Mưu lược Đặng Tiểu Bình
Tác giả: Xuân Duy, Quỳnh Dung
Phần 1: Mưu lược trị loạn-
1.1 Việc trở lại cầm quyền của Đặng Tiểu Bình, dù có lục tìm hết trong sử sách Trung quốc cũng không có chuyện nào ly kỳ như vậy
Trong cuốn sách Những ngôi sao trong Đảng Cộng sản Trung quốc của Harisơn có một ngôi sao đặc biệt sáng chói, ông ta gọi đó là người lùn không thể bị đánh đổ ông ta định chỉ ai, ta không cần đọc tiếp cũng có thể đoán ra được, bởi vì trong số lãnh tụ Đảng Cộng sản Trung quốc người thấp bé nhất và mấy lần bị đánh mà không đổ thì chỉ có một người, đó là Đặng Tiểu Bình. Trong cuộc sống mang tính truyền kỳ của Đặng Tiểu Bình, tình tiết khiến người ta quan tâm nhất là ba lần bị ngã lại ba lần vùng lên trên vũ đài chính trị:
- lần thứ nhất: Vào thập kỷ 30, ở khu xô viết trung ương, Đặng và Mao Trạch Đông bị chủ nghĩa mạo hiểm tả khuynh bài xích, bị quy là đầu sỏ của đường lối La Minh ở Giang Tây, bị buộc kiểm thảo, cách chức và đưa xuống cơ sở rèn luyện lao động. Cho tới khi đường lối Mao Trạch Đông giành được thắng lợi, Đặng mới hoàn toàn ngẩng đầu lên được.
- lần thứ hai: Vào thập kỷ 60, trong cơn giông bão cách mạng văn hóa chưa từng có trong lịch sử, Đặng từ địa vị Tổng bí thư bỗng bị chụp cho cái tội danh tên đầu sỏ số hai đi theo đường lối tư bản, bị Lâm Bưu đuổi xuống chuồng bò ở Giang Tây suốt trong hơn ba năm. Không lâu sau khi Lâm Bưu bị đổ, Đặng lại đứng lên từ tro tàn của cách mạng văn hóa.
- lần thứ ba: Giữa thập kỷ 70, Đặng thay thế Chu Ân Lai chủ trì công tác trung ương chưa được một năm, lại bị trúng tên ngã ngựa, trở thành “kẻ đi theo đường lối tư bản đến chết cũng không chịu hối cải”, bị cách hết mọi chức vụ trong và ngoài đảng. Lần này, mọi người đều tưởng rằng thế là hết hoàn toàn. Nhưng, sau khi đập tan nhóm bốn tên, Đặng vận dụng mọi kế mưu sách lược trong đời sống chính trị của Trung quốc, đi đấu tranh, trao đổi, thuyết phục và tranh luận kịch liệt, để rồi lại nắm được quyền.
Tác giả Harisơn sở trường về viết truyện ký nhân vật, đã hết sức cảm khái trước việc ba lần ngã xuống, ba lần vùng lên của Đặng, đã nói: “Việc trở lại cầm quyền của Đặng Tiểu Bình, dù có lục hết sử sách xưa của Trung quốc cũng không tìm thấy chuyện nào ly kỳ hơn”. Còn có thể bổ sung thêm một câu: Trong lịch sử thế giới cũng khó tìm thấy thí dụ thứ hai.
Việc chìm nổi trên hoạn lộ là chuyện thường thấy. Nhưng không có ai chìm sâu rồi lại lên cao như Đặng Tiểu Bình, một đời trải qua đến ba lần. Điều khiến người ta kinh ngạc và thán phục là, việc ba lần lên ba lần xuống của Đặng không phải là tuần hoàn. Nó giống như một quả bóng đầy ma lực, mỗi khi rơi xuống lại nảy lên vị trí cao hơn trước. Trong đó có điều gì thần bí?
Bản thân lâm vào nghịch cảnh nhưng vẫn lạc quan tự tin, có lẽ là điều thứ nhất. Mao Mao nói: “Cha tôi là người có tính cách hướng nội, trầm tĩnh ít nói, cuộc đời cách mạng hơn 50 năm khiến ông đã luyện thành tác phong gặp nguy nan không sợ hãi, trước biến cố không lung lay. Đặc biệt là đối với vận mệnh của cá nhân, thì rất lạc quan. Trong nghịch cảnh, ông khéo vận dụng tinh thần lạc quan để đối phó với tất cả, và dùng một số công việc thực tế để điều tiết cuộc sống, chưa bao giờ tỏ ra trống rỗng và ngập ngừng”. Đặng không bao giờ như người nước Kỷ lo trời sập (ý nói lo nghĩ vô căn cứ- Người dịch) vì nếu trời có sập thì có người to cao hơn chống đỡ. Đó là tố chất đầu tiên giúp ông chiến thắng ách vận, thoát ra khỏi chỗ bế tắc. Nếu không có điều đó thì chẳng cần ai dẫm đạp, tự mình cũng đã tiêu ma ý chí. Đừng nói tới ba lần ngã ba lần vùng lên, mà một lần ngã cũng đã không gượng dậy được.
Lạc quan không có nghĩa là buông trôi số phận, mà là kiên nhẫn chờ đợi cơ hội có ngày trở lại nắm quyền. Tính nhiều biến động trên trường chính trị làm cho những người đang đắc thế cũng có lúc lại sa chân và giúp cho người thất thế có cơ hội để lại vươn lên. Điều khác biệt chỉ ở chỗ, người trong nghịch cảnh không có cách nào tự mình sáng tạo cơ hội, chỉ có im lặng quan sát động tĩnh, kiên nhẫn chờ đợi thời vận. Chờ đợi, cũng có khả năng như quan đại phu Khuất Nguyên, đến phút cuối cùng cũng không thấy Sở Vương hồi tâm chuyển ý, mà triệt để thất vọng. Đặng còn tương đối may mắn, ông trước sau đã chờ được tới lúc đường lối Vương Minh được thanh toán, lúc Lâm Bưu sụp đổ, lúc nhóm bốn tên bị bắt. Ba sự kiện đó là cơ hội quan trọng giúp ông ba lần thoát ra khỏi bế tắc.
Cơ hội thường hiếm hoi đối với những người thất thế. Vì vậy, ngoài việc chờ đợi, phải có tính năng động, chủ quan, giữ cho đầu não luôn nhạy bén, nắm được mọi tin tức, kịp thời nắm bắt thời cơ. Sau môi lần bị đánh đổ, Đặng thường rất quan tâm đến thời sự chính trị, lưu tâm đến báo chí và đài phát thanh, tìm mọi cách để giữ mối liên hệ với bên ngoài. Khi nghe tin Lâm Bưu bị đổ, nhóm bốn tên bị bắt, ông cho rằng thời cơ đã đến và lập tức có phản ứng thích hợp, chủ động viết thư cho Mao Trạch Đông, viết thư cho Hoa Quốc Phong. Một bức thư chưa được, lại viết bức thứ hai. Nếu không chủ động như vậy, ông có thể bị mọi người quên đi, đó là điều có thể xảy ra.
Người đại trượng phu phải biết co, biết duỗi. Khi ở phía dưới, cần phải biết thỏa hiệp ở mức độ cần thiết, làm cho người đang nắm giữ quyền lực được vừa lòng. Đặng vốn không bao giờ nhượng bộ trên những vấn đề có tính nguyên tắc, vì vậy mà mang tội là không chịu hối cải. Nhưng khi hoàn cảnh đòi hỏi phải thỏa hiệp thì ông tỏ ra hiểu tình thế. Trước khi được ra lần thứ hai, Đặng đã rất khiêm tốn kiểm điểm trước Mao về khuyết điểm của mình, khiến Mao tin rằng ông khác với Lưu Thiếu Kỳ, có thể lại giao cho trọng trách. Trước khi được trở lại lần thứ ba, ông thừa nhận trước Trung ương đảng mới về những thiếu sót và sai lầm khó tránh khỏi trong thời gian công tác năm 75, tỏ ra chân thành tiếp thu sự phê bình và dạy bảo của lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch. Đó là những hành động sáng suốt. Người ta ở trong thế yếu thì không nên quá kỳ kèo dúng sai. Đúng hay sai cần đợi thời gian sau sẽ nói.
