Hang động chứa đầy quan tài bằng thân cây
Trèo đến hang, anh chăn dê toát mồ hôi khi thấy hàng chục cỗ quan tài gỗ xếp ngay ngắn trên các giá gỗ lớn khắp ba tầng hang.
Sông Luồng đoạn cách bãi Ca Da, ngã ba hợp lưu với sông Mã (Thanh Hóa) chừng vài trăm mét, dòng chảy xuyên qua vách núi đá Pha Hang Ma dựng đứng tạo nên một chiếc hang lớn có tên rùng rợn là hang Ma. Xuôi theo dòng chảy, trên cao chót vót đỉnh dốc đá dựng thẳng đứng, tưởng như không ai trèo lên được có một cửa động có tên là Pó Cúng (hay còn gọi là Lụng Buốc Mu).
Bãi đất bằng phía sau sườn núi Pha Hang Ma là một bãi tha ma với hơn 1.000 ngôi mộ cổ. Tương truyền, đó là mộ của nghĩa quân Lam Sơn do các tướng Lê Sát, Lê Hào và Khằm Ban chỉ huy, bị tử trận khi đánh đồn Tùng Hóa (trại Quan Da) của địch.
Với người dân địa phương, vùng đất hoang vu với những cái tên bí hiểm ấy chỉ càng nhắc bà con tránh xa, không đến gần làm gì. Nhưng rồi, một buổi chiều đông năm 1997, chân núi Pha Hang Ma xuất hiện một người dân bản Khằm (cách chừng 1,5 km) nặng nhọc trèo ngược dốc.
Từ hang Ma nhìn ra ngoài.
Mấy con dê nhà anh đi lạc vào trong núi. Tiếc của nên quên cả sợ hãi, anh cứ theo dấu phân dê mà đạp đá tai mèo, bẻ cây đu cành trèo tới. Bỗng anh giật thót mình, vì khuất trong lùm cây dại ngay trên đầu mình là một miệng hang lớn, đen ngòm bí hiểm. Thường ngày đứng bên kia sông Luồng, anh có nhìn thấy cửa động Pó Cúng nhỏ như hốc đá, chứ chưa thấy miệng hang này.
Định tụt xuống, nhưng tính tò mò trỗi dậy, anh lại quyết níu vào các rễ cây, bám theo vách núi dựng đứng leo lên khám phá. Vừa đu người trèo đến miệng hang, anh toát mồ hôi hột khi thấy trước mặt là hai cỗ quan tài to lớn, nằm chĩnh chện trên giá gỗ, án ngữ giữa lối vào.
Mặc dù rất khiếp sợ nhưng lúc đó không còn đủ sức để leo ngay xuống, anh liều lĩnh ngồi ngay cửa hang nghỉ. Nhìn vào trong, thấy miệng hang nhỏ nhưng bên trong khá rộng và sáng, nên anh tự tin bước vào. Thì ra đây là một lối vào khác của động Pó Cúng. Nhìn quanh quất trong hang, anh thấy thêm hàng chục cỗ quan tài gỗ lớn nhỏ khác xếp ngay ngắn trên các giá gỗ lớn khắp ba tầng hang rộng lớn.
Đem câu chuyện mắt thấy tay sờ này về kể trong các bữa rượu, anh chỉ nhận được những tiếng cười chế giễu. Bực mình, anh thách thức mấy người thanh niên khác theo mình trở lại động núi. Từ đó, anh chàng chăn dê này được coi là người đầu tiên phát hiện ra những chiếc quan tài bí ẩn đã được cất giấu dễ đến cả ngàn năm nay trong động núi Pha Hang Ma.
Do động Pó Cúng nằm trong khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hu nên anh Vũ Văn Đạt (lúc ấy là Phó Giám đốc Khu) vui vẻ dẫn đường. Đường chim bay thì ngắn, nhưng từ thị trấn Hồi Xuân muốn đến Pó Cúng phải lần lượt vượt qua cả sông Mã lẫn sông Luồng.
Núi Pha Hang không đồ sộ lắm, nhưng đường lên thì cực kỳ hiểm trở. Chỉ sơ sẩy một chút, tay bám trượt hay bất ngờ đạp đá dưới chân lở ra, thì toàn thân chắc sẽ như những quả dưa hấu bị người ta ném ra từ cửa sổ của tòa cao ốc.
