiên phong. Ðến Vạn Tượng, chỉ xáp chiến một trận là hạ ngay được thành. Chiến thắng này vang dội tới Gia Ðịnh. Nguyễn Phúc Ánh rất sợ uy vợ chồng bà. Vua Quang Trung băng hà, bà thọ mệnh phò tá ấu chúa. Nhưng Cảnh Thịnh bị bọn gian thần do Bùi Ðắc Tuyên cấu kết, làm bức thành giữa bà và nhà vua. Mãi đến lúc có việc, Cảnh Thịnh mới nhớ đến bà.
Bùi nữ tướng đến gặp chồng, vợ chồng bàn với nhau .
Mối họa trong triều chỉ do bọn gian thần gây nên. Tận diệt bọn ấy thì mối giềng lập lại không đến nỗi khó.
Trần Quang Diệu xin Vua bắt bọn gian thần trị tội.
Trần Văn Kỷ đổ tội cho Trần Viết Kiết và Hồ Công Diệu rồi trốn mất. Nhà vua sai bắt Công Diệu và Kiết đem nộp cho Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu vào triều làm lễ cẩn, rồi lãnh đại binh trở vào Nam.
Tháng giêng năm Canh Thân (1800) Trần Quang Diệu vào Quảng Nam hợp cùng Võ Văn Dũng để vào Quy Nhơn. Nhưng tới Bình Ðê cũng bị quân Tống Viết Phước cản lại. Diệu bèn sai người ra Trà Khúc lấy binh của Nguyễn Văn Giáp, và hợp sức với trấn thủ Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc, tìm mưu phá đường vào Quy Nhơn.
Nguyễn Văn Lộc biết rõ địa thế nơi ranh giới Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, đề nghị chia quân là ba đạo: một đạo đi ngõ đèo Bến Ðá, một đạo theo đường hẻm phía tây núi Sa Lung, một đạo theo nẻo tắt xuyên qua núi Cung Quăng. Ba đạo đồng một lượt nổi trống chiêng và la ó, làm cho địch khiếp sợ, hoang mang không biết ngả nào mà chống đỡ. Rồi ba mặt sáp lại đánh địch tất phải thua.
Trần Quang Diệu y kế qua khỏi đèo Bến Ðá, thẳng vào thành Quy Nhơn.
Võ Tánh đem quân ra đánh. Nhưng đánh không lại, kéo quân vào thành cố thủ. Trần Quang Diệu một mặt cho bao vây công kích, một mặt phân công cho Võ Văn Dũng cầm thủy binh giữ cửa biển Thị Nại.
Quân nhà Nguyễn đã có tên lại có đạn, ở trên thành bắn xuống, quân Tây Sơn không thể đến gần chân thành. Trần Quang Diệu cho đắp trường lũy chung quanh thành vây khốn. Còn Võ Văn Dũng thì đem chiến thuyền Ðịnh Quốc và trăm dư chiến thuyển nhỏ, ra đóng giặng ngang cửa biển. Hai pháo đài ở Gành Ráng và Phương Mai bấy lâu bỏ hoang, được dùng sửa sang lại, và đặt súng đại bác để canh phòng.
Nguyễn Phúc Ánh nghe tin Quy Nhơn bị khốn, tháng 3 năm Canh Thân (1800), cử đại binh ra cứu viện.
Nguyễn Văn Thành cùng Lê Chất, Nguyễn Ðình Bắc, Trương Tấn Bửu đem bộ binh ra đánh Phú Yên rồi kéo đóng ở núi Thị Dã, đợi thủy binh[94].
Thủy binh do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy, kéo ra đóng ở Cù Lao Xanh ngoài cửa Thị Nại[95]
Thủy binh cũng như bộ binh đều bị quân Tây Sơn ngăn cản không liên lạc được với nhau, mà cũng không tiến được. Ðành phải án binh bất động.
Võ Tánh đóng chặt cửa thành chờ viện binh.
Trần Quang Diệu cũng vây chặt chờ trong thành hết lương thực.
Lúc bấy giờ Ðiều quân Thượng đạo là Lưu Phúc Tường liên kết với người Vạn Tượng, Trấn Ninh công nhiễu các trấn Thanh Hóa, Nghệ An. Các thổ dân đều dấy binh sách ứng. Tín đồ Thiên Chúa giáo do các nhà truyền giáo Pháp cổ động, cũng nổi lên đánh phá lung tung.
Ngày 13 tháng 4 năm ấy, lúc giờ Thìn, bỗng hiện ba mặt trời giữa không, chà xát lẫn nhau. Qua giờ thân ngày sau, biến đi một mặt, còn hai mặt cũng cứ chà xát với nhau cho đến tối. Nước sông hồ cạn dần.