Ngạn ngữ nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thiên (trời) có gió mưa bất trắc, nên trong lĩnh vực chính trị, không ai có thể bảo đảm mình sẽ thuận buồm xuôi gió. Vấn đề là sau khi thuyền bị lật, có thể thoát khỏi ách vận, tìm cách trở lại nắm quyền. Về mặt này, điều then chốt là ở việc mưu sự của người. Từ xưa tới nay, có rất nhiều lý luận về sự thành công nghiên cứu về cách làm thế nào để từ thất bại đi tới thành công. Nhưng không có lý luận về sự thất bại, nghiên cứu việc tại sao lại từ thành công đi tới thất bại, tựa hồ như thất bại đều là do ý trời, không có ai hy vọng thất bại, cũng không có ai nghiền ngẫm con đường đi tới thất bại.
Sự thực, thành và bại, lên và xuống, có mối liên hệ nhân quả nhất định. Cá nhân không có cách gì tránh khỏi thất bại và vấp váp, nhưng có thể chọn lựa phương thức thất bại và vấp váp. Có người suốt đời không bị vấp váp, nhưng chỉ sống bình lặng, không có cống hiến gì lớn; có người bị vấp ngã là vĩnh viễn không dậy được, thậm chí càng ngã càng thụt sâu. Đặng là trường hợp ngược lại hiếm có. Ông không chỉ ba lần ngã ba lần dậy, mà càng ngã lại càng lên cao. Ông có kỹ xảo chính trị đặc biệt gì vậy? Ngoài những điều đã nói trên, ông vốn có trí tuệ mưu lược hơn người, giúp ông chiến thắng ách vận, thoát ra khỏi bế tắc. Còn một điều kiện tiên quyết nữa, tức là mỗi lần ngã của ông đều không phải do tính toán được mất cá nhân dẫn tới, mà là do ông kiên trì chân lý, không chịu khuất phục trước sai lầm. Việc ngã vì lý do đó, trở thành căn cứ để ông lại vùng lên. Không có điều đó thì trong nghịch cảnh, ông không thể lạc quan tự tin, dù có bền bỉ chờ đợi cũng không thể có ngày trở lại, và sự thỏa hiệp sẽ chỉ khiến ông càng lún sâu thêm mà thôi.
Paraxi - Tainâysơ đã so sánh tác phong của Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình như sau: “Chu Ân Lai chú ý đến sách lược, làm cho mình có thế đứng trên mặt nước, nhưng không thể thay đổi phương hướng chủ yếu của dòng chảy xiết. Đặng Tiểu Bình thì không chịu xuôi theo dòng chảy xiết đó mà lập tức đắp đập ngăn dòng nước lũ. Lúc đầu thì thành công, nhưng sau vẫn bị dòng nước cuốn đi. Ông muốn dạt được điều mà sách lược do Chu Ân Lai áp dụng đã không đạt được, thì phải cần thời gian 5 năm, thậm chí lâu hơn nữa. Chu Ân Lai trước sau không hoài nghi lời dạy của Mao Trạch Đông, còn Đặng Tiểu Bình thì dám dùng lời dạy của Mao Trạch Đông dể chống lại hành động của Mao Trạch Đông”.
Người như Đặng Tiểu Bình, có cá tính, dễ bị vấp ngã, nhưng do nắm được chân lý, đi trên đường lớn, mỗi lẫn bị vấp váp chỉ giống như dòng chảy bị cát đá cản lại, càng tích trữ xung lực mạnh. Một khi thời cơ chín muồi, liền nhanh chóng vượt lên, mà còn vượt lên vị trí cao hơn. Mỗi lần ngã là một lần tích luỹ được nhiều ưu thế, trở thành bậc thang đưa ông lên đỉnh cao. Trong cách mạng văn hóa tại sao Mao lại cho phép Đặng Tiểu Bình ra làm việc lại? Một nguyên nhân quan trọng là trong thập kỷ 30 Đặng đã từng là người chấp hành đường lối đúng đắn của Mao Trạch Đông mà lại bị đả đảo. Sau khi đập tan nhóm bốn tên tại sao Đặng Tiểu Bình lại được trở lại nắm đại quyền? Chủ yếu là do phong trào phê Đặng, phản kích lại làn gió đòi lật lại bản án đã tuyên truyền không công cho Đặng, làm cho những người ủng hộ Đặng tăng thêm rất nhiều. Airôthơ từng hỏi một quan chức Trung quốc rằng tại sao ông ta lại tôn trọng Đặng Tiểu Bình, một con người đã bị lên lên xuống xuống nhiều lần như thế. Vị quan chức này trả lời: Đó chính là nguyên nhân khiến chúng tôi tín nhiệm ông. Nếu mấy lần lên xuống của Đặng không phải là vì giữ vững điều mà nhân dân mong muốn, mà chỉ thuần tuý là sự chìm nổi của cá nhân, thì còn có bao nhiêu người tín nhiệm ông?
1.2. Mao Trạch Đông quyết định dùng lại Đặng Tiểu Bình, ngoài lý do ông là nhân tài tài hiếm có nguyên nhân ông là kẻ cầm đầu phái Mao rõ ràng là có tính then chốt
Mùa thu năm 1931, Đặng Tiểu Bình mới 27 tuổi, vừa hoàn thành sứ mạng ở Quảng Tây, dẫn quân về với Mao Trạch Đông, mở ra căn cứ địa ở Giang Tây, tây Phúc Kiến. Đảng giao cho ông nhiệm vụ thứ nhất là làm Bí thư huyện ủy Thụy Kim ở khu Xô viết Trung ương. Đặng nhận nhiệm vụ không lâu, thì cơ quan Trung ương của Đảng vốn đặt ở Thượng Hải cũng lục tục kéo về khu Xô viết. Thụy Kim liền trở thành thủ đô đỏ - nơi đặt căn cứ của chính phủ lâm thời Xô viết Trung Hoa và Ban chấp hành Trung ương lâm thời. Đặng là một cán bộ cấp giữa, không thể không nhường lại vị trí cho các đồng chí mới từ Thượng Hải về. Tháng 5.1932, Đặng rời khỏi thủ đô đỏ, về làm Bí thư huyện ủy trung tâm Hội Xương ở biên khu phía nam, nắm công việc ở ba huyện Hội Xương, Tầm Ô, An Viễn. Ba huyện này ở vùng tiếp giáp giữa khu đỏ và khu trắng, là cánh cửa lớn phía nam của khu Xô viết Trung ương, có vị trí chiến lược rất quan trọng, nhưng trình độ xích hóa kém xa địa khu trung tâm. Mỗi huyện chỉ có một tiểu đoàn độc lập súng ống của đội xích vệ cũng rất ít, các cửa hiệu phần nhiều đã đóng cửa, tài chính kinh tế hết sức khó khăn. Đặng Tiểu Bình không thể không làm mọi việc từ đầu theo biện pháp của Mao Trạch Đông, vật lộn với khó khăn, không lâu đã có thành tích. Mao Trạch Đông đến Hội Xương kiểm tra công tác, đã làm thơ khen ngợi “Phong cảnh nơi đây tuyệt đẹp”.
Còn phong cảnh ở khu Xô viết Trung ương thì ra sao? Nhóm Vương Minh, những người Bôn sê vích một trăm phần trăm sau khi vào khu Xô viết, đã tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của họ đối với các căn cứ địa. Họ chấp hành đường lối tiến công nhập khẩu từ Matxcơva, yêu cầu xây dựng một triệu hồng quân gang thép, phát triển về các thành phố trung tâm. Chủ trương thực tế của Mao Trạch Đông triển khai chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa nông thôn bị bài xích là bảo thủ hữu khuynh, là đường lối chạy dài. Chính sách ôn hòa của Mao Trạch Đông bảo hộ trung nông, cho phú nông một lối thoát về kinh tế bị bài xích và bị quy là đường lối phú nông. Bản thân Mao Trạch Đông vì không tôn trọng sự lãnh đạo của Trung ương nên bị mất chức vụ trong hồng quân, chỉ còn lại hư vị là chủ tịch Xô viết, không có quyền phát ngôn gì.