Động Pó Cúng này có thể coi là rộng lớn và quy mô nhất trong số những động có táng quan tài cổ đã được tìm thấy ở Việt Nam. Động sâu chừng 30 mét, cao hơn 10 mét, được chia làm ba ngăn như ba gian nhà lớn mà tầng thứ ba là tầng chính. Hai cửa ra vào của động đều cao chừng 5 mét, rộng hơn 2 mét, cũng chính là hệ thống thông gió tự nhiên hoàn hảo khiến lòng hang khá khô ráo, không khí thoáng đãng và ánh sáng đầy đủ.
Trong số hàng chục cỗ quan tài được đục từ nguyên thân gỗ lớn xếp đầy ba tầng hang động này đã có nhiều chiếc mục hỏng, lại bị cạy bật tấm ván thiên, nhưng nhìn chung phần lớn còn khá nguyên vẹn. “Lần trước lên đây, còn thấy ở hang ngoài có một cái đầu lâu vỡ, cũng nghĩ là cần bảo quản, nhưng tôi không dám đem xuống”, anh Đạt nói. Nền hang đầy phân dê, không rõ có tự bao giờ, lẫn trong những viên đá lạ, hình thù đẹp đẽ nằm vương vãi.
Ngoài những viên đá xanh tròn nhẵn có thể chỉ có dưới lòng sông Luồng, sông Mã, có một viên thạch anh trắng muốt, to và tròn như chiếc mũ cối. Rõ ràng khối thạch anh này là thứ đá được cố ý đem đến từ nơi khác, không thuộc phạm vi dãy núi này, còn nó có vai trò gì trong nghi thức mai táng thì không rõ.
Quan tài gỗ để ngổn ngang trong hang Ma.
Khi nhận được thông tin về những cỗ quan tài kỳ lạ, các nhà khoa học của Viện Khảo cổ học Việt Nam đã tức tốc lên đường về Quan Hóa để tìm hiểu thực địa, bước đầu xác định được niên đại và chủ nhân của những cỗ quan tài táng trên động núi này.
Theo tiến sĩ Nguyễn Gia Đối, Trưởng phòng Nghiên cứu thời kỳ đồ đá, Viện Khảo cổ học, người đã trực tiếp tham gia nghiên cứu tại Quan Hóa, thì việc các quan tài được đưa vào đặt trong động núi mà không chôn vùi hoàn toàn có thể giải thích.
Thuật ngữ chuyên ngành khảo cổ gọi nghi thức mai táng người chết này là huyền quan táng, nhai táng chế, nhai động táng hay ma nhai táng. Đây là hình thức để đưa quan tài của người chết vào an nghỉ trong các hang động trên vách núi đá cao, thẳng. Việc những chiếc quan tài đục từ nguyên thân cây gỗ được đặt trên các giá gỗ trong lòng động (chứ không phải đặt dưới nền) ở nơi đây là minh chứng thuyết phục nhất, xác thực nhất về hình thức huyền quan táng.
Từ các đồ vật táng cùng thu lượm được bên trong động và chất gỗ của các quan tài gỗ được gọt đẽo tinh xảo, các nhà khoa học xác định niên đại của chúng vào khoảng thời đại kim khí, trước sau công nguyên một thế kỷ, kéo dài tới thời Trần - Lê. Những mảnh xương chi, răng, sọ người cùng một số đồ tùy táng hiện còn lưu giữ được, cho phép xác định chủ nhân là tộc người Bách Việt, cư trú vùng phía Đông Nam sông Dương Tử.
“Chủ nhân của những cỗ quan tài chắc chắn là một tộc người thuộc dòng Bách Việt, đã cư trú ở vùng đất Quan Hóa từ ngàn năm trước. Còn là người Khơ Mú, người Mường hay người Thái cổ xưa thì chúng tôi đang nghiên cứu, hiện chưa đủ cứ liệu kết luận”, tiến sĩ Nguyễn Gia Đối cho biết.