Ðến tháng 10, núi Lôi Sơn bỗng lở. Suốt năm không một giọt mưa. Mùa mất, dân đói. Dân tình cực kỳ khốn khổ.
Liệu không cứu được Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh cho rút quân thủy bộ về Gia Ðịnh vào tháng 11 năm Canh Thân (1800) để củng cố lực lượng, rồi tháng giêng năm sau, tức năm Tân Dậu (1801), trở ra đánh mạnh.
Theo kế hoạch của Lê Chất, Nguyễn Phúc Ánh chia quân đánh gọng kềm:
- Nguyễn Văn Thành, Tống Viết Phước, Trương Tấn Bửu đem bộ binh từ Phú Yên theo đường núi Dương An, An Tượng đánh ra.
- Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đem thuyền nhỏ vượt ra phía bắc Thị Nại, vào cửa Cách Thử lẻn vào đầm Thị Nại, dùng hỏa công đốt thủy trại Tây Sơn[96].
- Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy ở ngoài cửa Thị Nại, khi thấy lửa cháy thì kéo chiến thuyền đánh ụp vào. Bộ binh của Nguyễn Phúc Ánh kéo vào trước. Ðến Dương An, bị binh của Nguyễn Quang Huy chận đánh. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cầm cự cùng quân Nguyễn Quang Huy, Trương Tấn Bửu kéo lên ngả An Tượng[97]. Ở đây Nguyễn Quang Huy đã bố trí sẵn mấy đội binh người Thượng. Quân Trương Tấn Bửu bị người Thượng núp ở trong bụi rậm bắn ra, lớp bị chết lớp chạy tán loạn, Bửu phải trở lui. Nguyễn Văn Thành và Tống Viết Phước cũng không sao qua nổi Dương An, phải cùng Trương Tấn Bửu rút vào Phú Yên đóng giữ.
Ở Thị Nại, Võ Văn Dũng canh phòng nghiêm ngặt. Súng đại bác đã sẵn sàng tiêu diệt địch. Nhưng đang đêm, thình lình thấy thủy trại cháy vội cho quân đi chữa lửa. Võ Di Nguy trông thấy ánh lửa liền hô quân tiến vào. Súng trên hai pháo đài bắn xuống đánh chìm hết đoàn thuyền tiên phong. Võ Di Nguy bị trúng đạn chết. Lê Văn Duyệt đốc binh tiếp theo, liều chết vượt khỏi tầm súng. Lê Văn Duyệt dùng hỏa công, lửa cháy rật rật và theo gió tạt vào thuyền Tây Sơn. Gió thổi càng mạnh, lửa cất càng cao. Ánh sáng rực cả mặt biển, ngất cả nghìn dặm mây. Và tiếng súng nổ, tiếng quân la hét rầm trời dậy đất. Quân nhà Nguyễn bị chết vô số. Thuyền Tây Sơn bị đốt không còn một chiếc con. Võ Văn Dũng đại bại, kéo tàn quân lên hợp đồng cùng Trần Quang Diệu giữ những nơi hiểm yếu khác.
Lấy được Thị Nại nhưng không sao cứu nổi thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh đóng giữ Thị Nại, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam và Quảng Nghĩa.
Lúc bấy giờ Lê Sĩ Hoàng đã vào thế Nguyễn Văn lộc để Lộc vào Quy Nhơn tăng cường cho Trần Quang Diệu. Còn Quảng Nam thì do Phạm Cần Chánh trấn thủ.
Binh của Nguyễn Văn Chương bị binh của Phạm Cần Chánh và Lê Sĩ Hoàng đánh bại, phải bỏ hết chiến thuyền, chạy bộ trốn vào Quy Nhơn.
Ở Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh vẫn không giải cứu Võ Tánh được, bèn để Nguyễn Văn Thành giữ cửa Thị Nại, Nguyễn Huỳnh Ðức đồn tại đèo Cù Mông để chống cùng Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, còn mình thì kéo đại quân ra đánh Phú Xuân do biết rằng lực lượng của Tây Sơn một phần lớn dồn ở Quy Nhơn, thế công thủ ở Phú Xuân đều yếu ớt.
Nguyễn Phúc Ánh đi rồi, Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Ðức họp sức nhau đánh Trần Quang Diệu, dưới Thị Nại đánh lên, trong Cù Mông đánh ra. Nhưng mặt núi có Nguyễn Quang Huy, mặt bể có Võ Văn Dũng, quân nhà Nguyễn bị đánh bật ra khỏi đất Quy Nhơn.
Trần Quang Diệu đốc quân đánh thành thêm kịch liệt.
Quân mệt mỏi, tên đạn cạn, lương thực cạn, Võ Tánh liệu không trì thủ được nữa, bèn viết thư ra cho Trần Quang Diệu yêu cầu lúc vào thành đừng sát hại quân dân vô tội. Ðoạn mời Ngô Tùng Châu đến nói:
- Thành thế nào cũng mất. Tôi là tướng võ phải chết theo thành, nhưng không muốn cho địch thấy mặt. Còn ngài là quan văn, xin hãy cố mà bảo trọng.