Cuộc đấu tranh về đường lối ở tầng lớp lãnh đạo bên trên rất nhanh chóng lan tới vùng biên khu của Đặng. Những kẻ mới nổi lên trong Ban chấp hành Trung ương lâm thời tuy được Quốc tế cộng sản nâng đỡ, nhưng muốn triệt hẳn được vị lãnh tụ đã nảy sinh và phát triển gắn liền với phong trào địa phương như Mao Trạch Đông cũng không phải là dễ. Sau khi vô hiệu hóa quyền lực của Mao Trạch Đông, họ toan tính công khai phê phán quan điểm của Mao. Nhưng Matxcơva không đồng ý, sợ làm như thế sẽ dẫn tới chia rẽ. Nhưng nếu không quét sạch ảnh hưởng của Mao Trạch Đông trong tổ chức đảng ở căn cứ địa vũ trang Hồng quân thì họ làm thế nào để nắm được quyền ra mệnh lệnh? Thế là họ áp dụng biện pháp khuấy động rừng để dọa hổ, hướng hỏa lực vào những người đi theo Mao Trạch Đông, còn bản thân Mao thì để yên chưa xét đến. Ban chấp hành trung ương lâm thời nhanh chóng phát hiện ra ở La Minh, quyền Bí thư tỉnh ủy Phúc Kiến, một hình bóng của đường lối Mao Trạch Đông. Trong một bản phát biểu ý kiến, La Minh đã nêu ra những điều phàn nàn về kế hoạch mở rộng Hồng quân. La Minh nói: Mở rộng chủ lực Hồng quân phải xuất phát từ thực tế, phân biệt khu du kích ở vùng ven với khu trung tâm đã được củng cố, không thể phân chia nhiệm vụ một cách bình quân. Tại những vùng ven như Thượng Hàng, Vĩnh Định, Long Nham, cần chú trọng tổ chức lực lượng vũ trang địa phương, triển khai chiến tranh du kích, phát triển chủ lực Hồng quân từng đợt, từng phần, chứ không thể điều động và biên chế một cách cứng nhắc. Trong tình hình trước mắt, mà muốn mở rộng chủ lực Hồng quân ở những vùng địch hậu và giáp địch, thì chúng tôi không có cách nào, mà ngay cả đến những lãnh tụ giỏi giang như Mao Chủ tịch, Hạng Chủ tịch, đồng chí Chu Ân Lai, đồng chí Nhậm Bật Thời, hoặc sang Liên xô mời đồng chí Xtalin, hoặc giả thử Lênin có sống lại, tới dây, xuống vùng Khê Nam hoặc các địa phương khác, diễn thuyết với quần chúng suốt ba ngày ba đêm, tăng cường công tác tuyên truyền chính trị thì, theo tôi, cũng không giải quyết được vấn đề. Những người lãnh đạo tả khuynh liền khái quát những ý kiến đó thành đường lối La Minh chống lại quốc tế.
Âm hồn của đường lối La Minh cứ ám ảnh khu Xô viết Trung ương. Trung ương lâm thời nhanh chóng phát hiện thấy ở ba huyện Hội, Tầm, An thuộc Giang Tây cũng có đường lối cơ hội hữu khuynh không khác gì đường lối La Minh ở ba huyện Hàng, Vĩnh, Nham thuộc Phúc Kiến. Thế là Đặng Tiểu Bình bị quy vào bè phái Mao Trạch Đông. Không lâu sau, Mao Trạch Đàm, Tạ Duy Tuấn, Cổ Bá cũng lại bị quy vào nhóm này. Thế là hình thành cái gọi là đường lối La Minh ở Giang Tây. Bốn người: Đặng, Mao, Tạ, Cổ đều là những kẻ tạo ra đường lối La Minh ở Giang Tây và Đặng là người cầm đầu.
Ai cũng biết rằng đường lối La Minh tức là đường lối Mao Trạch Đông. Vương Minh và đồng bọn nghĩ rằng chỉ cần đưa Đặng Tiểu Bình và La Minh vào chỗ chết về chính trị thì có thể trói được người khổng lồ Mao Trạch Đông. Lúc này, trời sập xuống không phải là đè lên những người cao lớn, mà là đè xuống thân hình người thấp bé. Trong lịch sử Đảng ta, cái tả thật là đáng sợ! Sáu mươi năm sau, Đặng đã nói lên lời cảm thán này.
Những cuộc đấu tranh tàn khốc, đả kích không thương tiếc dồn dập tới với Đặng. Trước hết, ông bị công khai chỉ tên phê phán và bị cách chức bí thư huyện ủy trung tâm Hội Xương, điều về tỉnh ủy Giang Tây để kiểm tra, kiểm điểm. May mắn là ở đây lại gặp được ba bạn học cũ thời ở Paris: bí thư tỉnh ủy Giang Tây, Lý Phú Xuân, tư lệnh quân khu cấp tỉnh, Trần Nghị và trưởng ban tổ chức tỉnh, Thái Xướng. Phái học ở Pháp có khác với phái học ở Liên xô, họ không cho rằng anh bạn khẩu pháo thép hồi nào lại có thể phạm tội tày đình gì. Vì vậy, sau khi Đặng mất chức bí thư huyện ủy, lại lặng lẽ nhận chức Trưởng ban tuyên truyền tỉnh ủy. Theo sự xếp loại cấp bậc bấy giờ, như vậy chỉ là sự điều động ngang cấp, chứ không phải là kỷ luật giáng cấp.
Điều này làm Trung ương lâm thời của Vương Minh nổi giận. Thế là cuộc đấu tranh càng đi sâu. Đường lối La Minh ở Hội, Tầm, An được mở rộng thành đường lối La Minh ở Giang Tây do Đặng, Mao, Tạ, Cổ làm đại biểu, bị phê phán, vây đánh ác liệt. Trong hội nghị phê đấu, Đặng, Mao, Tạ, Cổ dùng lý lẽ để biện luận, lại bị quy thành công khai tiến hành hoạt động chống Đảng trước hội trường, tội lại càng nặng, trở thành lãnh tụ của phái và tổ chức nhỏ chống Đảng, bị tước vũ khí trước công chúng. Cuối cùng, cả bốn người đều bị cách chức. Đặng mất chức trưởng ban tuyên truyền tỉnh ủy và bị kỷ luật cảnh cáo. Đặng Tiểu Bình bị cách chức và bị cảnh cáo, đồng thời còn phải kiểm thảo, tự phê bình về những sai lầm của mình. Ông bất đắc dĩ phải miễn cưỡng nhận là mình hiểu không đầy đủ về đường lối tiến công nghĩ là làm như vậy cho qua. Nhưng đối thủ của ông rất không hài lòng trước sự tự phê bình sơ sài đó, liền phái ông xuống khu Nam Thôn thuộc huyện Lạc An ở tiền tuyến biên khu làm nhân viên thị sát.
Đặng đã bị đả kích về chính trị, lại gặp một biến cố trong đời sống gia đình. Kim Duy ánh, người vợ mới kết hôn khi ông làm Bí thư huyện ủy Thụy Kim đã bỏ ông đi lấy La Mại (tức Lý Duy Hán), Trưởng ban tổ chức trung ương, người cầm đầu cuộc đấu ông.
Người ở Nam Thôn chưa từng nghe nói có chức vụ thị sát viên của khu ủy, thế thì Đặng Tiểu Bình đến đây làm gì? Mọi người nghi hoặc không hiểu. Những người quen biết ông vẫn gọi ông là thủ trưởng. Đặng vẫn chẳng chút buồn bã lúng túng gì. Đáp lại lời chào “Thủ trưởng có khỏe mạnh không?”, ông trả lời: “Chào các đồng chí. Tôi nào có là thủ trưởng gì đâu”. Rồi thẳng thắn nói rõ: “Trung ương và tỉnh ủy đã họp, quy tôi thành người đề xướng và chấp hành đường lối La Minh ở Giang Tây. Tại hội nghị, tôi đã dùng lý lẽ trình bày quan điểm của mình, dù họ có dấu tranh tàn khốc với tôi thế nào tôi vẫn kiên quyết chấp hành đường lối đúng đắn của chủ nghĩa Mác, đã đúng đắn thì phải giữ vững”. Giữ vững đường lối đúng đắn thì tại sao lại mất chức? Đặng trả lời: “Cách mạng đâu có thể thuận buồm xuôi gió được?” Mọi người mới hiểu tại sao ông bị dồn dập dả kích mà vẫn thản nhiên như vậy.
Thị sát ở Nam Thôn không tới 10 ngày, Trung ương lâm thời lại lệnh cho Đặng vác ba lô trở về Ninh Đô, nơi đóng trụ sở của tỉnh ủy Giang Tây. Nghe nói, vì Nam Thôn thuộc Vĩnh An là vùng biên khu, sợ xảy ra vấn đề. Những người chỉnh Đặng không phải sợ xảy ra vấn đề gì thì sẽ mất an toàn cho ông. Chỉ có một khả năng: họ sợ Đặng đem theo những cơ mật của Đảng chạy sang phía địch; hoặc sợ rằng ở xa trung ương, Đặng sẽ kích động quần chúng ở đây mưu phản.