PGS.TS Trình Năng Chung, Viện Khảo cổ học cho biết thêm: “Qua nghiên cứu ở những hang động huyền quan táng, tôi cho rằng, hình thức mai táng này xuất phát từ quan niệm của người xưa, con người được sinh ra từ đá và khi chết sẽ trở về nguồn cội là đá.
Cũng như một số hình thức mai táng khác của văn hóa cự thạch, xung quanh ngôi mộ là các hòn đá lớn dựng đứng, hoặc mộ đá, thể hiện quan niệm xưa rằng, linh hồn người chết nương tựa và bám vào trong các hòn đá".
Tại Việt Nam, những quan tài độc mộc trong động núi ở Quan Hóa là phát hiện đầu tiên và quy mô nhất về hình thức mai táng này. Ở các huyện Quan Sơn, Mường Lát (Thanh Hóa) cũng có hình thức mai táng tương tự, nhưng số lượng quan tài ít hơn nhiều.
Tại ngọn núi đá dựng đứng nằm ngay kề dòng sông Lò, thuộc bản Máy (xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn, Thanh Hóa) cũng có một hang động sâu chừng 15 mét, cao hơn 7mét. Trong động có khoảng 14 cỗ quan tài được đục từ nguyên thân các cây gỗ lớn nhỏ, chiếc nào cũng có một hoặc hai đầu chốt bằng gỗ. Chiếc quan tài lớn nhất dài chừng 2,7 mét, rộng khoảng 0,4 mét, nhỏ hơn một chút so với cỗ quan tài lớn nhất bên động Pó Cúng (Quan Hóa) và có khá nhiều quan tài nhỏ.
Cách quần thể hang động núi Pha Hang Quen không xa, ở các hang núi của Pha Dờn (bản Muỗng, xã Trung Xuân, Quan Sơn) cũng còn khá nhiều các cỗ quan tài như vậy. Hang núi Pha Dờn rộng rãi, cao thoáng như trong lòng một ngôi nhà sàn lớn, có nhiều hang hốc bên trong. Theo số đếm của anh Hà Văn Niêm, trưởng bản Muỗng, trong hang chứa khoảng hơn 50 tấm “thuyền”, tức khoảng gần 30 bộ quan tài cổ.
Theo VTC
Trèo đến hang, anh chăn dê toát mồ hôi khi thấy hàng chục cỗ quan tài gỗ xếp ngay ngắn trên các giá gỗ lớn khắp ba tầng hang.
Sông Luồng đoạn cách bãi Ca Da, ngã ba hợp lưu với sông Mã (Thanh Hóa) chừng vài trăm mét, dòng chảy xuyên qua vách núi đá Pha Hang Ma dựng đứng tạo nên một chiếc hang lớn có tên rùng rợn là hang Ma. Xuôi theo dòng chảy, trên cao chót vót đỉnh dốc đá dựng thẳng đứng, tưởng như không ai trèo lên được có một cửa động có tên là Pó Cúng (hay còn gọi là Lụng Buốc Mu).
Bãi đất bằng phía sau sườn núi Pha Hang Ma là một bãi tha ma với hơn 1.000 ngôi mộ cổ. Tương truyền, đó là mộ của nghĩa quân Lam Sơn do các tướng Lê Sát, Lê Hào và Khằm Ban chỉ huy, bị tử trận khi đánh đồn Tùng Hóa (trại Quan Da) của địch.
Với người dân địa phương, vùng đất hoang vu với những cái tên bí hiểm ấy chỉ càng nhắc bà con tránh xa, không đến gần làm gì. Nhưng rồi, một buổi chiều đông năm 1997, chân núi Pha Hang Ma xuất hiện một người dân bản Khằm (cách chừng 1,5 km) nặng nhọc trèo ngược dốc.
Từ hang Ma nhìn ra ngoài.
Mấy con dê nhà anh đi lạc vào trong núi. Tiếc của nên quên cả sợ hãi, anh cứ theo dấu phân dê mà đạp đá tai mèo, bẻ cây đu cành trèo tới. Bỗng anh giật thót mình, vì khuất trong lùm cây dại ngay trên đầu mình là một miệng hang lớn, đen ngòm bí hiểm. Thường ngày đứng bên kia sông Luồng, anh có nhìn thấy cửa động Pó Cúng nhỏ như hốc đá, chứ chưa thấy miệng hang này.