Ngô Tùng Châu đáp:
- Võ có trung can, lẽ đâu văn lại không nghĩa khí? Tôi xin phép đi trước ngài. Ðoạn về dinh, uống thuốc độc.
Võ Tánh sai chất củi khô nơi lầu Bát Giác và rải thuốc súng chung quanh lầu. Nghe tin Võ công sắp tuẫn tiết, người ái thiếp và người lão bộc xin được chết theo.
Công không cho. Hai người đợi Công lên lầu rồi, lấy dây tự trói mình vào cột lầu chung với củi. Công thay áo mão, ung dung bước lên lầu, hướng về Bắc lạy năm lạy, rồi truyền châm hỏa. Không ai nỡ ra tay. Công đòi hút thuốc. Một điếu thuốc ngon dâng lên. Công hít một hơi dài rồi quăng điếu thuốc vào nơi có thuốc súng. Lửa bốc cháy. Không mấy chốc cả trong lẫn ngoài. Lầu Bát Giác hóa thành một khối lửa cháy hừng hực! Tiếng khóc vang thành! Quản binh Nguyễn Thận hay tin, hối hả chạy về, cảm khích, nhảy vào lửa theo chủ tướng.
Rồi cửa thành mở. Quân Trần Quang Diệu, đội ngũ chỉnh tề, lặng lẽ kéo vào. Tướng sĩ trong thành, bỏ khí giới, đội nào đứng theo đội nấy, không sợ hãi cũng không vênh vang. Quang Diệu ban lời khuyến dụ, rồi cho thu hài cốt hai vị trung thần của nhà Nguyễn chôn cất theo lễ. Viên quản binh, người lão bộc và người ái thiếp của Võ công cũng được an táng trong thành bên cạnh mồ Ngô Tùng Châu và Võ Tánh.
Quang cảnh thành Quy Nhơn lúc bấy giờ vừa bi vừa hùng.
Ðó là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).
Trước khi thành Quy Nhơn bị Trần Quang Diệu hạ thì thành Phú Xuân đã bị Nguyễn Phúc Ánh hạ rồi. Nguyễn Phúc Ánh kéo thủy quân ra đến Phú Xuân vào cuối tháng 4 năm Tân Dậu (1801). Quân nhà Nguyễn vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là Phò Mã Nguyễn Văn Trị[98] đem quân ra lập đồn tại Quy Sơn để chống cự. Tiền quân nhà Nguyễn tiến không được. Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân đánh tập hậu. Lưỡng đầu thọ địch, Văn Trị không chống nổi, bỏ đồn thoát thân. Thủy sư nhà Nguyễn vào cửa Thuận An rồi kéo lên đánh thành Huế. Vua Cảnh Thịnh phải tự mình kéo quân ra cự địch. Tướng tài không có ai. Nữ tướng Bùi Thị Xuân phải đem nữ binh và tượng binh theo hộ giá. Hai bên đánh nhau từ sáng đến trưa thì quân Tây Sơn tan rã. Bùi nữ tướng vừa chỉ huy nữ binh, vừa điều khiển tượng binh, khi thủ khi công tả xung hữu đột, mới bảo vệ Vua Cảnh Thịnh được an toàn. Nhưng rồi liệu thế không trì thủ được nữa. Nữ tướng bèn phò Vua chạy vào thành.
Trong thành các đình thần, võ cũng như văn, đều bỏ trốn hết.
Không trì hoãn được. Nữ tướng liền thúc quân mở cửa hậu, phò Vua, Thái Hậu và cung quyến chạy ra Bắc. Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Chất đem kỵ binh đuổi theo. Nữ tướng truyền nữ binh phò Ngự đi trước, còn mình thì quay trở lại điều khiển tượng binh để chặn quân nhà Nguyễn.
Bầy voi lúc ở trước thành Phú Xuân, vì lo bảo vệ Vua, nên chỉ giữ thế thủ, lúc này mới được dịp chiến đấu nên ra uy. Cả bầy thét lên một tiếng rồi xông vào đoàn ngựa đương chạy tới. Ngựa thất kinh, lồng lên và hí vang trời, rồi bỏ chạy tán loạn. Quân Nguyễn không đợi đánh đã tan! Lê Chất vội quay ngựa chạy về Phú Xuân. Bùi nữ tướng cũng thu voi chạy theo Ngự giá.
Nguyễn Phúc Ánh vào thành Phú Xuân treo bảng chiêu an.
Ðất Thuận Hóa từ đây, ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801) vào tay Nguyễn Phúc Ánh.
Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân vào cứu Quy Nhơn, sai Nguyễn Văn Trương ra đóng ở Linh Giang, Phạm Văn Nhân xuống giữ Thuận An, Lưu Phúc Tượng đi đường lên Vạn Tượng mua chuộc Vua Ai Lao và các bộ lạc ở dọc theo biên giới Việt Lào.
Lê Văn Duyệt kéo bộ binh qua đèo Hải Vân vào Quảng Nam.
Lê Chất đem thủy binh vào sông Trà Khúc ở Quảng Nghĩa.
Phạm Cần Chánh trấn thủ Quảng Nam để cho quân Lê Văn Duyệt kéo thẳng vào Quảng Nghĩa gặp quân Lê Chất, rồi cùng Lê Sĩ Hoàng trấn thủ Quảng Nghĩa đánh hai đầu. Quân Nguyễn đông đến 3 vạn, nhưng không chống cự nổi sức mạnh của Phạm, Lê, Lê Chất phải kéo quân chạy ra biển, Lê Văn Duyệt chạy vào Mộ Ðức. Ở Mộ Ðức, Lê Văn Duyệt lại bị Lê Sĩ Hoàng đánh cho một trận nữa, phải chạy lên núi Thạch Bích tức Ðá Vách.
Thạch Bích nằm phía tây nam phủ lỵ Quảng Nghĩa thuộc Nghĩa Hành. Núi cao trên nghìn thước. Ðó là ngọn núi cao nhất Quảng Nghĩa. Khí núi không hùng nhưng thế núi rất hiểm. Vách đá dựng ngược, đường đi khúc khuỷu cheo leo. Trên núi có người Thượng tục gọi là Mọi Ðá Vách thường nổi dậy chống chánh quyền địa phương.
Lê Văn Duyệt vốn người Quảng Nghĩa, biết rõ địa thế và tánh tình người Ðá Vách, nên có thể lên đó đồn trú lâu dài.
Còn lê Chất chạy ra biển, đóng quân tại Cổ Lũy.
Cổ Lũy là một cô thôn nằm trên cửa sông Trà Khúc.
Nơi đây xưa kia, người Chiêm Thành đóng đồn ngăn giặc. Ðó là một vùng cát trắng mênh mông, phía trước mặt là nơi giao thủy của sông Trà và sông Vệ, bên kia sông là thôn Phú Thọ, và phía đông là cửa Ðại mênh mông.
Cũng như Lê Văn Duyệt, Lê Chất đóng binh chờ dịp vào Quy Nhơn.
----------------------
[92] Có ghi rõ trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích.
[93] Lúc ở Quy Nhơn bà chỉ có 2.000 nữ binh, ra Phú Xuân mới tổ chức thêm. Số voi này là voi mới. Voi bà đã luyện tập ở Quy Nhơn, đều phân phát cho các trấn. Bà chỉ đem ra Phú Xuân thớt voi đầu đàn bà thường cỡi
[94] Núi Thị Dã thuộc về Tuy Phước, phía tây nam có núi Bà Thanh, có đường đi đến suối Nam Thủy ở Phú Yên. Người Thượng dùng đường này để qua lại Phú Yên và Quy Nhơn.
[95] Cù Lao Xanh, Chàm gọi là Poulo Gambia, nằm giữa hải phận Phú Yên và Quy Nhơn;
[96] Lúc bấy giờ Cách Thử chưa bị lấp, đường nước thông thương với đường Thị Nại ở phía nam thuộc về Tuy Phước;
[97] Núi Hương An ở phía đông, núi An Tượng ở phía tây , có đường liên lạc xuyên qua các ngọn núi liền dây.
[98] Em rể Vua Cảnh Thịnh chông công chúa là con gái Bùi Thái Hậu.
Nhờ Bùi nữ tướng hộ giá, Vua Cảnh Thịnh cùng cung quyến qua khỏi Linh Giang, ngày 5 tháng 5 năm Tân Dậu (1801). Ðến Thanh Hóa phi báo cho Nguyễn Quang Thùy vào rước.
Tới Bắc Thành Cảnh Thịnh ngự nơi cung Vua Lê. Lúc bấy giờ mưa luôn cả tuần. Trong thành nước ngập lênh láng. Nước giựt rồi lại bị địa chấn. Ðất trước hoàng cung bị sụt hàng mẫu, sâu đến ba bốn thước. Ở Nghệ An, lầu Tam Tằng nơi Phụng Hoàng thành khi không mà ngã. Thiên hạ đều cho là triệu bất tường.