Mức độ tín nhiệm đã thấp như vậy, thì về Ninh Đô không thể dễ sống. Những người lãnh đạo tả khuynh muốn ông phải chịu một thử thách nghiêm khắc: Đến một ngọn núi trọc ở gần Ninh Đô làm nhiệm vụ khai hoang. Đặng không sợ gì việc cuốc đất khai hoang, thời còn ở nhà máy Renault tại Paris, ông đã rèn luyện được một thân thể cứng cáp. Nhưng thân thể dù có là thép là gang, ăn không no cũng không sống nổi. Trời muốn trao việc lớn cho người, thì trước hết phải thử thách, làm mệt tâm trí anh ta, làm mỏi xương cốt anh ta, bắt anh ta chịu đói khát. Đặng cứ lặng lẽ cuốc đất không ngừng.
Chị Thái (tức Thái Xướng - Người dịch) thấy Đặng bị đói khát, lại phải cuốc đất, liền cho người đi mua hai cân thịt lợn, hai bó hành và một số ớt, rượu, làm ba món ăn, nấu một nồi cơm, chuẩn bị mời Đặng về ăn một bữa no nê. Đã mấy tháng, Đặng chưa hề thấy mùi rượu, biết vị thịt, nghe nói có món ăn ngon thì rất mừng rỡ. Nhưng ông lại sợ liên lụy đến bạn học cũ, khi đến, kéo xụp mũ xuống tới tận mắt. Anh phạm nhân cải tạo lao động đó nhân lúc giở nghỉ trưa vắng vẻ, đi lẻn lối cổng sau tỉnh ủy vào nhà Thái Xướng, ăn một bữa no nê. Khi từ biệt, chị Thái còn đùm cho một gói thức ăn, dặn dò Đặng phải chú ý giữ gìn thân thể, cố gắng kiên trì. Vì Lý Phú Xuân đi hội báo công tác ở Thụy Kim, đợi thời cơ sẽ phản ánh tình hình Đặng với lãnh đạo, để cho Đặng đỡ bị oan uổng.
Phó chủ tịch quân ủy kiêm chủ nhiệm Tổng cục chính trị Hồng quân Vương Gia Tường cũng thuộc phái ở Liên Xô về nhưng ông tương đối tôn trọng thực tế, lại quý nhân tài. Khi được biết tình cảnh Đặng Tiểu Bình do Lý Phú Xuân nói lại, liền kêu lên: “Trung ương lâm thời không dùng Đặng Tiểu Bình, thật là thiên kiến, làm mai một nhân tài?”. Hiện nay đang đứng trước tình hình quân địch áp sát khu Xô viết, sao có thể để một nhân tài như Đặng Tiểu Bình đi khai hoang dược? Để cứu vớt nhân tài này, Vương Gia Tường nghĩ ra một biện pháp, ông lấy lý do là chánh văn phòng Tổng cục chính trị Dương Thượng Côn ra tiền tuyến, ở đây thiếu người, liền điều Đặng Tiểu Bình về làm quyền chánh văn phòng. Do Vương cố gắng thu xếp, Đặng mới kết thúc cuộc sống cải tạo lao động, trở lại thủ đô đỏ Thụy Kim.
Đến cơ quan Tổng cục chính trị, Đặng vẫn chưa gỡ bỏ được chiếc mũ hữu khuynh trên đầu. Đặng không quan tâm đến vấn đề đó, nắm ngay cơ hội quý báu mà Vương Gia Tường đã tạo cho, đưa tờ báo Sao Đỏ (Hồng Tinh báo) nổi bật hẳn lên, còn đặt Mao Trạch Đông viết cho một bài. Do trách nhiệm làm chủ biên báo Sao Đỏ, nên sau thất bại của cuộc chống vây quét lần thứ năm, Đặng mới được theo Hồng quân trường chinh. Giả thử, nếu Đặng bị lưu lại khu Xô viết đấu tranh ở hậu địch, thì con đường đời của ông sẽ ra sao? Mao Trạch Đàm và Cổ Bá, những người cùng bị đánh đổ một lần với Đặng, là những nhân viên phải ở lại. Sau khi đại quân rút đi, hai sinh mạng trẻ tuổi đó đều bị vùi thây nơi rừng xanh núi biếc phương nam.
Trường chinh bắt đầu có nghĩa là đường lối Vương Minh đã thất bại, Mao Trạch Đông bắt đầu có quyền phát ngôn. Dưới ảnh hưởng của Mao, tháng 1.1935, Đặng làm chánh văn phòng trung ương. Trong tư liệu lịch sử Đảng không có ghi chép nào về sự sửa sai với Đặng, nhưng khi ông tham gia Hội nghị Tuân Nghĩa với tư cách chánh văn phòng trung ương thì chiếc mũ hữu khuynh, chống Đảng rõ ràng đã bị thủ tiêu, mà không chỉ là thủ tiêu mà thôi. Hoạn nạn lần thứ nhất từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc mất đúng ba năm. Đặng nhớ lại, thời Hội nghị Tuân Nghĩa, ông ở cùng chỗ với Mao Trạch Đông. Hai nhân vật quyết định số mệnh của Trung quốc, cuối cùng đã gặp gỡ nhau trong lịch sử.
Lão Tử nói: Trong họa có phúc, trong phúc có họa. Năm 30, Đặng bị chỉnh ở khu Xô viết Trung ương, đó là họa, không phải là phúc. Nhưng 40 năm sau, cái họa đó lại biến thành phúc. Ngày 4.8.1972, trong quyết định phục hồi Đặng Tiểu Bình, Mao viết: “Sai lầm mà đồng chí Đặng Tiểu Bình phạm phải là nghiêm trọng, nhưng cần phân biệt với Lưu Thiếu Kỳ: 1) Đồng chí ấy đã từng bị chỉnh ở khu Xô viết trung ương, là một trong bốn tội nhân Đặng, Mao, Tạ, Cổ mà lại là kẻ đứng đầu phái Mao. Còn những điểm 2), 3), 4) nữa. Mao Trạch Đông quyết định dùng lại Đặng Tiểu Bình, ngoài lý do “nhân tài hiếm có” còn có nguyên nhân quan trọng, là “kẻ đứng đầu phái Mao” nữa.
Đương nhiên, đó là điều Đặng cũng không ngờ tới. Lịch sử đã chứng minh lôgích của Đặng: kiên trì chân lý, thì sẽ có lợi cho cách mạng và cho cả bản thân.
1.3. Mưa rừng chưa tới, gió đã đầy đầu. Anh xem gió từ hướng nào thổi tới?
Tác giả Truyện Đặng Tiểu Bình Man Phơranxơ cho rằng: “Cuộc đời chính trị của Đặng Tiểu Bình hoàn toàn được quyết định bởi việc giải quyết vấn đề Cao Cương - Nhiêu Thấu Thạch”.
Bản thân Đặng cũng thừa nhận, ông biết rất rõ sự kiện Cao-nhiêu. Sau ngày dựng nước, ba người hầu như đồng thời được điều lên trung ương. Trước đó, Cao ở cục Đông Bắc, Nhiêu ở cục Hoa Đông, Đặng ở cục Tây Nam, đều phụ trách công tác đảng và chính quyền ở một địa phương. Nhìn bề ngoài, chức vụ của Cao và Đặng như nhau, dầu là bí thư thứ nhất của một cục địa phương. Nhưng trên thực tế, địa vị của Cao quan trọng hơn, vì vùng Đông Bắc nơi Cao phụ trách, xét về ba mặt đều có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với toàn quốc: ở đây tập trung nền công nghiệp chủ yếu của toàn quốc, là hậu phương của chiến tranh Triều Tiên, lại là chiếc cầu nối sang Liên xô. Bản thân Cao là bạn thân lâu năm của Xtalin, nắm quyền cao nhất ở Đông Tam tỉnh, được gọi là Thái thượng hoàng vùng Đông Bắc. Ngày 1.10.1952, khi Cao tiến hành duyệt binh ở đất thánh của mình, thì quần chúng hô “Cao Cương muôn năm” chứ không hô “Mao Trạch Đông muôn năm”? Không lâu sau, Cao bị điều về Bắc Kinh, được bổ nhiệm làm Phó chủ tịch nước và chủ nhiệm ủy ban kế hoạch Nhà nước.