Định tụt xuống, nhưng tính tò mò trỗi dậy, anh lại quyết níu vào các rễ cây, bám theo vách núi dựng đứng leo lên khám phá. Vừa đu người trèo đến miệng hang, anh toát mồ hôi hột khi thấy trước mặt là hai cỗ quan tài to lớn, nằm chĩnh chện trên giá gỗ, án ngữ giữa lối vào.
Mặc dù rất khiếp sợ nhưng lúc đó không còn đủ sức để leo ngay xuống, anh liều lĩnh ngồi ngay cửa hang nghỉ. Nhìn vào trong, thấy miệng hang nhỏ nhưng bên trong khá rộng và sáng, nên anh tự tin bước vào. Thì ra đây là một lối vào khác của động Pó Cúng. Nhìn quanh quất trong hang, anh thấy thêm hàng chục cỗ quan tài gỗ lớn nhỏ khác xếp ngay ngắn trên các giá gỗ lớn khắp ba tầng hang rộng lớn.
Đem câu chuyện mắt thấy tay sờ này về kể trong các bữa rượu, anh chỉ nhận được những tiếng cười chế giễu. Bực mình, anh thách thức mấy người thanh niên khác theo mình trở lại động núi. Từ đó, anh chàng chăn dê này được coi là người đầu tiên phát hiện ra những chiếc quan tài bí ẩn đã được cất giấu dễ đến cả ngàn năm nay trong động núi Pha Hang Ma.
Do động Pó Cúng nằm trong khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hu nên anh Vũ Văn Đạt (lúc ấy là Phó Giám đốc Khu) vui vẻ dẫn đường. Đường chim bay thì ngắn, nhưng từ thị trấn Hồi Xuân muốn đến Pó Cúng phải lần lượt vượt qua cả sông Mã lẫn sông Luồng.
Núi Pha Hang không đồ sộ lắm, nhưng đường lên thì cực kỳ hiểm trở. Chỉ sơ sẩy một chút, tay bám trượt hay bất ngờ đạp đá dưới chân lở ra, thì toàn thân chắc sẽ như những quả dưa hấu bị người ta ném ra từ cửa sổ của tòa cao ốc.
Động Pó Cúng này có thể coi là rộng lớn và quy mô nhất trong số những động có táng quan tài cổ đã được tìm thấy ở Việt Nam. Động sâu chừng 30 mét, cao hơn 10 mét, được chia làm ba ngăn như ba gian nhà lớn mà tầng thứ ba là tầng chính. Hai cửa ra vào của động đều cao chừng 5 mét, rộng hơn 2 mét, cũng chính là hệ thống thông gió tự nhiên hoàn hảo khiến lòng hang khá khô ráo, không khí thoáng đãng và ánh sáng đầy đủ.
Trong số hàng chục cỗ quan tài được đục từ nguyên thân gỗ lớn xếp đầy ba tầng hang động này đã có nhiều chiếc mục hỏng, lại bị cạy bật tấm ván thiên, nhưng nhìn chung phần lớn còn khá nguyên vẹn. “Lần trước lên đây, còn thấy ở hang ngoài có một cái đầu lâu vỡ, cũng nghĩ là cần bảo quản, nhưng tôi không dám đem xuống”, anh Đạt nói. Nền hang đầy phân dê, không rõ có tự bao giờ, lẫn trong những viên đá lạ, hình thù đẹp đẽ nằm vương vãi.
Ngoài những viên đá xanh tròn nhẵn có thể chỉ có dưới lòng sông Luồng, sông Mã, có một viên thạch anh trắng muốt, to và tròn như chiếc mũ cối. Rõ ràng khối thạch anh này là thứ đá được cố ý đem đến từ nơi khác, không thuộc phạm vi dãy núi này, còn nó có vai trò gì trong nghi thức mai táng thì không rõ.
Quan tài gỗ để ngổn ngang trong hang Ma.
Khi nhận được thông tin về những cỗ quan tài kỳ lạ, các nhà khoa học của Viện Khảo cổ học Việt Nam đã tức tốc lên đường về Quan Hóa để tìm hiểu thực địa, bước đầu xác định được niên đại và chủ nhân của những cỗ quan tài táng trên động núi này.