Vào hạ tuần tháng 5 năm Tân Dậu, nhà vua đổi niên hiệu là Bửu Hưng, xuống chiếu nhận lỗi cùng nhân dân và vỗ về tướng sĩ các trấn. Lại cử Thi trung Ðại Học Sĩ Ngô Thời Nhậm làm Binh Bộ Thượng Thư, Hiệp biện Ðại Học Sĩ Nguyễn Thế Lịch làm Lại bộ Thượng Thư, Thị trung Ngự Sử Phan Huy Ích là Lễ bộ Thượng Thư. Các quan văn võ khác thảy đều được thăng thưởng.
Nhà vua còn sai đắp đền Phương Trạch tại Tây Hồ, lấy ngày Hạ chí và Ðông chí làm ngày lễ Trời Ðất, cho mở khoa thi để tuyển nhân tài.
Ðến tháng 8, nhà vua truyền hịch đi các trấn để lấy thêm binh, rồi sai Nguyễn Quang Thùy đem quân vào trấn Nghệ An.
Qua tháng 11, nhà vua giao Bắc Thành cho hai em là Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh, tự mình đem quân 4 trấn xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ An non 3 vạn người, kéo binh đến Linh Giang, nữ tướng Bùi Thị Xuân đem 5.000 thủ hạ theo hộ giá.
Tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương, Ðặng Trần Thường thấy binh thế của Tây Sơn quá mạnh, bỏ Linh Giang rút về Ðồng Hới. Nguyễn Phúc Ánh được tin, liền thân chinh, đem đại binh ra tiếp ứng. Ðóng đại binh tại Ðồng Hới. Sai Phạm Văn Nhân và Ðặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt bể.
Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), Vua Bửu Hưng sai Nguyễn Quang Thùy và Tổng Quân Siêu tiến quân lên đánh Trấn Ninh, Ðô Ðốc Nguyễn Văn Kiên và Tư Lệ Tiết thì đánh lũy Ðâu Mâu, Thiếu úy Ðặng Văn Tất và Ðô Ðốc Lực thì đem 100 thuyền chiến chặn ngang cửa Nhật Lệ.
Trấn Ninh, Ðâu Mâu, Nhật Lệ đều thuộc Quảng Bình.
Ðó là ba căn cứ quân sự rất trọng yếu ở địa đầu trấn Thuận Hóa.
Trấn Ninh ở địa phận xã Phú Ninh, huyện Phong Lộc. Năm Nhâm Dần (1662) Nguyễn Hữu Dật tôi nhà Nguyễn đắp lũy Trấn Ninh để ngăn giặc biển, lại đắp lũy Sa Phụ để nương tựa nhau. Họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa, đánh mấy tháng không qua khỏi lũy này, phải rút quân trở về Bắc.
Phá Nhật Lệ ở đông bắc huyện Phong Lộc, cũng thuộc xã Phú Ninh. Chu vi ước 5 dặm. Phía đông có gò cát bao la, đồi cao xanh rậm, biển cả chạy quanh ở đông bắc, các núi triều cũng ở tây nam sông Nhật Lệ, tức sông Ðồng Hới, chạy ra Phá.
Núi Ðâu Mâu ở phía tây huyện Phong Lộc, tọa lạc xã Lệ Kỳ. Núi gò trùng điệp, cây cối sầm uất. Ðỉnh cao nhọn hình như mão đâu mâu, khí thế hùng vĩ. Chân núi gối sông Nhật Lệ, lũy do chúa Nguyễn đắp để ngăn quân Trịnh, chạy dài dưới chân núi.
Lũy Trấn Ninh và Ðâu Mâu đã kiên cố lại phòng vệ nghiêm túc, đánh mãi mà không hạ nổi. Vua Bửu Hưng liền đem tất cả binh mã tới đánh Ðâu Mâu. Quân trên thành dùng súng đại bác bắn xuống và lấy đá lớn quăng xuống. Quân Tây Sơn lớp bị thương lớp chết rất nhiều. Vua Bửu Hưng sợ muốn rút lui. Bùi nữ tướng không chịu, xin cho ra đốc chiến. Nhận thấy trong những khoảng có súng bắn thì không có đá quăng, mà súng thì bắn xa, dưới chân thành không bị đạn, súng lại không bắn liên tục được, nữ tướng bèn lanh lẹ nhảy vào chân thành. Nữ binh theo gương nhảy theo từng loạt. Vào tới chân thành, chuyền lên vai nhau, trèo vào thành. Lính canh súng và quăng đá không đề phòng. Ở ngoài binh Tây Sơn cứ những nơi không có đạn bắn đá quăng, tiến vào chân thành, và theo phương pháp chuyền vai mà lên. Hai bên đánh xáp lá cà. Ðánh từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp.
Trong bài Bùi phu nhân ca của cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì có đoạn rằng:
Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao
Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào
Hoàng hôn thành dốc bi già động
Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều
Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc
Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc
Thùy ngôn cân quắc bất như nhân
Dĩ cổ phương kim tam đinh túc
Nghĩa là:
Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra.