Là con người quen đề cao mình là người độc nhất vô nhị, Cao Cương căn bản không biết rằng lần “thăng cấp” này của Trung ương là tách ông ta khỏi quyền lực ở căn cứ địa. Tới Bắc Kinh, ông ta muốn mở rộng quyền lực thay thế vị trí của Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, làm phó chủ tịch Đảng và thủ tướng chính phủ. Ông ta gieo rắc trong đảng thuyết “đảng của quân đội”, phân Đảng Cộng sản Trung quốc thành “Đảng của căn cứ địa và quân đội”, và “Đảng của khu trắng”, nói quả quyết: “Đảng là do quân đội sáng tạo ra” và tự xếp mình là nhân vật đại biểu của “đảng Quân đội”, cho rằng trung ương đảng và cơ quan lãnh đạo nhà nước hiện nay nằm trong tay “đảng của khu trắng” tức trong tay Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, do đó cần phải cải tổ trung ương. Để đạt tới mục đích đánh đổ Lưu và Chu, Cao đã tiến hành nhiều hoạt động “phi tổ chức”. Trước hết, ông ta được sự phối hợp của Nhiêu Thấu Thạch. Theo Đặng nói, Cao còn được sự ủng hộ của Lâm Bưu ở cục Trung Nam. Với cục Tây Nam, Cao dùng biện pháp lôi kéo, tìm gặp Đặng Tiểu Bình để đàm phán, nói Lưu Thiếu Kỳ chưa thành thục, muốn tranh thủ Đặng tiếp tay với ông ta để đánh đổ Lưu. Đặng cảnh giác nói địa vị của đồng chí Lưu Thiếu Kỳ ở trong đảng là do lịch sử đã hình thành, thay đổi một địa vị đã được hình thành trong lịch sử là không thích đáng. Cao còn tìm gặp Trần Vân để đàm phán. Cao nói: Cần lập mấy phó chủ tịch, tôi và đồng chí đều là phó chủ tịch (đảng - Người dịch). Đặng thấy vấn đề nghiêm trọng, lập tức báo cáo với chủ tịch Mao Trạch Đông về âm mưu quỷ kế của Cao Cương.
Mao Trạch Đông nghe xong, hỏi lại Đặng: “Mưa rừng chưa tới, gió đã đầy lầu. Theo anh, gió từ hướng nào thổi tới?”
Đương nhiên Đặng ủng hộ Lưu và Chu, nhưng ông suy nghĩ rồi trả lời rất khéo: “Ở địa vị mà mưu tính công việc thì là đúng phận sự; không ở địa vị mà lại muốn mưu tính công việc, thì là bệnh ham muốn quyền lực đang hoành hành!”.
Ham muốn quyền lực là một vấn đề rất nhạy cảm. Một lời nói của Đặng đi đúng vào điểm quan trọng, đã làm rung động sợi thần kinh rất nhạy cảm của Mao Trạch Đông. Mao nghe xong, suy nghĩ, rồi bừng tỉnh: “Nếu cứ dung túng trong đảng sự tồn tại lòng ham muốn quyền lực, không ở địa vị mà lại muốn mưu tính công việc thì sẽ không có ngày nào yên ổn”.
Rất nhanh chóng, trong đầu óc Mao hình thành khái niệm về hai Bộ tư lệnh. Trong hội nghị Bộ Chính trị ngày 3.12.1953, Mao nói: “Bắc Kinh có hai bộ tư lệnh, một là bộ tư lệnh do tôi đứng đầu, thổi gió dương, nổi lửa dương; một bộ tư lệnh nữa do người khác đứng đầu, thổi gió âm, nổi lửa âm, làm việc xấu”.
Sau đó, triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa 7, vạch trần và phê phán Cao Cương, Nhiêu Thấu Thạch. Mao không tham gia hội nghị, hội nghị do Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, thông qua “Nghị quyết về tăng cường đoàn kết trong đảng”. Sau hội nghị, Đặng Tiểu Bình phụ trách tổ chức các cuộc tọa đàm của Ban bí thư Trung ương bàn về vấn đề Cao - Nhiêu, tiếp tục vạch trần và đối chứng những hoạt động âm mưu chống đảng của họ. Cao Cương cự tuyệt giáo dục, trong một cuộc hội nghị, đã rút súng tự sát tại chỗ.
Tháng 4.1954, Đặng Tiểu Bình tiếp nhận nhiệm vụ trưởng ban tổ chức Trung ương của Nhiêu Thấu Thạch, không ai có ý kiến dị nghị gì. Một năm sau, Đặng bước vào đội ngũ 17 người là ủy viên Bộ chính trị. Đồng thời được bổ sung vào Bộ chính trị lần này có Lâm Bưu (Điều này hình như mâu thuẫn với ý kiến cho rằng Lâm Bưu đã ủng hộ Cao Cương). Lại một năm sau, tại Đại hội tám, Đặng được bầu làm Tổng bí thư Ban bí thư trung ương, trở thành một trong 6 ủy viên thường vụ Bộ Chính trị. Thường vụ ra quyết định, ban bí thư phụ trách chấp hành. Đặng lãnh đạo cơ cấu quan trọng này suốt tới năm 1966. Đấu tranh đường lối trong đảng gay gắt như sóng to gió lớn, lần nào cũng có người chìm, người nổi. Trong thập kỷ 50, cuộc đấu tranh như thế trong Đảng xảy ra hai lần. Trong cuộc đấu tranh với liên minh chống đảng Cao - Nhiêu, Đặng lên liền ba cấp, tham gia vào trung tâm quyền lực tối cao. Lần thành công này chủ yếu là do ông quang minh chính đại, không tham gia âm mưu quỷ kế, không tham gia bè cánh nào, nên trước ông, Cao Cương không tìm được thị trường. Trong thập kỷ 80, khi ra nghị quyết về những vấn đề lịch sử, Đặng vẫn cho rằng cuộc đấu tranh chống Cao - Nhiêu là đúng. Nhưng lần khác, vào năm 1959 việc chống lại Bành Đức Hoài ở hội nghị Lư Sơn là sai. Trong hội nghị Lư Sơn, dưới sức ép mạnh mẽ của Mao Trạch Đông, những người dự họp chỉ có hai cách chọn lựa: hoặc là vứt bỏ nguyên tắc, thậm chí không tiếc nhân cách, đi ngược lại chân lý, đứng về phía Mao Trạch Đông, dùng mọi lời lẽ đả kích để vạch trần, phê phán, nguyền rủa hành vi chống đảng của Bành Đức Hoài; hoặc là, như Trương Văn Thiên, kiên trì chân lý, trọng nghĩa giữ lời, trở thành một thành viên trong tập đoàn chống đảng của Bành Đức Hoài. Đặng có may mắn thoát được cả hai số phận đáng thương đó, không phải vì lý do gì khác, mà chỉ vì trước hội nghị, ông đánh bóng bàn ngã gãy chân, không lên núi dự họp được. Trời đã giúp ông!
1.4. Do trong tay Chu Ân Lai có được thanh bảo kiếm thượng phương của Mao Trạch Đông, nên Đặng Tiểu Bình mới thoát ra khỏi cách mạng văn hoá và được phục hồi
Ngày 20.10.1969, Kẻ số hai đi đường lối tư bản là Đặng Tiểu Bình bị Lâm Bưu dùng danh nghĩa sơ tán chiến lược, phát vãng đến một nơi hẻo lánh ở ngoại ô Nam Xương - Giang Tây, từ đó, ông đã trải qua ba năm bốn tháng trong cuộc sống ở chuồng bò. Đó là lần thứ hai ông bị đánh đổ.
Ba năm bốn tháng là thời gian khá dài với một ông già đã 65 tuổi, huống chi ông lại không biết chắc lúc nào mình sẽ được giải phóng. Tính từ khi sang Pháp cầu học lúc 15 tuổi, ông đã hoạt động trên vũ đài chính trị Trung quốc chẵn nửa thế kỷ. Thế mà ngày nay, cách xa trung tâm chính trị, bị đày tới miền Giang Nam này, ông sẽ sống cuộc đời lưu đày không kỳ hạn như thế nào đây?
Theo lời cô con gái út Mao Mao (Đặng Dung): “Trong thời gian ở Giang tây, cha tôi có một thói quen, mỗi buổi chiều trước lúc mặt trời lặn, bao giờ cũng đi bộ vòng quanh mảnh sân nhỏ. Ông bước rất nhanh, trầm tư không nói, cứ đi hết vòng này đến vòng khác... Tôi thường nhìn cha tôi, nhìn tinh thần ông lúc nào cũng chăm chú, trầm tĩnh nhìn những bước đi nhanh nhẹn và vững chắc của ông. Tôi nghĩ, trong từng bước chân đó, tư tưởng của ông, niềm tin của ông, ý chí của ông càng rõ ràng thêm theo từng bước chân càng trở nên kiên định hơn”. Mao Mao còn phản ánh việc cha cô dùng lao động và đọc sách để làm phong phú thêm cuộc sống, không bao giờ cảm thấy trống rỗng và do dự. Hàng ngày, buổi sáng tới nhà máy làm việc, buổi chiều nuôi gà trồng rau trong vườn, buổi tối đọc sách xem báo, mùa đông vẫn kiên trì tắm nước lạnh hàng ngày. Xem ra, Đặng Tiểu Bình không vì bị đánh đổ mà buồn nản, tiêu trầm.