Theo tiến sĩ Nguyễn Gia Đối, Trưởng phòng Nghiên cứu thời kỳ đồ đá, Viện Khảo cổ học, người đã trực tiếp tham gia nghiên cứu tại Quan Hóa, thì việc các quan tài được đưa vào đặt trong động núi mà không chôn vùi hoàn toàn có thể giải thích.
Thuật ngữ chuyên ngành khảo cổ gọi nghi thức mai táng người chết này là huyền quan táng, nhai táng chế, nhai động táng hay ma nhai táng. Đây là hình thức để đưa quan tài của người chết vào an nghỉ trong các hang động trên vách núi đá cao, thẳng. Việc những chiếc quan tài đục từ nguyên thân cây gỗ được đặt trên các giá gỗ trong lòng động (chứ không phải đặt dưới nền) ở nơi đây là minh chứng thuyết phục nhất, xác thực nhất về hình thức huyền quan táng.
Từ các đồ vật táng cùng thu lượm được bên trong động và chất gỗ của các quan tài gỗ được gọt đẽo tinh xảo, các nhà khoa học xác định niên đại của chúng vào khoảng thời đại kim khí, trước sau công nguyên một thế kỷ, kéo dài tới thời Trần - Lê. Những mảnh xương chi, răng, sọ người cùng một số đồ tùy táng hiện còn lưu giữ được, cho phép xác định chủ nhân là tộc người Bách Việt, cư trú vùng phía Đông Nam sông Dương Tử.
“Chủ nhân của những cỗ quan tài chắc chắn là một tộc người thuộc dòng Bách Việt, đã cư trú ở vùng đất Quan Hóa từ ngàn năm trước. Còn là người Khơ Mú, người Mường hay người Thái cổ xưa thì chúng tôi đang nghiên cứu, hiện chưa đủ cứ liệu kết luận”, tiến sĩ Nguyễn Gia Đối cho biết.
PGS.TS Trình Năng Chung, Viện Khảo cổ học cho biết thêm: “Qua nghiên cứu ở những hang động huyền quan táng, tôi cho rằng, hình thức mai táng này xuất phát từ quan niệm của người xưa, con người được sinh ra từ đá và khi chết sẽ trở về nguồn cội là đá.
Cũng như một số hình thức mai táng khác của văn hóa cự thạch, xung quanh ngôi mộ là các hòn đá lớn dựng đứng, hoặc mộ đá, thể hiện quan niệm xưa rằng, linh hồn người chết nương tựa và bám vào trong các hòn đá".
Tại Việt Nam, những quan tài độc mộc trong động núi ở Quan Hóa là phát hiện đầu tiên và quy mô nhất về hình thức mai táng này. Ở các huyện Quan Sơn, Mường Lát (Thanh Hóa) cũng có hình thức mai táng tương tự, nhưng số lượng quan tài ít hơn nhiều.
Tại ngọn núi đá dựng đứng nằm ngay kề dòng sông Lò, thuộc bản Máy (xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn, Thanh Hóa) cũng có một hang động sâu chừng 15 mét, cao hơn 7mét. Trong động có khoảng 14 cỗ quan tài được đục từ nguyên thân các cây gỗ lớn nhỏ, chiếc nào cũng có một hoặc hai đầu chốt bằng gỗ. Chiếc quan tài lớn nhất dài chừng 2,7 mét, rộng khoảng 0,4 mét, nhỏ hơn một chút so với cỗ quan tài lớn nhất bên động Pó Cúng (Quan Hóa) và có khá nhiều quan tài nhỏ.
Cách quần thể hang động núi Pha Hang Quen không xa, ở các hang núi của Pha Dờn (bản Muỗng, xã Trung Xuân, Quan Sơn) cũng còn khá nhiều các cỗ quan tài như vậy. Hang núi Pha Dờn rộng rãi, cao thoáng như trong lòng một ngôi nhà sàn lớn, có nhiều hang hốc bên trong. Theo số đếm của anh Hà Văn Niêm, trưởng bản Muỗng, trong hang chứa khoảng hơn 50 tấm “thuyền”, tức khoảng gần 30 bộ quan tài cổ.
Theo VTC