Gió xuân thổi máu bay thẩm đẩm tấm chinh bào
Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn
Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung
Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân.
Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà Ai bảo khăn yếm không bằng người ?
Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc
Ðây là tác giả tả Bùi nữ tướng lúc đánh thành Ðâu Mâu.
Thành sắp hạ được thì có tin thủy quân Nhật Lệ bị quân nhà Nguyễn đánh tan. Nguyễn Quang Toản hoảng hốt ra lệnh lui binh. Không sao cản được, Bùi nữ tướng phải mở đường máu để tháo quân. Ðô Ðốc Kiên và Tư Lệ Tiết không theo kịp, phải đầu hàng.
Bửu Hưng Nguyễn Quang Toản chạy đến Linh Giang thì bị tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Trương chận lại. Quân Tây Sơn không còn sức chống cự, Bùi nữ tướng lại một phen nữa phải xông tên đạn để đưa Quang Toản sang sông.
Về đến Nghệ An, kẻ tùng giả còn không quá vài trăm! Bùi nữ tướng, mình đầy thương tích, nhìn thấy đoàn nữ binh sống sót, máu me đẫm áo, thì lệ anh hùng khôn ngăn.
Trong trận Ðâu Mâu này, nữ tướng Huỳnh Thị Cúc đã sát cánh cùng Bùi nữ tướng hợp lực chiến đấu công thành, liên kết tiếp sức nhau khi mở đường máu rút quân khỏi thành và dốc hết khí lực, tài năng mới đưa được Vua Cảnh Thịnh qua sông.
Huỳnh nữ tướng cùng một số nữ binh còn sống ở lại chặn quân nhà Nguyễn.
Sáng hôm sau Huỳnh Thị Cúc cùng mười nữ binh áo ướt đẫm máu, về đến thành. Vừa trông thấy Bùi nữ tướng, Huỳnh Thị Cúc vội vã chạy đến ngã vào lòng. Bùi nữ tướng ôm lấy em, Huỳnh nữ kiệt nhìn chị lần cuối rồi tắt thở.
Ở Trấn Ninh, Nguyễn Quang Thùy nghe tin đại binh rút lui, liền cũng rút lui. Nhưng không qua nổi Linh Giang, phải chạy lên đường núi mà đi, hơn tuần nhật mới về đến Nghệ An.
Anh em gặp nhau, Bửu Hưng cùng Quang Thùy ra Bắc, để Nguyễn Văn Thân ở lại giữ Nghệ An. Bùi nữ tướng, thương tích chưa lành, nên xin ở lại Nghệ An điều dưỡng. Nguyễn Phúc Ánh thắng quân Tây Sơn ở Trấn Ninh, Nhật lệ rồi, bèn đem quân về Phú Xuân, để Nguyễn Văn Trương giữ Ðồng Hới, Tống Phúc Lương và Ðặng Trần Thường giữ Linh Giang.
Trong lúc Nguyễn Phúc Ánh đem quân ra Ðồng Hới thì ở Quảng Nghĩa, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân đi lọt được vào Quy Nhơn, Lê Chất đi đường biển vào cửa An Dũ, Lê Văn Duyệt theo đường hẻm Chung Xá vượt qua núi La Sung, hợp nhau ở Bồng Sơn, rồi kéo vào Quy Nhơn. Nghe tin Lê Văn Duyệt và Lê Chất đã vào được Quy Nhơn, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Ðức ở Phú Yên kéo quân ra tiếp ứng.
Quân Tây Sơn do Võ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc điều khiển, chia nhau ra chặn đánh.
Trận đánh lớn nhất là trận đánh ở Kỳ Sơn, giữa Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành.
Kỳ Sơn ở phía đông nam thành Quy Nhơn.
Ðó là một hòn thổ sơn chạy dài theo hướng bắc nam, bao quanh đến vài mươi dặm. Hình núi không đều, hai đầu mở rộng và cao, chính giữa hơi eo và thấp. Ở đầu phía bắc nổi lên hai đỉnh đứng song song, một gọi là Phụng Sơn, một gọi là Xuân Sơn. Ðầu phía Nam, một ngọn nửa cao suýt soát hai ngọn kia, gọi là Mai Sơn. Trên núi có nhiều hòn đá to lớn và có một cái hầm rộng lớn ăn sâu vào núi, gọi là Quy Khanh tức Hầm Rùa, vì trước miệng hầm có hòn đá lớn hình giống con linh quy. Thế núi rất hiểm trở.
Nguyễn Văn Lộc là người Kỳ Sơn, biết rõ những nơi hiểm yếu. Với 8.000 quân, phục hơn 20 chỗ, đại phá được 3 vạn quân của Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành.