Niềm tin mà Mao Mao nói là nhân tố quan trọng. Sau khi có niềm tin, thì điều then chốt là biết chờ đợi, chờ đợi thời cơ thích hợp. Mà thời cơ thì nhất định sẽ có, bởi vì trên đời này không có bàn tiệc nào không có lúc tàn. Quy luật biện chứng này có tác dụng đối với bất kỳ ai. Và cuối cùng thời cơ đã đến.
Ngày 13.9.1971, Lâm Bưu, kẻ ngoi lên nhờ đánh đổ các nguyên lão của nước Cộng hòa, trở thành người kế tục thân thiết của Mao Trạch Đông, đã vì âm mưu đoạt quyền bại lộ mà bị toi mạng. Tin tức làm nức lòng người đó, 50 ngày sau mới truyền đến tai Đặng Tiểu Bình. “Cha tôi tỏ ra vui mừng và xúc động”, Mao Mao nói: “Ông chỉ nói một câu: “Lâm Bưu không chết, lẽ trời không dung”.
Kỳ thực, hoạt động nội tâm của Đặng Tiểu Bình lúc đó sao có thể dùng một câu nói để biểu đạt được. Trong các cuộc đấu tranh đường lối trong lịch sử đảng, ông luôn đứng về phía Mao Trạch Đông. Chỉ tới thập kỷ 60, Mao Trạch Đông phát giác những người lãnh đạo tuyến một như Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ không nghe theo lời ông, thực hiện sau lưng ông kiểu mèo trắng mèo đen, kích thích vật chất, căn bản không đề cập tới cương lĩnh, đấu tranh giai cấp tới mức khiến ông không còn điều khiển được tình hình nữa. Thế là Mao Trạch Đông dựa vào Lâm Bưu, phát động đại cách mạng văn hóa, đánh đổ cái gọi là bộ tư lệnh tư sản theo cách nhìn của ông. Lâm Bưu thì rất nghe lời Mao Trạch Đông, không lúc nào rời quyển Ngữ lục (tập sách trích dẫn lời Mao - Người dịch), luôn mồm hô muôn năm, tâng bốc Mao Trạch Đông tới mức còn cao hơn Các Mác, Lênin. Mao Trạch Đông sung sướng vì sự tâng bốc của Lâm Bưu, và không nghe nổi những lời can gián thẳng thắn của người khác. Kết quả ra sao? Kẻ thực sự ôm ấp mưu đồ xấu xa với ông lại chính là người bạn chiến đấu thân thiết luôn mồm nói trung thành vô hạn với ông. Bây giờ, bộ mặt lừa bịp của Lâm Bưu đã bị xé toang, rút cục ai trung ai gian, nhất định Mao Trạch Đông phải suy nghĩ và tỉnh ngộ. Thêm nữa, sau khi Lâm Bưu chết, người thực sự có tài trị quốc an bang bên cạnh Mao Trạch Đông chỉ có Chu Ân Lai là có thể tin cậy được. Chu Ân Lai là vị nguyên lão duy nhất trong đảng và chính quyền không bị đả đảo trong cách mạng văn hóa, ông muốn đảm đương gánh nặng thu xếp mọi rối loạn do cách mạng văn hóa gây ra, thì cần dựa vào ai? Đặng Tiểu Bình đã nhận rõ, cái chết của Lâm Bưu đối với vận mệnh chính trị của ông là một cơ hội hiếm có, ông không thể bỏ qua cơ hội này.
Thế là, ngay chiều hôm đó, Đặng Tiểu Bình viết cho Mao Trạch Đông một bức thư dài hơn bốn ngàn chữ.
Một là: ông vạch ra với Mao tội phản cách mạng của Lâm Bưu, Trần Bá Đạt mà ông được biết.
Hai là: ông vô cùng khiêm tốn trình bày với Mao những khuyết điểm và sai lầm trong công tác của mình trước kia.
Ba là: ông đề đạt với Mao nguyện vọng thiết tha của mình muốn tiếp tục công tác vì Tổ quốc và nhân dân. Vạch tội Lâm Bưu không chỉ là xuất phát từ lòng phẫn nộ, mà còn là sự biểu hiện thái độ chính trị. Mỗi lần đấu tranh lớn trong Đảng Cộng sản Trung quốc, đều cần dùng biện pháp đó để vạch rõ ranh giới.
Tại sao lại còn phải tự phê bình? Dù Lâm Bưu xấu thế nào cũng không có nghĩa là mình không hề có khuyết điểm sai lầm. Việc đánh đổ Lưu - Đặng dù sao cũng do Mao đồng ý. Dù việc đó có sai nữa, cũng phải để cho Chủ tịch đảng có chỗ để xoay trở. Vả lại Đặng Tiểu Bình dự tính Mao không thể vì sự kiện Lâm Bưu mà cho qua vấn đề của Lưu - Đặng, vì Mao xưa nay không bao giờ bỏ qua vấn đề đường lối. Nhưng điều đó cũng không hề gì, vì ông biết Mao Trạch Đông có một đặc điểm: “Ai không nghe lời ông ta, ông ta sẽ chỉnh cho một trận, nhưng chỉnh tới mức độ nào, ông đều có suy xét”. Mao Trạch Đông không cho phép bất kỳ ai chống lại mình, đó là sự thực, nhưng ông cũng không chủ trương đánh cho người phạm sai lầm một đòn chết tươi. Đánh thì có đánh, nhưng sau mấy gậy, chỉ cần anh nhận sai lầm và xin sửa chữa, thì ông ta vẫn khoan dung giữ lại bên mình. Ở bên Mao Trạch Đông, phạm sai lầm cũng không sao, vấn đề then chốt là biết thừa nhận sai lầm của mình. Vì vậy, dù mình có sai hay không, việc khiêm tốn kiểm điểm là tuyệt đối cần thiết.
Khi nói tới công tác của mình, lởi lẽ của Đặng rất uyển chuyển thiết tha: Ông đã hoàn toàn xa rời công tác, không tiếp xúc với xã hội năm năm rồi, tuy đã 68 tuổi nhưng thấy sức khỏe của mình còn tốt, còn có thể làm một số công việc cụ thể, như công tác điều tra nghiên cứu. Ông không có mong muốn gì khác, chỉ xin được làm một số việc cho đảng để bù đắp cho những thiếu sót đã qua. Và đó chỉ là lời cầu xin, còn được hay không, xin chờ chỉ thị của Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng.
Bức thư của Đặng Tiểu Bình nhanh chóng được chuyển tới tay Mao. Nhìn thấy nét chữ của người bạn cũ, đã cùng nhau trải qua mấy chục năm đấu tranh gian khổ, Mao Trạch Đông quả nhiên rất xúc động. Sau khi Lâm Bưu sụp đổ, ông đã coi “dòng nước ngược tháng hai” chống lại cách mạng văn hóa do một số tướng soái cũ bất mãn với Lâm Bưu gây nên, và đặc biệt nhắc tới, đó là những lời nói công khai trong hội nghị, hàm ý là không nói một đàng, làm một nẻo như Lâm Bưu. Ông cảm thấy khoảng cách với các tướng soái cũ đã gần lại: “Nếu âm mưu của Lâm Bưu thực hiện được, thì tất cả những người cũ đó của chúng ta đều bị thanh toán hết”. Ngày 6.1.1972, nguyên soái Trần Nghị qua đời, Mao Trạch Đông vô cùng than tiếc, đã phá lệ mặc quần áo ngủ và đến dự lễ truy điệu Trần Nghị khi đang ốm. Trong lễ truy điệu, Mao nói nhiều câu tốt đẹp về Trần Nghị, như cho tới tận lúc đó, mới phát hiện ra Trần Nghị là người tốt. Kỳ thực, Trần Nghị đã nhiều lần phản đối Mao Trạch Đông, có điều Trần Nghị “phản đối” Mao Chủ tịch có một đặc điểm là công khai, chứ không dùng âm mưu quỷ kế như Lâm Bưu. Sự thẳng thắn cương trực của Trần Nghị hình thành sự khác biệt rõ rệt với trò hai mặt của Lâm Bưu, hiện ra trước mặt Mao Trạch Đông. Sự so sánh đó tự nhiên liên hệ tới Đặng Tiểu Bình, vì Đặng cũng như Trần, thường nổi tiếng là trực tính.
