Mời tất cả Huynh Đệ Tỷ Muội xem câu chuyện... Lịch Sử về cây Đại Long Đao của Vua bị lưu lạc 500 năm..
Thanh long đao dài 2,55m, nặng 25,6kg hiện đang được lưu thờ tại khu tưởng niệm vương triều Mạc (xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Đây là thanh đao khá đặc biệt, phần cuối lưỡi đao khắc hình đầu rồng đang há miệng nuốt lấy lưỡi đao. Báu vật này được dòng họ Mạc tìm thấy sau nhiều thế kỷ thất lạc.
Đại long đao dựng triều Mạc
Năm 1527, triều Lê Sơ suy tàn, hoàng đế Lê Cung Hoàng đã hạ chiếu nhường ngôi cho Thái sư Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung (1483-1541) là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kim Môn, trấn Hải Dương (nay là làng Cổ Trai, Ngũ Đoan, Kiến Thụy, Hải Phòng).
Nhờ có thanh đại long đao - vũ khí bất ly thân - Mạc Đăng Dung đã đoạt chức vô địch trong cuộc thi tuyển dũng sĩ tại Giảng Võ đường ở Thăng Long thời Lê Sơ. Ông đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (Võ Trạng nguyên), được sung quân Túc vệ.
Với thanh đại long đao, Mạc Đăng Dung đã xông pha trận mạc và bách chiến bách thắng trong các cuộc dẹp loạn: Cù Khắc Xương, Trần Công Vụ, Lê Quảng Độ rồi Trần Thăng ở Thái Nguyên, Lạng Sơn đến Nguyễn Hoằng Dụ ở Thanh Hóa. Do lập nhiều công lớn, dẹp loạn các phe phái, bảo vệ triều đình nên ông được phong tới chức Thái sư, tước An Hưng vương, đức trí bậc nhất triều đình.
Ông Mạc Như Thiết - Trưởng chi họ Mạc ở Cổ Trai kể lại quá trình lưu lạc của thanh đại long đao. Mạc Đăng Dung lên ngôi, lập ra triều Mạc, lấy niên hiệu Minh Đức. Trị vì đến năm 1529, ông nhường ngôi và trao lại thanh đại long đao cho con cả Mạc Đăng Doanh. Sau đó, ông về nơi sinh thành là làng Cổ Trai xây dựng Dương Kinh - kinh đô thứ hai của triều Mạc, đô thị ven biển đầu tiên của Việt Nam.
Tại đây, có thương cảng sầm uất, quân đội hùng mạnh, thậm chí có cả trường Quốc gia học, tương đương với Quốc Tử Giám ở Thăng Long.
Khi Mạc Thái Tổ băng hà, đại long đao được đem về thờ ở lăng miếu làng Cổ Trai. Năm 1592, nhà Mạc thất thủ ở Thăng Long, Mạc Đăng Thận (cháu 4 đời của Mạc Đăng Dung), là người coi giữ lăng miếu, đã giả làm nhà buôn, mang theo long đao của Tiên đế xuống thuyền rời Đồ Sơn.
Đoàn thuyền tiến về phía Nam, vào vùng cửa sông Hồng, đến cửa Lạn Môn thì dừng lại, tìm đến đất Kiên Lao (Nam Định) định cư.
Nghe lời Quốc công Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông cùng gia quyến đổi sang họ Phạm để tránh bị nhà Trịnh truy sát diệt vong.
Ông đổi họ Mạc thành họ Phạm, song vẫn giữ lại bộ thảo đầu của chữ "Mạc" để con cháu đời sau ghi nhớ tín hiệu nhận ra nhau. Trải qua bốn đời ở vùng Kiên Lao, dòng họ Phạm gốc Mạc có sự phân chi. Ông Phạm Công Úc được giao mang đại long đao về định cư ở vùng Ngọc Tỉnh và thờ ở từ đường chi họ Phạm gốc Mạc.
Trải qua bao biến cố thăng trầm, theo gia phả dòng họ, thời vua Lê Dụ Tông, hai người con trai Phạm Công Úc là Phạm Công Dục và Phạm Công Dắt lên kinh đô thi võ. Hai ông đã xin vua cha cho phép làm lễ rước thanh long đao của Mạc Thái Tổ, cầu xin anh linh Tiên đế và linh khí bảo đao phù trợ. Khoa thi ấy, cả hai ông đều đỗ võ quan, được triều đình tuyển dụng.
Ông Phạm Công Dục theo vua Lê đi dẹp loạn, sau được thăng tới chức Đô thống phủ Tả Đô đốc Lê triều Kiệt trung tướng quân, tước Dục Trung hầu. Ông Phạm Công Dắt được phong chức Quản Hữu chấn cơ Tín nghĩa Đô úy, tước Phạm sứ hầu. Từ đấy, linh ứng bảo đao của Mạc Thái Tổ độ trì cho con cháu hậu duệ nhiều đời sau đỗ đạt.
Triều vua Minh Mạng (1821), Phan Bá Vành khởi binh, chống lại triều đình, muốn dùng long đao của Mạc Thái Tổ làm linh khí trên chiến địa. Họ Phạm ở Ngọc Tỉnh đã kịp thời chôn giấu đại long đao, không để mất long đao của Tiên đế. Nhiều năm trôi qua, dấu tích nơi chôn giấu không còn, thanh long đao bị thất lạc.
|
|