Nhờ vậy mà quân nhà Nguyễn không đến gần được thành Quy Nhơn. Quân trong ngoài ra vào không trở ngại. Quân nhà Nguyễn đóng giữ mặt bắc ở Thạch Tân và mặt bể ở Cách Thử, Thị Nại. Quân Tây Sơn cũng đóng yên trong và ngoài thành, gờm nhau với quân nhà Nguyễn.
Chợt Trần Quang Diệu được tin quân Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Nguyễn Phúc Ánh đã hoàn toàn làm chủ đất Thuận Hóa thì thất kinh, bàn cùng các tướng.
- Binh mã đã bị hao ở Trấn Ninh và Nhật Lệ quá nhiều, lực lượng ở Bắc Thành không còn mấy. Nếu Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đến đánh thì Bắc Thành không thể trì thủ được lâu. Ta phải đem quân về cứu, kẻo Bắc Thành thất thủ nữa thì Quy Nhơn có giữ vững cũng không ích gì. Vậy nên bỏ thành Quy Nhơn. Võ tướng quân cùng tôi đem đại binh ra Bắc. Nguyễn Quang tướng quân đem binh đóng ở Dương An, Nguyễn Văn tướng quân về đóng ở Kỳ Sơn, để chia bớt lực lượng của quân Nguyễn. Không nên đóng quân trong thành mà bị địch bao vây.
Sắp đặt xong, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng các bộ tướng đem 3.000 quân, 80 thớt voi, theo đường thượng đạo sang Lào để ra Nghệ An, vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802).
Sau khi quân Tây Sơn bị đại bại ở Nhật Lệ và Trấn Ninh, thì đất Thuận Hóa từ Hải Vân Sơn đến Linh Giang hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn.
Ngày 2 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh xưng đế, đặt niên hiệu là Gia Long.
Lên Ngôi vua rồi, Gia Long sai Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tĩnh đem phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh đã phong cho Tây Sơn, sang nạp cho Thiên Triều và xin cho mình làm An Nam Quốc Vương thay thế Tây Sơn.
Liền đó Nguyễn Phúc Ánh kéo đại binh đi đánh Bắc Hà, sai Nguyễn Văn Trương lãnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lãnh bộ binh, đi trước.
Tháng 6, quân bộ qua sông Linh Giang, tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội Thống, rồi cùng đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thuận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lý ở Diễn Châu.
Lúc bấy giờ Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã đến Quy Hợp. Ðường đi khó khăn, hết đèo lại dốc, phần lam sơn chướng khí, phần rắn độc thú dữ, phần bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn như Hà Công Thái, Nguyễn Ðình Ba... đột kích, đoàn tùy tùng Trần Quang Diệu bị hao hụt dần dần. Khi đến Nghệ An thì mười phần chỉ còn ba bốn. Ðoàn tượng binh chỉ còn mươi thớt! Tướng sĩ hầu hết đều bị sốt rét rừng. Trần Quang Diệu bị phù thủng, đi đứng khó khăn.
Trần Quang Diệu kéo quân xuống Hương Sơn. Tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Ðức Ðịnh dẫn Man binh đến đánh bất thình lình. Trở tay không kịp, quân sĩ bị giết sạch! Trần Quang Diệu cùng các bộ tướng Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Ðiềm, Nguyễn Văn Miên, Võ Văn Dũng đều bị bắt.
Ở Diễn Châu, Bùi nữ tướng hay tin, liền đem nữ binh đi giải cứu.
Ðến Giáp sơn thì giải cứu được. Chạy đến sông Thành Chương thì bị quân nhà Nguyễn chận đánh. Quân Tây Sơn liều chết lăn xả vào chém giết quân Nguyễn. Bùi nữ tướng và đoàn nữ binh xông vào đâu thì binh Nguyễn rã đến đó. Nhưng quân Nguyễn quá đông, quân Tây Sơn dần dần bị yếu thế. Các tùy tướng lớp bị chết, lớp bị bắt trở lại. Chỉ có Bùi nữ tướng, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng thoát khỏi. Song Trần Quang Diệu kiệt sức đi không nỗi nữa. Nữ tướng phải lo bảo vệ chồng, không rảnh tay chống cự cùng binh tướng nhà Nguyễn, nên cả hai vợ chồng đều bị sa cơ. Một mình Võ Văn Dũng thoát được. Nhưng chạy ra đến Nông Cống (Thanh Hóa), bị bọn Lê Văn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo dân địa phương ra bao vây. Một mình không chống nổi đám đông. Võ bị bắt trở lại.
Trần Quang Diệu, Bùi nữ tướng, Võ Văn Dũng đều bị đóng cũi giải về Nghệ An nạp cho Nguyễn Phúc Ánh. Dọc đường Võ Văn Dũng phá cũi thoát thân, Bùi nữ tướng không nỡ bỏ chồng, đành ở lại để cùng chết.