Những biến đổi tinh tế đó không lọt qua mắt Chu Ân Lai. Sau khi Lâm Bưu chết, bên cạnh Mao Trạch Đông chỉ còn hai thế lực là Chu Ân Lai và Tổ cách mạng văn hóa trung ương, mà những người như Giang Thanh chỉ biết hò hét suông về cách mạng, không biết gì việc trị nước và xây dựng kinh tế. Trong tình hình đó, Mao chỉ có cách là giao việc chủ trì công việc hàng ngày của Trung ương cho Chu Ân Lai. Trước hết, Chu đề nghị Mao triệt tiêu tổ công tác quân ủy, giao cho Diệp Kiếm Anh chủ trì công tác hàng ngày của quân ủy, lặng lẽ thu lại quân quyền. Còn lại hai gánh nặng về đảng và chính quyền, Chu bức thiết cần một nhân tài như Đặng Tiểu Bình hiệp trợ. Vì vậy Chu Ân Lai luôn chờ cơ hội triệu Đặng Tiểu Bình trở lại. Ngày nay, quan hệ đã bớt căng, nhưng vẫn còn một vấn đề quan trọng, là bản thân Mao sẽ chuyển biến thế nào. Vấn đề then chốt là làm sao phân biệt được Lưu Thiếu Kỳ với Đặng Tiểu Bình. Chu Ân Lai biết rằng còn cần một thời gian nữa.
Vương Chấn, người cùng bị cải tạo với Đặng Tiểu Bình ở Giang Tây đã được về Bắc Kinh trước Đặng. Khi được biết trong lễ truy điệu Trần Nghị, Mao có nhắc tới Đặng Tiểu Bình, có triệu chứng thay đổi thái độ, liền lợi dụng một dịp hội báo công tác, giới thiệu kỹ với Mao về tình hình lao động ở Giang Tây của Đặng Tiểu Bình, ra sức kiến nghị Mao Trạch Đông nhanh chóng sử dụng Đặng Tiểu Bình. Sau khi thăm dò được ý của Mao, Vương Chấn cho người tìm Đặng Dung vừa về Bắc Kinh, nói cô trở về Giang tây nói với cha là Mao Trạch Đông đã nghĩ tới việc phân biệt Lưu Thiếu Kỳ với Đặng Tiểu Bình.
Sau khi nhận được tin đó, Đặng Tiểu Bình từ Giang trây không để lỡ cơ hội, liền viết bức thư thứ hai cho Mao, tiếp tục tự kiểm điểm bản thân, mong lại được ra phục vụ, tỏ ý sẵn sàng tuân theo sự xếp sắp của Đảng. “Sự từng trải trước kia của Đặng Tiểu Bình và sự tự phê bình khôn khéo của ông đã giành được sự tán đồng của Mao, cho phép ông trở lại vũ đài chính trị”. Mao Trạch Đông nhận được bức thư đó, sau khi cân nhắc, đã phê như sau:
“Sai lầm mà đồng chí Đặng Tiểu Bình đã phạm phải là nghiêm trọng, nhưng cần được phân biệt với Lưu Thiếu Kỳ.
1) Đồng chí ấy đã bị chỉnh ở khu Xô viết.......mà bị chỉnh là do cầm đầu phái Mao.
2) Đồng chí ấy không có vấn đề lịch sử, tức là chưa bao giờ đầu hàng địch.
3) Đồng chí ấy hiệp trợ đắc lực cho Lưu Bá Thừa trong chiến đấu, có chiến công. Ngoài ra, từ khi về Bắc Kinh, không phải không làm được việc gì tốt, như đã dẫn đầu đoàn đại biểu đi Matxcơva đàm phán, không chịu khuất phục trước chủ nghĩa xét lại Liên xô”.
Mao Trạch Đông
Ngày 14.8.1972
Lời phê trên của Mao Trạch Đông có ý nói rằng Lưu Thiếu Kỳ thuộc về trường hợp mâu thuẫn địch ta, còn Đặng Tiểu Bình là thuộc trường hợp mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, là đối tượng phải đoàn kết. Nghệ thuật chính trị của Mao Trạch Đông là vừa giữ vững sự kết án với đường lối sai lầm của Lưu Thiếu Kỳ để tỏ rõ ông ta phát động cách mạng văn hóa là cần thiết, đồng thời lại tỏ ra có lượng khoan dung, muốn đoàn kết với tất cả những ai có thể đoàn kết được, ngay cả với những người đã phạm sai lầm nghiêm trọng như Đặng Tiểu Bình, chỉ cần tình nguyện sửa chữa thì đảng vẫn hoan nghênh. Đồng thời, có bản án sai lầm về đường lối của Lưu Thiếu Kỳ trước mắt, thì Đặng Tiểu Bình sẽ dễ sử dụng hơn. Kỳ thực, đối với Lưu Thiếu Kỳ thì ba điều Mao phê về Đặng cũng thích hợp với ông. Nhưng dù lúc ấy Mao có biết rằng lời phê phán Lưu phản bội, làm đặc vụ là oan uổng, thì ông cũng không phê như vậy. Vì nếu làm như vậy, thì coi như ông đã tự lật đổ chủ trương tiến hành cách mạng văn hóa của mình. Về điểm này, Đặng Tiểu Bình vô cùng may mắn. Sở dĩ ông có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, là nhờ trước ông đã có “tên đầu sỏ số một đi theo đường lối tư bản chủ nghĩa” đóng vai trò đại biểu của “sự sai lầm về đường lối lần thứ 9”. Nếu không như vậy, thì dù Đặng Tiểu Bình có tới 30 (chứ không phải 3) thành tích, cũng không lọt khỏi sự trừng phạt của Mao Trạch Đông.
Dù thế nào, đã có lời phê của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai sẽ dễ giải quyết. Ngày 10.3.1973, căn cứ vào lời phê và chỉ thị của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai chủ trì hội nghị Bộ Chính trị thảo luận vấn đề đưa Đặng Tiểu Bình trở lại làm việc.
Phái cách mạng văn hóa trong Bộ Chính trị, tức nhóm bốn tên sau này, hết sức sợ việc trở lại của Đặng Tiểu Bình. Họ đối phó một mình Chu Ân Lai đã khó, nay lại thêm Đặng Tiểu Bình nữa thì càng bất lợi, vì họ biết Đặng Tiểu Bình càng khó đối phó hơn. Nhưng vì trong tay Chu Ân Lai có thanh bảo kiếm Thượng Phương của Mao Trạch Đông, nên bọn Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên đành phải tạm lùi một bước, đồng ý để Đặng Tiểu Bình trở lại. Hội nghị quyết định khôi phục sinh hoạt Đảng và chức vụ Phó thủ tướng cho Đặng. Năm tháng sau, Đặng được vào trung ương. Bước đầu tiên khi được trở lại của Đặng là bước đi rất gian nan, nhưng không phải là bước mang tính quyết định.
1.5. Trong hai năm từ khi được phục hồi Đặng Tiểu Bình nhiều lần giao phong với nhóm bốn tên. Lần nào cũng chiếm thế áp đảo
Ngày 12.12.1973, Mao Trạch Đông triệu tập tại phòng đọc sách của mình cuộc họp Bộ Chính trị rất có ý nghĩa đối với Đặng Tiểu Bình, người vừa được phục hồi. Trong hội nghị, Mao Trạch Đông tuyên bố một quyết định quan trọng: Điều chuyển vị trí của tư lệnh 8 đại quân khu. Tiếp sau đó, Mao đề nghị các ủy viên Bộ Chính trị có mặt cùng hát bài “Ba điều kỷ luật, tám điều chú ý” Mao dựa vào bài hát này để điều khiển quân đội và đảng.