Dẹp yên Nghệ An, Nguyễn Phúc Ánh xua quân ra đánh Thanh Hóa. Ðốc trấn là Nguyễn Quang Bàn khiếp sợ mở thành đầu hàng. Ðô Ðốc Ðặng Xuân Bảo cương quyết:
- Làm tướng chỉ biết đánh chớ không biết đầu.
Rồi hô lớn:
- Quân sĩ, ai muốn theo tôi?
Vài ngàn quân sĩ dạ to một tiếng rồi cùng chủ tướng xông ra thành.
Quân Nguyễn đông như kiến. Nhưng quân Tây Sơn không chút e dè. Tướng lướt đi trước, quân đi sau giáo gươm đâm chém, như mưa xối bão táp, không ai chống đỡ nổi. Nhưng rồi quân Nguyễn chạy ra xa dùng tên đạn bắn. Xông qua mũi tên làn đạn, hết lớp này đến lớp khác, quân Tây Sơn bị chết lần lần. Ðặng Xuân Bảo bị trúng đạn té quỵ. Quân Nguyễn ùa ra bắt sống.
Quân Nguyễn Phúc Ánh kéo vào thành, Nguyễn Phúc Ánh dụ hàng. Bảo nhất định không hàng, nhịn ăn năm ngày không chết, bèn đập đầu vào vách tuẫn tiết.
Lấy được Thanh Hóa rồi quân Nguyễn Phúc Ánh rầm rộ kéo ra Bắc Thành.
Lực lượng Bắc Thành lúc bấy giờ đã quá yếu. Bao nhiêu tinh binh, nhà vua đã đem đi đánh Trấn Ninh và Nhật Lệ, tân quân ở các trấn về, chưa tập luyện được thành thục, nên vừa giáp trận đã rã rời.
Quân Nguyễn Phúc Ánh rầm rộ kéo đến Thăng Long. Quân Tây Sơn nghe tin khiếp đảm, bỏ thành trốn gần hết. Liệu không thể chống giữ nổi, Ðại Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết và phu nhân là bà Trần Thị Lan đưa Vua Bửu Hưng cùng cung quyến sang sông Nhị Hà chạy lên vùng núi phía Bắc. Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tứ, Tư Mã Nguyễn Văn Dụng theo hộ giá.
Ðể ngăn giặc đuổi theo, Nguyễn Quang Thùy cùng Ðô Ðốc Trương Ðăng Ðồ tức Tú Ðức Hầu và phu nhân ở lại giữ thành[99]. Thế giặc mạnh như bão táp, không sao địch được, hai ông bà Tú Ðức Hầu phò Nguyễn Quang Thùy chạy về ngả Sơn Tây, để cho giặc đuổi theo mình chớ không đuổi theo Vua và cung quyến.
Ðoàn Ngự giá đến Xương giang, đêm nghỉ ngơi nhà dân địa phương, bị kẻ bất lương đi cáo giác. Quân nhà Nguyễn kéo đến vây đánh, Nguyễn Văn Tứ và Nguyễn Văn Dụng bị tử trận. Hai ông bà Ðô Ðốc Tuyết phá được vòng vây, phò xa giá chạy được mươi dặm nữa thì quân nhà Nguyễn do Lê Chất chỉ huy đuổi kịp. Giáp mặt Lê Chất, Ðô Ðốc Tuyết hỏi:
- Nhà ngươi quên ơn chúa cũ?
Chất đáp:
- Ngũ Tử Tư chỉ nhớ đến thù cha.
Ðô Ðốc truyền phu nhân phò Ngự giá chạy trước, còn mình thì kịch chiến cùng lê Chất. Một mình tả xông hữu đột, quân Nguyễn núng thế toan thối lui, thì một phát súng bắn trúng Ðô Ðốc té nhào. Quân Nguyễn liền đuổi theo Ngự giá. Trần phu nhân hết sức chống cự, nhưng ít không thắng nổi đông, cả đoàn đều bị bắt. Không thể để địch làm nhục, phu nhân liền tự sát cùng với Thái Hậu Bùi Thị Nhạn.
Vua Bửu Hưng cùng cung quyến đều bị giải về Thăng Long.
Ðó là ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802).
Mấy hôm sau Nguyễn Quang Thùy và vợ chồng Tú Ðức Hầu cũng bị bắt ở Sơn Tây, Nguyễn Quang Thùy đập đầu tuẫn tiết. Tú Ðức Hầu cùng phu nhân rút gươm tự sát.
Nhà Tây Sơn mất!
------------------------
[99] Trương Ðăng Ðồ người làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Nghĩa (chú ruột Trương Ðăng Quế). Văn võ toàn tài. Bà phu nhân sắc đẹp, võ giỏi, cùng nữ tướng Bùi Thị Xuân và bà họ Trần vợ Ðô Ðốc Tuyết là chỗ thâm giao.