Sau sự kiện Lâm Bưu, Mao không chỉ một lần hiệu triệu cấp dưới đồng ca bài này. Xem ra, ông rất mong muốn thống nhất lại bước đi của toàn đảng, toàn quân, giải quyết tốt một loạt vấn đề còn lại sau khi Lâm Bưu chết. Trong những vấn đề đó có việc “Bộ Chính trị không bàn việc chính trị, quân ủy không bàn việc quân sự”. Mao Trạch Đông ngay từ đầu năm đã đề xuất vấn đề này, nay lại nhắc lại, tỏ rằng ông đã cảm thấy đến lúc không giải quyết không được
Vậy giải quyết thế nào? Mao Trạch Đông đưa mắt nhìn Đặng Tiểu Bình ngồi bên cạnh:
“Nay tôi mời đến một quân sư, tên là Đặng Tiểu Bình. - Mao giới thiệu Đặng như một vị khách đặc biệt - Ông này có nhiều người sợ, nhưng làm việc tương đối quả đoán”, “bên ngoài thì hòa nhã, nhưng bên trong là một công ty gang thép”. Tiếp đó, ông công khai đánh giá về Đặng: “Cuộc đời của anh ta có thể nói là có bảy phần ưu, ba phần khuyết”, hy vọng Đặng dần dần sửa chữa những khuyết điểm trước kia. Trước mọi người, Mao đề nghị Đặng Tiểu Bình làm ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên quân ủy còn chuẩn bị giao cho Đặng làm Bí thư trưởng Bộ Chính trị. Đặng không muốn làm chức đó, Mao liền giao cho Đặng làm Tham mưu trưởng quân đội. Mao nghĩ rằng với sự quả đoán và nghị lực của Đặng Tiểu Bình, vấn đề không bàn chính trị không bàn quân sự sẽ mau chóng được giải quyết.
Sự coi trọng của Mao với Đặng Tiểu Bình, chủ yếu vì Đặng là một nhân tài hiếm có, làm việc quả đoán, ngày nay ông cần loại nhân tài đó, để bổ sung vào khoảng trống quyền lực sau Chu Ân Lai. Xu thế phát triển đó làm nhóm bốn tên rất lo sợ. Kẻ đầu tiên đứng ra phản đối việc dùng lại Đặng Tiểu Bình là Giang Thanh. Tháng 8- 1974, Bộ Chính trị thảo luận việc cử ai đi dự hội nghị đặc biệt của Đại hội đồng liên hiệp quốc lần thứ 6. Mao Trạch Đông nhớ lại thành tích của Đặng Tiểu Bình trong cuộc đọ sức với Khơrútsốp ở Matxcơva những năm 60, liền đề nghị Đặng đi. Giang Thanh sợ Đặng Tiểu Bình nâng cao uy tín trên trường quốc tế, liền cực lực phản đối. Mao Trạch Đông không nghe theo ý kiến bà vợ, ngược lại còn nghiêm khắc cảnh cáo Giang Thanh không được chống lại ý kiến của mình. Cuộc đọ sức đầu tiên sau khi được phục hồi giữa Đặng với nhóm bốn tên, do được Mao ủng hộ nên đã giành được thắng lợi.
Nhóm bốn tên bài xích Đặng Tiểu Bình vì Đặng liên kết chặt với Chu Ân Lai. Đến năm 1974, thân thể Chu ngày càng yếu. Nếu Đặng cứ từng bước tiến lên thì người kế tục Chu sẽ không còn là ai ngoài Đặng nữa. Đó là kết quả mà nhóm bốn tên không muốn nhìn thấy. Mấy người trong bọn họ đều biết là Đặng cứng hơn Chu, do đó khó đối phó hơn, nên cần nhân lúc ông chưa đủ lông cánh mà tăng cường đả kích. Tháng 7.1974, Mao chủ trì một hội nghị Bộ Chính trị, nhóm bốn tên nhân lúc Chu Ân Lai vàng mặt liền do Giang Thanh dẫn đầu, ba người kia phối hợp theo, công kích Chu về nhiều mặt, mong qua việc tiến công Chu để đạt tới mục đích bài xích Đặng. Mao Trạch Đông nổi nóng, cảnh cáo họ “không được tạo thành nhóm nhỏ bốn người”, yêu cầu Giang Thanh không được xây dựng hai nhà máy (ý Mao muốn nói: nhà máy gang thép để làm gậy đánh người, nhà máy làm mũ để chụp mũ cho người). Bọn Giang Thanh không lượng sức. mang hết bản lĩnh để công kích Chu, kết quả khiến Mao có phần cảm. Đây là lần đầu tiên Mao dùng khái niệm “nhóm Thượng Hải” và “phe nhóm nhỏ bốn người” khiến trong những lần đọ sức sau, nhóm Giang Thanh càng bị động.
Tính cách Mao Trạch Đông là với những việc ông thấy là đúng, người khác càng phản đối, ông càng kiên quyết. Nhóm bốn tên công kích Chu, bài xích Đặng chính là nhằm vào chiếc ghế thủ tướng của Chu sau này. Mao làm ngược lại, vào tháng 10.1974, đề nghị Đặng làm Phó thủ tướng thứ nhất, sắp xếp trước vị trí thủ tướng thay Chu sau này. Như vậy, càng làm nhóm bốn tên lo cuống chân tay. Hội nghị quốc hội khóa 4 sắp họp, nếu sau cuộc họp, hình thành thể chế Chu, Đặng thì mộng tưởng của họ tan thành mây khói. Bất kỳ thế nào, họ cũng phải ngăn trở sự xuất hiện tình hình này. Lần này, họ xếp đặt mưu kế, quyết định đưa “vấn đề tàu Phụng Khánh” để đột kích bất ngờ vào Đặng. Ngày 17-10, Đặng chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị, Giang Thanh trước hết gây khó khăn, đề xuất vấn đề sùng bái phương Tây, làm tổn thất cho quốc gia qua sự kiện tàu Phụng Khánh và chất vấn Đặng Tiểu Bình: Đồng chí nhìn nhận thế nào về vấn đề này? Đặng đứng trước việc lựa chọn khó khăn: ông không thể đồng ý với cách đề xuất của Giang Thanh, nhưng nếu ông phản bác thì tất nổ ra một cuộc tranh luận vô vị về ý thức hệ, trong tranh luận lại rất dễ để lộ ra sơ hở, vì nhóm này rất giỏi nắm sơ hở của người khác. Thế là Đặng Tiểu Bình trả lời: Tôi cần điều tra. Nhóm Giang Thanh không buông tha, cứ làm loạn lên trong hội nghị, Đặng nổi giận: Thảo luận trong Bộ Chính trị cần bình đẳng, các đồng chí không thể cư xử với thái độ đó. Nhóm bốn tên ùa tới một lượt: đã biết thế nào anh cũng phải phản ứng mà, hôm nay quả nhiên anh phải phản ứng. Đặng không nhịn được, chọn ngay cách trả lời dứt khoát với sự khiêu khích của nhóm bốn tên, ông đứng dậy rời khỏi hội nghị, phất áo đi ra. Sau này Mao khen Đặng lần ấy không chịu nhượng bộ nhóm bốn tên, đã có cách đối phó tốt.
Cuộc đột kích bất ngờ của nhóm bốn tên lần ấy chẳng những không giành được gì, ngược lại còn có khả năng phải chịu trách nhiệm về việc gây rối Hội nghị Bộ Chính trị. Vì vậy, họ càng bối rối. Để tranh thủ chủ động họ quyết định đi kiện trước, phân binh làm hai cánh đi tranh thủ sự ủng hộ của Mao Trạch Đông. Một cánh do Vương Hồng Văn, người được đích thân Mao Trạch Đông đề bạt lên làm người kế tục: đi Trường Sa gặp Mao Trạch Đông, công khai tố cáo Chu Ân Lai. Cánh khác do Giang Thanh đảm nhiệm, đi tìm hai phiên dịch trẻ được Mao Trạch Đông tín nhiệm là Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh, yêu cầu họ trong khi dẫn khách nước ngoài đến Trường Sa, phản ánh riêng với Mao Trạch Đông về việc Đặng Tiểu Bình đại náo Hội nghị Bộ Chính trị, tính chất giống như “dòng nước ngược tháng hai” (là sự kiện tháng 2.1967, trong Hội nghị Bộ Chính trị và quân ủy do Chu Ân Lai chủ trì, các tướng soái Trần Nghị, Diệp Kiếm Anh, Từ Hướng Tiền; Nhiếp Vĩnh Trăn, Lý Tiên Niệm, Đàm Chấn Lâm đã kịch liệt phê phán những cách làm sai lầm trong cách mạng văn hoá. Vì Mao Trạch Đông bác bỏ những ý kiến ấy nên sự kiện này được gọi là “dòng nước ngược tháng hai”-Người dịch) và việc Chu Ân Lai trong khi nằm bệnh viện vẫn mượn cớ công tác, thường xuyên tiếp xúc với một số ít người đến liên lạc. Nhưng họ đã tính nhầm. Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh lập tức đem ý kiến của Giang Thanh nói lại đầy đủ cho Chu Ân Lai. Chu và Đặng đường hoàng và vững vàng, không vội trình bày với Mao. Kết quả sự việc phát triển lại ra ngoài tính toán của nhóm bốn tên, sự vây đánh bằng hai cánh quân không giúp họ giành được chủ động mà càng lâm vào bị dộng. Vương Hồng